Trường tôi nôi yêu thương

TRƯỜNG TÔI NÔI YÊU THƯƠNG

Đời vui người khỏe mãi
Cuộc đời hơn trang văn
Thầy bạn là lộc xuân
Một niềm tin thắp lửa

Chúc mừng quý Thầy Cô và các bạn Nông Học 20 Ngày Họp Mặt. Chúc mừng cô Nguyễn Thị Chắt chùm ảnh mới thật đẹp! xin tích hôp về trang Trường tôi nôi yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/truong-toi-noi-yeu-thuong/

TRƯỜNG TÔI NÔI YÊU THƯƠNG

Đường Xuân Đời Quên Tuổi
Vui Bước Tới Thảnh Thơi
Ban Mai Chào Ngày Mới
Thầy Bạn Trong Đời Tôi

“Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh”. Tòa nhà Phượng Vĩ Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hôm nay là khối nhà chữ U do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ khôi nguyên La Mã xây dựng vừa hoàn thành đưa vào sử dụng năm 1974. Trường tôi có lịch sử hình thành từ Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục BLao (Bảo Lộc) năm 1955. Khóa 1 và khóa 2 chúng tôi là lớp sinh viên đầu tiên của mái trường này. Tại tòa nhà chính lộng lộng trên cao kia là dòng chữ nổi bật “KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; mãi sau này, đến nhiệm kỳ 1989-1994, thầy Trịnh Xuân Vũ, Phó Hiệu Trưởng Nhà trường mới đưa trở về biểu tượng Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh. Trường tôi thấm sâu bài học lịch sử; Nghị lực và Ơn Thầy; Thầy bạn trong đời tôi; Về Trường để nhớ để thương; Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/truong-toi-noi-yeu-thuong/

TRƯỜNG TÔI THẤM SÂU BÀI HỌC LỊCH SỬ

Trường tôi nôi yêu thương. Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh trong muôn vàn chỉ dấu thì tòa nhà Phượng Vĩ là biểu tượng tiêu biểu. Theo thông tin lưu dấu ở bài Dinh Thống Nhất vườn Tao Đàn Trường tôi và lòng thương yêu gửi lại của thầy Lưu Trọng Hiếu thì khối nhà chữ U trường tôi là một trong bốn công trình chính liên hoàn do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ là tổng công trình sư xây dựng: Chữ T dinh Độc Lập, chữ H chợ Đà Lạt, chữ U Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn và dấu nặng (.) Hồ Con Rùa. Đó là bốn kế lớn chấn hưng đất nước “vua sáng, kinh tế, nông nghiệp, nội chính” .

Biểu tượng Dinh Độc lập (hình chữ T) với ý nghĩa đất nước muốn giàu mạnh, thì trước hết người lãnh đạo đất nước phải là “bậc minh quân hiền tài”, trọng “quân đức, dân tâm, học pháp”, biết “chăm lo sức dân để lập đại kế sâu rễ bền gốc” bảo tồn và phát triển bền vững năng lực Quốc gia.

Biểu tượng Chợ Đà Lạt (hình chữ H) với ý nghĩa trọng tâm của nổ lực quốc gia là phải phát triển kinh tế (phi thương bất phú), mở mang giao thương, chấn hưng nghiệp cũ, phát triển nghề mới, khuyến học dạy dân, “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm” (Nguyễn Trãi), “chú trọng mậu dịch buôn bán, lấy việc thông thương an toàn làm chữ Nghĩa (Nguyễn Hoàng), chú trọng lao động để dân giàu nước mạnh.

Biểu tượng Trường Đại Học Nông Nghiệp Sài Gòn (hình chữ U) với ý nghĩa là phải chấn hưng giáo dục đại học, phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là giáo dục phát triển nông nghiệp để nâng cao thu nhập, sinh kế, việc làm và an sinh xã hội, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản (dĩ nông vi bản) vì quá nữa người Việt làm nghề nông.

Và sau cùng là biểu tượng Hồ Con Rùa (hình dấu (.) nặng) với ý nghĩa là nội chính an dân, thượng tôn pháp luật, kỷ cương phép nước, giữ vững bờ cõi, bảo tồn nguyên khí, thương yêu dân chúng an vui lạc nghiệp, “biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời” (Lời chúa Nguyễn Hoàng dặn chúa Nguyễn Phúc Nguyên),

Biết bao chuyện trước và sau ngày 30 tháng 4 và ngày 1 tháng 5 mà lịch sử chân thực sẽ còn phải nhiều lần quay lại. Với gia đình tôi, tấm ảnh hai anh em ruột ôm nhau ngày gặp mặt giữa Sài Gòn giải phóng hòa chung trong sự khao khát mong đợi của hàng triệu người. Tháng năm nhớ lại và suy ngẫm là bức tranh của một gia đình nông dân Việt bình thường ‘cuốn theo chiều gió” trong số phận của đất nước, dân tộc.
Sau tháng năm, đơn vị tôi ra làm đường biên giới ở Tiên Yên Móng Cái của tỉnh Quảng Ninh và đoàn 568 của sư đoàn 325B sau này là nòng cốt của sư đoàn 356 nước mắt Vị Xuyên. Tôi trở về lại mái trường xưa, anh trai tôi tiếp tục sang Campuchia “giúp bạn cũng là giúp mình” nhiều năm, sau thời gian quân quản thành phố.

“Nghị lực” và “Ơn Thầy” là hai bài thơ người lính trở về sau chiến tranh.

/

#cnm365 dẫn nguồn tin của Phòng Thông tin Truyền thông Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 1 năm 2024:

ĐẦM ẤM BUỔI HỌP MẶT THẦY CÔ, VIÊN CHỨC HƯU TRÍ TRƯỜNG ĐẠI NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Trong không khí rộn ràng của những ngày chuẩn bị bước sang năm mới, sáng 30/01/2024, Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Ban chấp hành Công đoàn Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức buổi gặp mặt chúc tết Thầy Cô, viên chức hưu trí các thời kỳ. Đây là hoạt động truyền thống tốt đẹp của Nhà trường cứ mỗi dịp Tết đến Xuân về nhằm tri ân Thầy Cô, viên chức có những đóng góp cho sự nghiệp giáo dục đào tạo của Nhà trường trong những năm qua. 

 Tham dự buổi họp mặt có TS. Bùi Ngọc Hùng – Bí thư Đảng ủy – Chủ tịch Hội đồng trường;  PGS.TS. Nguyễn Tất Toàn – Hiệu trưởng Nhà trường; TS. Trần Đình Lý – Phó hiệu trưởng; TS. Nguyễn Thị Mai – Thường vụ Đảng ủy, ThS. Hoàng Thị Mỹ Hương – Thường vụ Đảng ủy, Chủ tịch Công đoàn Trường, Ban chấp hành Công đoàn; Đoàn Thanh niên cùng cán bộ viên chức, giảng viên đang công tác tại Trường.


PGS.TS.Nguyễn Tất Toàn – Hiệu trưởng nhà Trường phát biểu tại buổi họp mặt Thầy Cô, viên chức hưu trí

 Thay mặt Lãnh đạo, PGS.TS. Nguyễn Tất Toàn – Hiệu trưởng nhà Trường báo cáo với Thầy Cô, viên chức hưu trí những thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực hoạt động của Nhà trường năm 2023 trong chiến lược Đào đạo, Khoa học công nghệ, Phục vụ cộng đồng và các hoạt động quan trọng khác như Kiểm định chất lượng, Cơ sở vật chất, Chuyển đổi số; và đặc biệt là hướng tới chuỗi sự kiện Kỷ niệm 70 năm thành lập Trường (1955-2025). Buổi gặp mặt là dịp để Thầy Cô, viên chức hưu trí gặp gỡ, trò chuyện, ôn lại những năm tháng gắn bó, cùng kề vai, chung sức vượt qua khó khăn, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo dục – đào tạo và nghiên cứu khoa học. 
Thầy Trịnh Xuân Vũ đại diện Thầy Cô, viên chức hưu trí phát biểu tại buổi họp mặt

 PGS.TS. Nguyễn Tất Toàn gửi lời tri ân sâu sắc tới Thầy Cô, viên chức hưu trí về những công lao, trí lực, tâm huyết đã cống hiến cho nhà Trường trong suốt 69 năm xây dựng và phát triển. Với những danh hiệu cao quý mà Đảng và Nhà nước trao tặng cho Nhà trường đều có sự đóng góp công sức to lớn của các thế hệ Tiền nhân.

Nhân dịp đầu năm mới 2024 và chuẩn bị đón Xuân Giáp Thìn 2024, thay mặt tập thể lãnh đạo và toàn thể cán bộ, giảng viên, học viên và sinh viên trong toàn Trường, PGS.TS. Nguyễn Tất Toàn gửi lời chúc mừng năm mới, lời chúc mạnh khoẻ, an vui tới các thế hệ Thầy Cô, viên chức hưu trí cùng lời chúc hạnh phúc, hạnh phúc là điều trong tâm mọi người đều hướng đến. Mong Thầy Cô, viên chức hưu trí tiếp tục dõi theo và đóng góp cho sự nghiệp giáo dục và phát triển của Nhà trường trong thời gian tới.
 
Lãnh đạo nhà Trường tặng hoa tri ân Thầy Cô, viên chức hưu trí

 Cùng với đó, những cánh thiệp chúc tết được Ban tổ chức tận tâm chuẩn bị, mang những ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Những cánh thiệp đến từ chính đôi bàn tay của đội ngũ Thầy Cô, CBVC trẻ Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh bằng tất cả sự chăm chút, tỉ mỹ và sáng tạo, mang nhiều ý nghĩa được trao đến cho quý Thầy cô, cán bộ hưu trí như một lời tri ân sâu sắc, một lời chúc vô cùng tốt đẹp với tất cả sự kính trọng, lòng biết ơn gửi trao đến thế hệ Tiền nhân.

Buổi gặp mặt diễn ra trong không khí vui tươi, trang trọng, đầm ấm và nghĩa tình. Đây cũng là dịp để các thế hệ Thầy Cô, viên chức hưu trí cùng nhau ôn lại những kỉ niệm trong thời gian công tác tại Trường, những vui buồn trong sự nghiệp “trồng người” của mình.

Một số hình ảnh khác tại buổi gặp mặt: https://go.hcmuaf.edu.vn/GapMatXuanGiapThin2024

Phòng Thông tin Truyền thông
https://4t.hcmuaf.edu.vn/contents.php?ur=4t&ids=42220

Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, Khoa Nông Học ĐHNL HCM họp mặt 30 1 2024 một số hình ảnh tư liệu #cnm365

VỀ TRƯỜNG ĐỂ NHỚ THƯƠNG

Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
Về Trường để nhớ thương
Một niềm tin thắp lửa


Hoàng Kim

CON NGUYỆN LÀM HOA LÚA

Bác ơi !
Con nguyện làm Hoa Lúa
Thầy nghề nông chiến sĩ
Đường xuân theo chân Bác
Trọn đời Trung Hiếu hi sinh.


https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-nghe-nong-chien-si

Congviecnaytraolaichoem

Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh ngày 19 11 là ngày truyền thống thành lập của hai khoa song sinh Nông Lâm là Khoa Nông học & Khoa Lâm Nghiệp (tiền thân là Khoa Thủy Lâm, trước ngày Việt Nam thống nhất)

xem tiếp Vườn Quốc gia Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-quoc-gia-viet-nam/

Xuân Mới Sức Sống Mới

Hoa Mai Và Mùa Xuân

Nông Lâm chung mái ấm
Viên Ngọc Nam Hoàng Kim
Trường tôi nôi yêu thương
Vườn Quốc Gia Việt Nam.

Hoàng Kim (thơ cảm ơn) @ Viên Ngọc Nam (ảnh hoa mai & chân dung)
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/truong-toi-noi-yeu-thuong & https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-quoc-gia-viet-nam/

TRƯỜNG TÔI NÔI YÊU THƯƠNG

Đại học Nông Lâm thật thích
Bạn thầy vui thật là vui
Sân Trường giảng đường ấm áp
Đường xuân phơi phới tuyệt vời

Hình như mọi người trẻ lại
Hình như người ấy đẹp hơn
Hình như tre già măng mọc
Nắng mai soi giữa tâm hồn.

Thầy bạn trong ngoài thiện nguyện
Về Trường chia sẻ động viên
Trang sách trang đời lắng đọng
Yêu thương bao cuộc đời hiền

Thầy bạn ngày vui hẹn gặp
Lời thương mong ước bình an
Tình khúc Nông Lâm ngày mới
Sức xuân Tự nguyện Lên đàng

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là ve-truong-de-nho-thuong-1-2.jpg

Bài đăng trên Kỷ Yếu 65 năm Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh trang 146; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ve-truong-de-nho-thuong/

Hình ảnh Họp mặt Hưu trí 28 tháng 1 năm 2021

Ngày Nhà Giáo Việt Nam ở Trường tôi năm 2020 có nhiều chuyện vui và thật cảm động. Anh Đoàn Nhật Châu cùng với các anh chị Bùi Đức Hàn, LS Nguyen Huu Duc, Thanhminh Nguyen, Huỳnh Hồng , Hung Huynh; Tuấn Lê; Xuyen Ho; Tuan Nguyen,… với nhiều anh chi khác, đa số là từ khóa 15 U70 của Cựu SV Nông Nghiệp ( Đại Gia Đình NÔNG LÂM MỤC SÚC ), những lớp cựu sinh viên ngay trước ngày Việt Nam thống nhất, mà ngày nay phần lớn làm thầy cô và chuyên gia trên nhiều lĩnh vực. Họ cùng nhau về Trường và lưu dấu video Cựu sinh viên Khóa 15 (1973) THAM DỰ KỶ NIỆM 65 NĂM KHOA NÔNG HỌC https://www.facebook.com/chau.doannhat/posts/3550807504980087 của anh Đoàn Nhật Châu và bạn hữu. Video thật tuyệt vời !

KỶ YẾU 65 NĂM TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH https://kyyeunonglam.blogspot.com/2020/11/ky-yeu-65-nam-truong-ai-hoc-nong-lam.html.

KỶ YẾU KHOA NÔNG HỌC 65 năm thành lập Khoa mời vào đường link để xem chi tiết https://kyyeunonghoc.blogspot.com/2020/11/ky-yeu-ky-niem-65-nam-thanh-lap-khoa.html

Chuyện thầy Tôn Thất Trình là ghi chép nhỏ của Hoàng Kim về thầy Tôn Thất Trình, chuyện ngoài chính sử chưa có trong kỷ yếu. Đây là những ghi chép cá nhân, chỉ có ít trích đoạn đã lưu tại kỷ yếu 55 năm khoa Nông học thuở trước Tôi cảm phục, tâm đắc về nhân cách, trí tuệ, sự dạy và học của Thầy nên lưu lại Điều này là sự học Lê Quý Đôn tinh hoa chép lại những ghi chú nhỏ (Notes) không nỡ quên này. (xem tiếp…)

Về Trường để nhớ thương
Trường tôi nôi yêu thương
Thầy bạn trong đời tôi

Về Trường để nhớ thương
(hình ảnh bảo tồn phát triển)

MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA

Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
Chợt thấy lòng rưng rưng.
Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
Cố lên em nổ lực không ngừng !

Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo.
Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.
Thêm bữa cơm ngon cho người lao động.
Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

Em ơi hãy học làm ruộng giỏi.
Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng.
Người dân khá hơn là niềm ao ước
Công việc này giao lại cho em.

Có một mùa Vu Lan hạnh phúc
Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
Thương con vạc gọi sao mai dậy sớm
Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
HỌC ĐỂ LÀM người lao động siêng năng
Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.


Hoàng Kim

Chúc mừng các em sinh viên! Chúc mừng Thầy Huỳnh Thanh Hùng,Thầy Trần Đình Lý và quý Thầy Cô trong buổi Lễ Tốt Nghiệp trang trọng. Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ. Chợt thấy lòng rưng rưng. Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc. Cố lên em nổ lực không ngừng ! Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo. Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.Thêm bữa cơm ngon cho người lao động. Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng

xem tiếp Về Trường để nhớ thương

Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
Một niềm tin thắp lửa
Về Trường để nhớ thương

Về Trường để nhớ thương.
THƯ TRƯỜNG NGÀY NHỚ BÁC

Dấu xưa thầy bạn quý
Về Trường để nhớ thương.
Một niềm tin thắp lửa
Trường tôi nôi yêu thương


Thầy bạn là lộc xuân
Sông Thương ngày trở lại
Vận khí và vận mệnh
Thao thức nhịp thời gian


Thăm thẳm đất miền Trung
Câu chuyện đứng trước biển
Đường xuân theo chân Bác
Giấc mơ lành yêu thương


Hoàng Kim

Kính chúc Trường Đại Học Nông Lâm Đại học Huế Thầy Bạn Đoàn kết Chất lượng Trách nhiệm Sáng tạo Hội nhập với triết lý giáo dục nền tảng tuyệt vời Phát triển toàn diện; Gắn với thị trường lao động; Hội nhập Quốc tế, tỏa sáng tinh hoa là một trong những trường đại học hàng đầu về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. (Kim Hoàng dịp hội trường lần này không sắp xếp về được. Trân trọng cám ơn và chúc mừng quý thầy bạn) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ve-truong-de-nho-thuong/

DẤU XƯA THẦY BẠN QUÝ
Hoàng Kim

Thầy bạn là lộc xuân. “Dù chúng ta đang ở đâu, chính thầy bạn đã tạo nên thế giới”. Thầy bạn quý đã lưu dấu đặc biệt sâu sắc trong đời mỗi chúng ta. Kính chào thầy bạn thân thương. Gặp nhau hay ngắm ảnh là quý lắm rồi; xin chúc mừng thầy bạn và tỏ lời biết ơn chân thành. Lời thương “Ta đi về chốn trong ngần Để thương sỏi đá cũng cần có nhau”. Cao hơn trang văn là cuộc đời. Ngắm hình ảnh thầy bạn, lòng tôi thật bồi hồi xúc động. Hoàng Kim bảo tồn một ít hình ảnh tư liệu của 5 lớp bạn học và 6 lớp trường đời: Trồng trọt 4, lớp sinh viên xếp bút nghiên lên đường ra trận; Trồng trọt 10; Trồng trọt 2A; Trồng trọt 2B; Trồng trọt 2C của Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc (là tiền thân Trường Đại học Nông Lâm Huế và Trường Đại học Bắc Giang), với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam hiện nay. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dau-xua-thay-ban-quy/..

Đại Học Huế Trường Đại học Nông Lâm kỷ niệm 50 năm cán bộ, giảng viên, sinh viên Đại học Nông nghiệp 2 Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế lên đường nhập ngũ, Thừa Thiên Huế ngày 29 tháng 8 năm 2022. Bài viết đỉnh của Hoàng Hải Hưng 50 năm – Cuộc gặp mặt ân tình và xúc động https://lsvn.vn/50-nam-cuoc-gap-mat-an-tinh-va-xuc-dong1661826775.html

“Trong số những người lên đường ngày ấy, ngày kỉ niệm 50 năm này chỉ được hơn một phần ba về gặp mặt. Tuy số lượng không được đủ nhưng khi gặp lại nhau ai cũng mừng mừng, tủi tủi” . 50 năm – Cuộc gặp mặt ân tình và xúc động Báo Luật sư Việt Nam , 30/ 08/ 2022 09:32 đưa tin.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thanh Đức, Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng nhà trường, thay mặt lãnh đạo nhà trường báo cáo thành tích của nhà trường trong 50 năm qua. Trong những năm mới thành lập tại tỉnh Hà Bắc vô cùng khó khăn, nhà cửa bằng tranh tre, nứa lá, vách xây bằng đất sét đổ khuôn, mái lợp bằng lá cọ, nhưng nhà trường luôn đạt thành tích cao trong dạy và học. Sau khi đất nước thống nhất có hàng trăm sinh viên nhà trường xung phong vào các tỉnh Bình Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Thuận Hải, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, miền Tây Nam Bộ, Côn Đảo chi viện đắc lực cho các địa phương phục hồi sản xuất, phục hồi kinh tế. Hiện nay, nhà trường có 4 Giáo sư, 34 Phó Giáo sư, 115 Tiến sĩ, số giảng viên có trình độ Tiến sĩ chiếm 46%. Nhà trường thực hiện phương châm: “Phát triển toàn diện, gắn với thị trường lao động, hội nhập quốc tế”. Nhà trường luôn đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, chủ động đa dạng hóa và mở rộng quy mô đào tạo một cách hợp lý, nâng cao chất lượng, đào tạo toàn diện, đáp ứng nhu cầu nguồn lực chất lượng cao trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đến nay nhà trường có 28 ngành nghề đào tạo hệ đại học chính quy, 11 ngành đào tạo Thạc sĩ và 9 ngành đào tạo Tiến sĩ, quy mô đào tạo 4.200 sinh viên, học viên. Trải qua 50 năm xây dựng và phát triển nhà trường đã đào tạo cung cấp nguồn lực chất lượng cao, sản phẩm khoa học, công nghệ tiên tiến theo hướng hội nhập và phát triển. Cung cấp cho đất nước 35.000 kỹ sư, 2.700 Thạc sĩ, trên 80 Tiến sĩ.50 năm – Cuộc gặp mặt ân tình và xúc động Báo Luật sư Việt Nam , 30/ 08/ 2022 09:32 thông tin tiếp.

Hội cựu giáo viên, sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp II Hà Bắc ngày 28 8 2022 gặp mặt thân mật kỷ niệm 50 năm ngày lên đường nhập ngũ (2/9/1971- 2/9/2022). Video link ĐHNLHuế kỷ niệm 50 năm nhập ngũ https://youtu.be/E1e-kGj-BnYhttps://youtu.be/7c4WQm58oHg

Chúc mừng chuỗi sự kiện mới 25/8-2/9/2022 liên tục tại #cnm365 #cltvn 25 tháng 8; #cnm365 #cltvn 26 tháng 8; cnm365 #cltvn 27 tháng 8; #cnm365 #cltvn 28 tháng 8; #cnm365 #cltvn 29 tháng 8; #cnm365 #cltvn 30 tháng 8; #cnm365 #cltvn 31 tháng 8; #cnm365 #cltvn 1 tháng 9 ; #cnm365 #cltvn 2 tháng 9; chuỗi sự kiện của năm năm trước Video Kỷ niệm 50 năm Trường Đại học Nông Lâm Huế; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dau-xua-thay-ban-quy

Trường tôi nôi yêu thương, Một niềm tin thắp lửa. Tôi viết bài này để tỏ lòng biết ơn thầy bạn dưới mái trường Nông Lâm thân thương và làm món quà nhỏ thân tặng cho các em sinh viên nghèo hiếu học.Thầy bạn là lộc xuân, Thầy bạn trong đời tôi; Lời Thầy dặn thung dung; Về Trường để nhớ thương. Đời tôi mà nếu thiếu sự động viên, giúp đỡ này thì tôi không thể có được ngày hôm nay:“Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin”. Thật hạnh phúc và yêu thích khi “Ta vui hòa nhịp thời gian Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường”. Thông tin gia đình Nông nghiệp tại sự kiện hội trường ngày Độc Lập mới nhất và các tư liệu cá nhân được bảo tồn tại đây https://cnm365.wordpress.com/https://hoangkimvn.wordpress.com Ngày Hạnh Phúc là ngày luôn ấm áp tình thầy bạn. Lời thương sâu sắc lắng đọng

Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cp nht mi ngày

Video nhạc tuyển

DHNL1

Phát sốt trước bộ ảnh kỷ yếu ngộ nghĩnh của sinh viên Đại học Nông Lâm TP. HCM

DHNL2

Bấm vào đây xem tiếp không chỉ ảnh đẹp mà lời bình rất ngộ và hay !

Về Trường để nhớ thương.
THƯ TRƯỜNG NGÀY NHỚ BÁC
Hoàng Kim


Dấu xưa thầy bạn quý
Về Trường để nhớ thương.
Một niềm tin thắp lửa
Trường tôi nôi yêu thương

Thầy bạn là lộc xuân
Sông Thương ngày trở lại
Vận khí và vận mệnh
Thao thức nhịp thời gian

Thăm thẳm đất miền Trung
Câu chuyện đứng trước biển
Đường xuân theo chân Bác
Giấc mơ lành yêu thương

Kính chúc Trường Đại Học Nông Lâm Đại học Huế Thầy Bạn Đoàn kết Chất lượng Trách nhiệm Sáng tạo Hội nhập với triết lý giáo dục nền tảng tuyệt vời Phát triển toàn diện; Gắn với thị trường lao động; Hội nhập Quốc tế, tỏa sáng tinh hoa là một trong những trường đại học hàng đầu về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. (Kim Hoàng dịp hội trường lần này không sắp xếp về được. Trân trọng cám ơn và chúc mừng quý thầy bạn) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ve-truong-de-nho-thuong/

DẤU XƯA THẦY BẠN QUÝ
Hoàng Kim

Thầy bạn là lộc xuân. “Dù chúng ta đang ở đâu, chính thầy bạn đã tạo nên thế giới”. Thầy bạn quý đã lưu dấu đặc biệt sâu sắc trong đời mỗi chúng ta. Kính chào thầy bạn thân thương. Gặp nhau hay ngắm ảnh là quý lắm rồi; xin chúc mừng thầy bạn và tỏ lời biết ơn chân thành. Lời thương “Ta đi về chốn trong ngần Để thương sỏi đá cũng cần có nhau”. Cao hơn trang văn là cuộc đời. Ngắm hình ảnh thầy bạn, lòng tôi thật bồi hồi xúc động. Hoàng Kim bảo tồn một ít hình ảnh tư liệu của 5 lớp bạn học và 6 lớp trường đời: Trồng trọt 4, lớp sinh viên xếp bút nghiên lên đường ra trận; Trồng trọt 10; Trồng trọt 2A; Trồng trọt 2B; Trồng trọt 2C của Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc (là tiền thân Trường Đại học Nông Lâm Huế và Trường Đại học Bắc Giang), với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam hiện nay. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dau-xua-thay-ban-quy/..

Video links K4 ĐHNN2 Về nguồn: Dấu xưa thầy bạn quý 1 https://youtu.be/jjcyeTAWkSk Dấu xưa thầy bạn quý 2 https://youtu.be/CPMB8HO2o18 Dấu xưa thầy bạn quý 3 https://youtu.be/TRydNh_CsLQ Dấu xưa thầy bạn quý 4 https://youtu.be/ZbRn5E3v1Tg, Dấu xưa thầy bạn quý 5 https://youtu.be/M_UzejaF-iw; Dấu xưa thầy bạn quý 6 https://youtu.be/3GhnJ7_DH9s; Dấu xưa thầy bạn quý video6 https://youtu.be/xiquHaK6MZU Dấu xưa thầy bạn quý video7 https://youtu.be/6zS6abrz78A; Dấu xưa thầy bạn quý video 8 https://youtu.be/vMX87Cxfitw; Dấu xưa thầy bạn quý video9 https://youtu.be/twd3XP6uPBQ video của Đỗ Huy Bằng, Lâm Quang Hinh. Hoàng Kim tích hợp thông tin tại https//hoangkimlong.wordpress.com/category/dau-xua-thay-ban-quy/; (phần đọc thêm là tư liệu cá nhân để nhớ)

Đại Học Huế Trường Đại học Nông Lâm kỷ niệm 50 năm cán bộ, giảng viên, sinh viên Đại học Nông nghiệp 2 Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế lên đường nhập ngũ, Thừa Thiên Huế ngày 29 tháng 8 năm 2022. Bài viết đỉnh của Hoàng Hải Hưng 50 năm – Cuộc gặp mặt ân tình và xúc động https://lsvn.vn/50-nam-cuoc-gap-mat-an-tinh-va-xuc-dong1661826775.html

“Trong số những người lên đường ngày ấy, ngày kỉ niệm 50 năm này chỉ được hơn một phần ba về gặp mặt. Tuy số lượng không được đủ nhưng khi gặp lại nhau ai cũng mừng mừng, tủi tủi” . 50 năm – Cuộc gặp mặt ân tình và xúc động Báo Luật sư Việt Nam , 30/ 08/ 2022 09:32 đưa tin.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thanh Đức, Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng nhà trường, thay mặt lãnh đạo nhà trường báo cáo thành tích của nhà trường trong 50 năm qua. Trong những năm mới thành lập tại tỉnh Hà Bắc vô cùng khó khăn, nhà cửa bằng tranh tre, nứa lá, vách xây bằng đất sét đổ khuôn, mái lợp bằng lá cọ, nhưng nhà trường luôn đạt thành tích cao trong dạy và học. Sau khi đất nước thống nhất có hàng trăm sinh viên nhà trường xung phong vào các tỉnh Bình Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Thuận Hải, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, miền Tây Nam Bộ, Côn Đảo chi viện đắc lực cho các địa phương phục hồi sản xuất, phục hồi kinh tế. Hiện nay, nhà trường có 4 Giáo sư, 34 Phó Giáo sư, 115 Tiến sĩ, số giảng viên có trình độ Tiến sĩ chiếm 46%. Nhà trường thực hiện phương châm: “Phát triển toàn diện, gắn với thị trường lao động, hội nhập quốc tế”. Nhà trường luôn đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, chủ động đa dạng hóa và mở rộng quy mô đào tạo một cách hợp lý, nâng cao chất lượng, đào tạo toàn diện, đáp ứng nhu cầu nguồn lực chất lượng cao trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đến nay nhà trường có 28 ngành nghề đào tạo hệ đại học chính quy, 11 ngành đào tạo Thạc sĩ và 9 ngành đào tạo Tiến sĩ, quy mô đào tạo 4.200 sinh viên, học viên. Trải qua 50 năm xây dựng và phát triển nhà trường đã đào tạo cung cấp nguồn lực chất lượng cao, sản phẩm khoa học, công nghệ tiên tiến theo hướng hội nhập và phát triển. Cung cấp cho đất nước 35.000 kỹ sư, 2.700 Thạc sĩ, trên 80 Tiến sĩ.50 năm – Cuộc gặp mặt ân tình và xúc động Báo Luật sư Việt Nam , 30/ 08/ 2022 09:32 thông tin tiếp.

Hội cựu giáo viên, sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp II Hà Bắc ngày 28 8 2022 gặp mặt thân mật kỷ niệm 50 năm ngày lên đường nhập ngũ (2/9/1971- 2/9/2022). Video link ĐHNLHuế kỷ niệm 50 năm nhập ngũ https://youtu.be/E1e-kGj-BnYhttps://youtu.be/7c4WQm58oHg

Thông tin chuỗi sự kiện mới 25/8-2/9/2022 liên tục tại #cnm365 #cltvn 25 tháng 8; #cnm365 #cltvn 26 tháng 8; cnm365 #cltvn 27 tháng 8; #cnm365 #cltvn 28 tháng 8; #cnm365 #cltvn 29 tháng 8; #cnm365 #cltvn 30 tháng 8; #cnm365 #cltvn 31 tháng 8; #cnm365 #cltvn 1 tháng 9 ; #cnm365 #cltvn 2 tháng 9; chuỗi sự kiện của năm năm trước Video Kỷ niệm 50 năm Trường Đại học Nông Lâm Huế; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dau-xua-thay-ban-quy

Trường tôi nôi yêu thương, Một niềm tin thắp lửa. Tôi viết bài này để tỏ lòng biết ơn thầy bạn dưới mái trường Nông Lâm thân thương và làm món quà nhỏ thân tặng cho các em sinh viên nghèo hiếu học.Thầy bạn là lộc xuân, Thầy bạn trong đời tôi; Lời Thầy dặn thung dung; Về Trường để nhớ thương. Đời tôi mà nếu thiếu sự động viên, giúp đỡ này thì tôi không thể có được ngày hôm nay:“Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin”. Thật hạnh phúc và yêu thích khi “Ta vui hòa nhịp thời gian Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường”. Thông tin gia đình Nông nghiệp tại sự kiện hội trường ngày Độc Lập mới nhất và các tư liệu cá nhân được bảo tồn tại đây https://cnm365.wordpress.com/https://hoangkimvn.wordpress.com Ngày Hạnh Phúc là ngày luôn ấm áp tình thầy bạn. Lời thương sâu sắc lắng đọng

Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Bạch Ngọc Đông Hòa bạn quý

BẠCH NGỌC ĐÔNG HÒA BẠN QUÝ

Xuân mai vàng nụ mạch nước tràn
Hạ sen hồng búp đẹp chứa chan
Thu cúc tím chiều hương đầy gió
Đông trúc tỏa sáng phước đủ làn
Thung huyên phúc hậu bền rỗ rá
Dung mạo đoan trang cật tre đan
Bạch Ngọc Đông Hòa vui bạn quý
Ngân nga tiếng vọng phím ru đàn
.

Ngân nga tiếng vọng phím ru đàn
Bạch Ngọc Đông Hòa nhịp ca đan
Đá cát Trung Phần mây rọi bóng
Đất lành Nam Bộ gió đưa làn
Dấu xưa Người Ngọc Quan Âm vẽ
Cảnh cũ Càn Khôn Vạn Kiếp chan
Bảo tồn công đức hương lưu giữ
Khai thông tiết chế chớ dâng tràn

TÀN XUÂN VUI BUỒN NÉT HỌA
(thuận nghịch độc)


Xuân tàn cảnh cũ nhớ dâng tràn
Phố ngắm trông buồn nỗi chứa chan
Gần cuối chợ chiều mây trắng ngọn
Khuất xa trời tối bóng xanh làn
Vân sơn dáng đổ nghiêng tranh họa
Liễu huệ cành phai rũ cánh đan
Tầng lớp phủ sương mờ nét vẽ
Ngân dài tiếng vọng phím ru đàn

Ngân dài tiếng vọng phím ru đàn
Hát khẽ lời theo nhịp phím đan
Tầng dưới ráng chiều mây rọi bóng
Bến sau thuyền biển gió đưa làn
Vân đài nét cũ ơi người hỡi
Cảnh vẽ hồn xưa dấu lệ chan
Gần lại để lòng thương với tiếc
Xuân tàn cảnh cũ nhớ dâng tràn

Nguyễn Chí Hiệp
23.4.2024

Tỉnh thức cùng tháng năm

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM

Có Những Câu Chuyện Đời
Không Chỉ Đọc Một Lần
Hôm Nay Tôi Tỉnh Thức
Vì Sao Lev Tonstoi Khóc


Khi Người Viết Phục Sinh
Và “Suy Niệm Mỗi Ngày”
Lev Tonstoy Coi Đó Là
Cống Hiến Lớn Đời Người

Ông Thức Tỉnh Con Người

Đời Cao Hơn Trang Văn
Đất, Người Và Chính Mình
Lời Thầy Dặn Thung Dung
Chỉ Tình Yêu Ở Lại

NGỌC LƯU LY NHỚ MẸ

Bạn nhớ dáng mẹ lưng còng
Mình thương mẹ mất lúc còn thanh xuân

Giáp Thìn bốn chín chân vân
Tuổi thơ vắng mẹ rưng rưng cuộc đời
Ít năm giặc giết cha rồi
Gian nan càng trải một thời truân chiên

Quê hương lưu bóng mẹ hiền
Thiêng liêng đất nước lời nguyền núi sông


Hoàng Kim

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim
#Nhàtôi
; #banmai; #htn365; #ana; #Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc;  #cnm365;  #cltvn; #đẹpvàhay; #lvn365 https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-9-thang-5/ & https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-9-thang-5

MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG

Hoàng Gia Ngọc Phương Nam
Một gia đình yêu thương
An Viên Ngọc Quan Âm
Hậu duệ của mặt trời
Đất Mẹ vùng di sản
Hà Nội mãi trong tim

Bảo tồn và phát triển
Bài học lớn muôn đời
Việt Nam tổ quốc tôi


Bạch Ngọc Hoàng Kim
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/một gia đình yeu-thuong.

CHUYỆN THẦY LÊ VĂN TỐ

Giáo sư Lê Văn Tố là một người thầy hiền hậu, tài năng mà đời tôi may mắn được gần gũi, học hỏi và tôi thực sự kính trọng. Thầy Tố cùng quê Nghệ Tĩnh với cụ Nguyễn Công Trứ người đã tuyên ngôn sứ mệnh của kẻ quốc sĩ: “Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông” đối với người có học thực sự phải làm được điều gì đó ích lợi cho dân cho nước. Chuyện thầy Lê Văn Tố khơi dậy trong tôi sự thăm thẳm nhớ quê của một người con xa xứ và ước vọng tiếp tục hoàn thiện các công việc ân tình phục vụ ích lợi cho Tổ Quốc Quê Hương. Thầy Tố có nhiều chuyện đời mà tôi thích nhất bảy chuyện: 1) PHTI – HCMC và FCC; 2) Một chuyến đi ‘dối già’ và những suy tư ”, 3) “Lịch sử Logo FCC”, 4) “FOLI và FOVINA”,5) “Câu thơ đời ám ảnh”, 6) “Thầy Tố chuyện đời thường ” 7) “Thầy Tố bạn và học trò ” Trước đây khi bước vào tuổi 75 thầy Tố đã có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê. Đó là câu chuyện không phải của riêng ai, chỉ là người trước người sau mà thôi, bạn cũng chẳng kiêng cử về hai chữ “dối già” vì thầy cô nay còn mạnh khỏe lắm, phải thọ đến trăm tuổi, nhưng một cuộc du xuân cùng vợ về quê là chuyện to. Thầy coi xong việc này là thảnh thơi xong một việc chính.

Mời bạn lắng nghe lời Thầy kể. Bài dài mời Thầy, Bạn thong thả đọc

vochonggslevanto

CHUYỆN THẦY LÊ VĂN TỐ

Thời nhàn mong ước tới Người thân
Đường trần duyên gặp nhớ bao lần
Nguyệt Bồng xứ Nghệ tình quê vẹn
Giếng Khâu An Tĩnh nước trong ngần
Gia Định miền thương vui hội ngộ
Đồng Nai đất nhớ mến quây quần
Thầy bạn lộc xuân hương tự tỏa
#Thungdung ngọc quý đá kỳ vân.


Hoàng Kim
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/ & https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-thay-le-van-to/

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM

Sớm mai ngắm mai nở

Mặt trời hồng đang lên
Bài ca nhịp thời gian
Hoa Đất của quê hương


Hoàng Kim

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là hoa-binh-minh-nhu-nhien.jpg

BAN MAI BÌNH MINH AN

Đường trần trung chính hướng ban mai
An tĩnh, thanh tâm, đón nắng trời
Gió mát, thư nhàn, tươi khóm trúc
Đất lành, bình thản, đọng sương mai
Một bầu ngọc bích quang mây ửng
Hai túi càn khôn đức với đời
Vui cụ Trạng Trình nơi đồng rộng
Chọn tìm giống tốt thú riêng chơi.

#Banmai #BìnhMinhAn
#annhiên #hoangkimlong
#Thungdung #Khátkhaoxanh

#cnm365 #tinhyeucuocsong

#Banmai #BìnhMinhAn là thời điểm chuyển đổi. Khoảnh khắc quý hiếm duy nhất có được hình này : ‘Ký Tế xong rồi, Vị Tế chưa xong’. “Ở vào thời Ký Tế, việc lớn đã xong, còn những việc nhỏ cũng làm cho xong nữa, thì mới thật là hoàn thành. Hoàn thành rồi lại phải cố giữ được sự nghiệp, nếu không thì chỉ tốt lúc đầu thôi, rốt cuộc sẽ nát bét. Nghĩa là lúc trị phải lo trước tới lúc loạn. Kinh Dịch bắt đầu bằng hai quẻ Càn, Khôn, gốc của vạn vật; ở giữa là hai quẻ Hàm và Hằng, đạo vợ chồng, gốc của xã hội, tận cùng bằng hai quẻ Ký Tế và Vị Tế đã xong rồi lại chưa xong; như vậy là hàm cái nghĩa việc trời đất cũng như việc của loài người, không bao giờ xong, cái gì tới chung rồi lại tiếp ngay tới thủy. Mà đạo dịch cũng vậy không bao giờ hết. Dịch cho ta niềm hi vọng ở tương lai. Thật là một triết lý lạc quan“. (Nguyễn Hiến Lê, Kinh Dịch đạo của người quân tử, NXB Văn Học 1992, trang 433 & 439).

MINH TRIẾT CỦA ĐỨC PHẬT

Tôi nhiều lần đến Ấn Độ, đã một lần may mắn tới được quê hương Phật, và tự mình trồng một nhánh Bồ Đề ở vườn nhà để nay cây đã lớn. Minh triết của đức Phật Lời Phật dạy trong lòng tôi là triết lý tình yêu cuộc sống, lắng đọng 27 khẩu quyết yêu thích, lan tỏa trong đời thường mà tôi thật sự tâm đắc.Tôi thích nên chép lại để đọc lại và suy ngẫm mà chưa thật rõ nguồn gốc của những lời này sự xác tín lời nói có ở sách nào, với ai, khi nào, ở đâu, trong hoàn cảnh nào. Người Thầy tâm thức trong tôi là Trúc Lâm Trần Nhân Tông. Người Thầy gần gũi tôi là Thiền Sư Lão Nông Tăng Tác phẩm khoa học mà tôi yêu thích là Bảy Kỳ Quan Phật Giáo Thế Giới

(Bạch Ngọc Hoàng Kim cảm đề)

LỜI PHẬT DẠY

An nhiên
CNM365

Thả cho nó bay.
Hòa nhã với tất cả
Chọn bạn mà chơi
Tình yêu cuộc sống
Yêu thương và Sống
Không ai có thể đi giúp ta.
Yêu quý hết thảy muôn loài.
Con nghĩ cái gì, con là cái đó.
Bỏ đi những hư danh giả tạm.
Hãy cho đi và con sẽ còn mãi.

Cây kim trong bọc có ngày lòi ra
Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết
Minh triết trước hết là tự biết mình.
Tìm về suối nguồn bình yên bên trong con
Chuyển hóa nỗi ghen ghét thành sự khâm phục.
Bí quyết để có sức khỏe tốt là an trú trong hiện tại..
Tin sâu Luật Nhân Quả hành Sống theo Thiện Pháp
Hãy làm chủ suy nghĩ nếu không nó sẽ làm chủ con
Đời sống tâm linh không là sang trọng mà là nhu cầu
Con không là những gì con nói mà là những gì con làm
Ai biết nhìn vào trong tự thân mình thì người đó tỉnh thức.
Niềm hạnh phúc không bao giờ cạn kiệt khi ta biết chia sẻ
Không có đường đến hạnh phúc. Hạnh phúc là con đường
Hiểu được người là khôn ngoan, hiểu được mình là giác ngộ.
Lời nói có sức mạnh vừa có thể gây tổn thương, vừa có thể trị lành.
Không ai xứng đáng nhận được tình thương của con hơn là chính con.

LỜI VÀNG TỪ TRÁI TIM

Tin sâu Luật Nhân Quả, hành Sống theo Thiện Pháp. Đừng tin vào mọi thứ con được dạy phải tin. Lời Phật dạy 27 khẩu quyết xếp theo trình tự trên là sự thường niệm của riêng mình để cho dễ nhớ dễ thuộc dễ thực hành. Chúng ta khi trãi nghiệm nên tùy chọn nhập tâm những điều yêu thích phù hợp tâm thức đời thường. Kinh Phật có nhiều giao thoa với các Tôn giáo khác. Giáo sư Mai Văn Quyền khuyên nên định tâm, dụng tâm, không nên đứng hai chân ở hai thuyền dễ nguy hiểm. “Mohamet và đạo Hồi” “Vua Solomon sách khôn ngoan” đã có những kiến giải khác

Kinh Hoán Dụ kể câu chuyện sau: Trên đường đi hành đạo, đức Phật gặp một nhóm người Bà La Môn. Những vị Bà La Môn này hỏi đức Phật: “Thưa Ngài Cồ Đàm, đạo của Ngài có phương pháp nào cầu xin không?”- Đức Phật trả lời: “Đạo của ta không có pháp cầu xin mà chỉ cần thấu hiểu nghiệp báo và tin sâu Luật nhân quả, rồi hành sống theo thiện pháp thì cuộc sống sẽ được an lạc hạnh phúc hiện tiền.”- Các vị Ba La Môn bèn nói: “Thế thì đạo của Ngài đâu có gì hay, đạo của chúng tôi có nhiều phương pháp cầu xin rất linh nghiệm.”- Nghe Vậy, Đức Phật liền dẫn các vị Bà La Môn đi tới trước một cái ao, sau đó, Phật ném một hòn đá xuống ao và bảo các vị Bà La Môn: “Các người cầu xin cho hòn đá nổi lên được không?- Các Bà La Môn: “Dạ thưa Ngài không được.”- Đức Phật hỏi: “Tại sao?”- Các Bà La Môn: “Dạ, tại đá nặng hơn nước cho nên phải bị chìm.”Sau đó, Đức Phật đổ vài muỗng dầu xuống ao và bảo mọi người hãy cầu xin cho dầu chìm.- Các Bà La Môn đều đồng thanh thưa rằng: “không được.”- Đức Phật: “Tại sao?”- Các Bà La Môn: “Dạ, tại dầu nhẹ hơn nước.”- Nghe xong, Đức Phật liền nói: “Đúng vậy, đá nặng cho nên chìm trong nước và dầu nhẹ cho nên phải nổi trên nước l, không có phép mầu nào để cầu xin thay đổi được những quy luật hiển nhiên như thế ! “Nhân quả là một quy luật công bằng trên cuộc đời mà theo duyên có thể đến sớm hay đến muộn.Dù bạn là ai, thuộc tôn giáo nào hay không tin vào một tôn giáo nào thì cũng không có ngoại lệ nào dành riêng cho bạn. Không có ông thần, bà thánh nào có thể ban phước giáng họa cho bạn, ngay cả Đức Phật cũng không làm được điều đó. Mọi hành động thiện ác đều do chúng ta làm ra và tự thọ nhận lấy theo nhân quả của nó“. Bằng trí tuệ giác ngộ, Đức Phật đã phân tích mọi việc theo đúng bản chất thật vốn có của nó, để mọi người nhận thức đúng đắn và ứng dụng. Phật là người thầy dẫn đường, đi hay không đi và đi như thế nào là việc của mỗi người trong chúng ta.

Sớm nào cũng dành nửa tiếng,
Thung dung đếm nhịp thời gian.
Thong thả chỉ thêu nên gấm,
An nhiên việc tốt cứ làm.
Thoáng chốc đường trần nhìn lại,
‘Thanh nhàn vô sụ là tiên‘

ĐẠT MA TỔ SƯ QUA SÔNG

Đạt Ma
Úp mặt vào tường
Chín năm diện bích
chẳng thương … thân mình

Văn chương
Giáo ngoại biệt truyền
Thành tâm trực chỉ,
chẳng buông lời thừa

Hoa sen
Trắng một giấc mơ
Kiến tính thành Phật,
thờ ơ danh nhàm


#Thungdung
Bước tới an nhàn
Vui #dayvahoc
quẩy tiên
Dép trần


(Bạch Ngọc Hoàng Kim cảm đề)

TĨNH THỨC HOA SEN TRẮNG
Hoa sen trắng
Nhà văn Triết gia Ấn độ Osho


Tổ sư Bồ đề đạt ma đến với một chiếc giầy.

Triết gia Osho nổi tiếng người Ấn độ nói: Tôi cực lạc vì tên của Tổ sư Bồ đề đạt ma đã làm cho tôi phiêu diêu. Đã từng có nhiều chư phật trên thế giới, nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma sừng sững như đỉnh Everest. Cách hiện hữu của ông ấy, cách sống, và cách diễn đạt chân lí đơn giản là của ông ấy; nó là vô song.

Trong các chùa ở Miền tây thường bên cạnh thờ tượng Đức Phật, có thờ tượng của Tổ sư Bồ đề đạt ma. Tượng Tổ sư dễ nhận biết. Gương mặt một người hung dữ, vai đeo gậy. Trên gậy có chỉ một chiếc giày.Tổ sư Bồ đề đạt ma đã du hành từ Ấn Độ sang Trung Quốc để truyền bá thông điệp của Đức Phật, người thầy của mình, mặc dầu họ sống cách nhau một nghìn năm.

Khi Tổ sư Bồ đề đạt ma đến Trung Quốc, Vũ Đế ra đón ông ấy ở biên ải. Mọi ngưỡi nghĩ rằng một chứng ngộ lớn đang tới! Và tất nhiên Vũ Đế đã tưởng tượng Tổ sư có nét gì đó giống như Đức Phật: rất hoà nhã, duyên dáng, vương giả. Tuy nhiên khi ông ta thấy Bồ đề đạt ma thì ông đã bị choáng. Tổ sư Bồ đề đạt ma trông rất thô thiển. Không chỉ thế, ông ấy còn có vẻ rất ngớ ngẩn. Ông ấy đến cây gậy đeo trên vai chỉ có một chiếc giầy.Vũ Đế bối rối. Ông ta đã tới cùng với cả đoàn triều đình với các hoàng hậu quí phi. Họ sẽ nghĩ gì khi ta ra đón một loại người như thế này? Ông cố gắng vì lịch sự bỏ qua điều đó. Và ông đã không muốn hỏi “Sao ông lại đến nước chúng tôi chỉ với một chiếc giầy?

Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma đã không để Vũ Đế yên. Ông ấy nói: -Đừng cố bỏ qua nó. Hãy hỏi và thẳng thắn ngay từ chính lúc đầu đi. Ta đã đọc được câu hỏi trong đầu ông rồi.Vũ Đế đâm ra lúng túng; sau cùng ông nói:-Vâng, ông đúng, câu hỏi này đã nảy sinh trong ta: Sao ông đến mà chỉ mang một chiếc giày?

Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Để mọi thứ vào cảnh quan đúng như từ chính lúc đầu. Ta là người vô lí! Ông phải hiểu điều đó từ chính lúc bắt đầu. Ta không muốn tạo ra bất kì rắc rối nào về sau. Hoặc ông chấp nhận ta như ta vậy hoặc ông đơn giản nói rằng ông không thể chấp nhận được ta. Và ta sẽ rời khỏi vương quốc của ông. Ta sẽ đi lên núi. Ta sẽ đợi ở đó đến khi người của ta đến với ta. Vũ Đế lúng túng. Ông đã mang theo nhiều câu hỏi khi đến đón Tổ sư. Nhưng ông băn khoăn có nên đưa chúng ra hay không? Ông nghi ngai câu trả lời là lố bịch. Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma một mức khăng khăng:-Ông hãy nên hỏi những câu ông đã mang tới đây.

Vũ Đế gượng gạo hỏi:-Câu hỏi đầu: Ta đã làm được nhiều phước đức…. Tổ sư Bồ đề đạt ma nhìn sâu vào trong đôi mắt của Vũ Đế. Một cơn lạnh toát chạy dọc sống lưng nhà vua. Ông nói:-Toàn những điều vô nghĩa! Làm sao ông có thể làm được nhiều phước đức ? Ông còn chưa nhận biết phước đức được hình thành từ nhận biết . Mà ông ngụ ý phước đức nào? Làm sao ông có thể tạo ra được phước đức? Phước đức chỉ được tạo ra từ Đức Phật.

Vũ Đế ngại ngần:-Việc ta nói làm nhiều phước đức. Ta ngụ ý rằng ta đã làm nhiều đến chùa, nhiều điện thờ cho Phật. Ta đã làm nhiều đạo tràng cho các khất sĩ Phật tử, các tín đồ, và tì kheo. Ta đã thu xếp cho hàng nghìn học sĩ để dịch kinh sách Phật sang tiếng Trung Quốc. Ta đã tiêu tốn hàng triệu đồng bạc cho việc phục vụ Đức Phật. Nhiều triệu khất sĩ xin ăn mọi ngày từ cung điện này nọ này trên khắp nước.

Và Tổ sư Bồ đề đạt ma cười. Vũ Đế chưa từng bao giờ nghe thấy tiếng cười như thế. Tiếng cười bụng có thể làm rung chuyển cả núi. Tổ sư cười sằng sặc và nói:-Ông đã hành động một cách ngu xuẩn. Mọi nỗ lực của ông đều đã là cực kì phí hoài. Sẽ không tạo ra kết quả nào từ nó cả. Đừng cố, và đừng tưởng tượng rằng ông sẽ được lên cõi trời thứ bẩy như các khất sĩ Phật giáo đã nói cho ông. Họ chỉ khai thác ông thôi.

Đây là chiến lược khai thác những người ngu như ông. Họ khai thác lòng tham của ông về thế giới bên kia, Họ vẽ cho ông những hứa hẹn lớn. Và lời hứa của họ không thể chứng minh là sai được vì không ai quay trở về từ thế giới bên kia để nói liệu những lời hứa đó có được hoàn thành hay không. Ông đã bị họ lừa rồi. Không có cái gì sẽ xảy ra từ điều mà ông nghĩ là việc làm phước đức. Thực ra, ông sẽ rơi vào địa ngục thứ bẩy, vì một người sống với những ham muốn sai như thế, người sống có ham muốn như thế, đều sẽ rơi vào địa ngục.

Vũ Đế e ngại. Ông cố gắng lái câu chuyện sang một chủ đề khác: -Vậy có cái gì linh thiêng hay không? Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Không có cái gì linh thiêng, cũng như không có cái gì là báng bổ. Linh thiêng và báng bổ, đều là thái độ của tâm trí, của định kiến. Mọi việc đều đơn giản như chúng vậy. Không cái gì sai và không cái gì đúng, không cái gì tội lỗi và không cái gì phước đức. Vũ Đế buồn bực:-Ông thật quá thể đối với ta và người của ta. Sau đó, Tổ sư Bồ đề đạt ma nói lời tạm biệt, quay lưng lại và đi lên núi.

Trong chín năm trên núi ông ấy ngồi quay mặt vào tường. Mọi người đến với ông bởi vì đã được nghe, biết về cuộc đối thoại này. Dù khoảng cách sống giữa Tổ sư và Đức Phật trong hơn một nghìn năm, nhưng về trung tâm Tổ Sư vẫn ở cùng Đức Phật. Tổ sư nói điều tinh tuý của Đức Phật – tất nhiên theo cách riêng của ông ấy, theo phong cách của ông ấy, Ngay cả Phật cũng sẽ thấy cách trình bày này đó là kì lạ.

Đức Phật là người văn hoá, phức tạp, và duyên dáng. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma chính là cái đối lập trong cách diễn đạt của Đức Phật. Tổ sư không là người mà là con sư tử. Tổ sư không nói, mà ông ấy gầm lên. Tổ sư không có cái duyên dáng mà Đức Phật có. Cái mà ông ấy có là sự thô thiển, dữ dằn. Không thanh nhã như kim cương; Tổ sư hệt như vĩa quặng: thô ráp tuyệt đối , không có một sự đánh bóng. Và đó là cái đẹp của ông ấy. Đức Phật có cái đẹp rất nữ tính, lịch sự, mảnh mai. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma có cái đẹp riêng . Cái đẹp của một tảng đá – mạnh mẽ, nam tính, không thể phá huỷ được, cái đẹp của một sức mạnh lớn lao.

Đức Phật toả sức mạnh, nhưng sức mạnh của Đức Phật rất im lặng, như tiếng thì thào, như làn gió mát. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma là cơn bão, sấm rền và chớp giật. Đức Phật đến cửa nhà bạn nhẹ nhàng không một tiếng động, bạn thậm chí sẽ không nghe thấy tiếng bước chân của ông ấy. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma, khi ông ấy đến nhà bạn, ông ấy sẽ làm rung chuyển cả ngôi nhà từ tận móng của nó. Đức Phật sẽ không lay bạn dậy ngay cả khi bạn đang ngủ. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma? Ông ấy sẽ dựng bạn dậy từ trong nấm mồ! Ông ấy đánh mạnh, ông ấy là chiếc búa.

Tổ sư là chính cái đối lập của Đức Phật trong cách diễn đạt, nhưng thông điệp của ông ấy với Đức Phật là một. Tổ sư cúi mình trước Đức Phật là thầy của mình. Tổ sư chưa bao giờ nói “Đây là thông điệp của ta”. Tổ sư đơn giản nói:-Điều này thuộc về chư phật, chư phật cổ đại. Ta chỉ là sứ giả. Không cái gì là của ta, bởi vì ta không có. Ta như cây trúc hồng được chư phật chọn để làm chiếc sáo cho họ. Họ hát: ta đơn giản để cho họ hát qua ta.

LÊN NON THIÊNG YÊN TỬ

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc

“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng. (2)

*

Non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông …


(1) Nguyễn Trãi, đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự
(2) Hoàng Kim bản dịch thơ Nguyễn Trãi, bài thơ ‘đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự’


Hoàng Kim

Lên non thiêng Yên Tử tôi nhớ câu thơ huyền thoại: “Trăm năm tích đức tu hành. Chưa lên Yên Tử chưa thành quả tu“. Núi Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh nơi có Quần thể di tích danh thắng Yên Tử ở Bắc Giang và Quảng Ninh. Đây là quần thể danh thắng đặc biệt nổi tiếng liên tỉnh đầu tiên ở Việt Nam được đệ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO xem xét, công nhận là Di sản thế giới. Núi Yên Tử là đỉnh thứ hai của tam giác châu huyền thoại Bắc Bộ nối Việt Trì – Quảng Ninh là dải Tam Đảo rồi 99 ngọn Nham Biền của các dãy núi vòng cung Đông Triều tạo nên thế hiểm “trường thành chắn Bắc” của bề dày núi non hiểm trở khoảng 400 km núi đá che chắn mặt Bắc của thủ đô Hà Nội non sông Việt.

Trần Nhân Tông (1258-1308)  là một trong những vị vua anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Người tên thật là Trần Khâm, vua Trần thứ ba (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Với 50 năm cuộc đời, vua Phật Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306) là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với kiệt tác thơ Thiền Trần Nhân Tông và thắng tích Trúc Lâm Yên Tử; 4) Người thầy chiến lược vĩ đại muôn đời của kế sách một chữ “đồng” “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, nhược thắng cường, yếu thắng mạnh, nước nhỏ thắng nước lớn, sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

Kiệt tác thơ thiền đức Nhân Tông là đỉnh cao thơ Thiền thời Trần:

Cư trần lạc đạo phú
Đại Lãm Thần Quang tự
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
Đăng Bảo Đài sơn
Đề Cổ Châu hương thôn tự
Đề Phổ Minh tự thủy tạ
Động Thiên hồ thượng
Họa Kiều Nguyên Lãng vận
Hữu cú vô cú
Khuê oán
Lạng Châu vãn cảnh
Mai
Nguyệt
Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ
Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính
Sơn phòng mạn hứng
I
II
Sư đệ vấn đáp
Tán Tuệ Trung thượng sĩ
Tảo mai
I
II
Tặng Bắc sứ Lý Tư Diễn
Tây chinh đạo trung (tái chinh Ai Lao)
Thiên Trường phủ
Thiên Trường vãn vọng
Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai
Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng
Trúc nô minh
Tức sự
I
II
Vũ Lâm thu vãn
Xuân cảnh
Xuân hiểu
Xuân nhật yết Chiêu Lăng
Xuân vãn

Lên non thiêng Yên Tử, khảo sát điền dã những chứng tích lịch sử văn hóa lưu dấu mãi với thời gian. “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.). Đức Nhân Tông viết về sự đạt ngộ với người thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ . “Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy”. “Soi sáng lại chính mình” chứ không tìm kho báu ở đâu khác là trí tuệ siêu việt của vua Phật Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông.

Kinh Dịch xem chơi,
365 ngày mê mãi.
Sách Nhàn đọc giấu,
câu có câu không.
Trước đèn 700 năm,
Yên Tử
Trúc Lâm
thăm thẳm tầm nhìn.


“Câu hữu câu vô,
Quay bên phải, ngoái bên trái.
Thuyết lý ầm ĩ,
Ồn ào tranh cãi.
Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt”.


“Kinh Dịch xem chơi
Yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
Sách Nhàn đọc giấu
Trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim”


“Ở đời vui đạo thả tùy duyên
Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền
Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền”

(Trúc Lâm Trần Nhân Tông)

Hứng mật đời
thành thơ
Việc nghìn năm hữu lý
Trạng Trình

Đến trúc lâm
Đạt năm việc lớn hoàng thành
Đất trời xanh
Yên Tử …

TỈNH THỨC NHỚ VIÊN MINH

Sống giác ngộ tỉnh thức
Tâm Ngọc Thầy trong con

Bạch Ngọc Hoàng Kim
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-nho-vien-minh/

Lão Nông Tăng trong ngôi cổ tự

HOA LÚA GIỮA ĐỒNG XUÂN

Bao năm Trường Viện là nhà
Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương
Một đời người một rừng cây
Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng.

Con theo Người nguyện làm Hoa Lúa
Bưng bát cơm đầy quý giọt mồ hôi
Trọn đời vì Dân mến thương hạt gạo
Hoa quê hương hạt ngọc trắng ngần.


Con thăm Thầy lên non thiêng Yên Tử
Về đất lành Chùa Ráng giữa đồng xuân

“Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”


Lẫn với cỏ không tranh đua hương vị
Không màng ngôi ngự trị các loài hoa
Hoa Lúa đượm hồn quê dung dị
Quên sắc hương để lộng lẫy Hoa Người ! ” (**)

Con nguyện ước nối đời theo hạt gạo
Chén cơm ngon thơm bếp lửa gia đình
Thầy Trò cùng chung tay làm việc thiện
Sống trọn tình với giấc mơ xanh.


Hoàng Kim

NHỚ VIÊN MINH HOA LÚA

Tay men bệ đá sân đình
Tổ tiên cha mẹ lặng thinh chốn này
Đình làng chốn cũ nơi đây
Nuôi đêm phúc ấm dưỡng ngày nhân sinh.

Mình về với đức Viên Minh
Thơm hương Hoa Lúa ân tình nước non
Đêm Yên Tử sáng trăng rằm
Ban mai ngày mới an nhiên cuộc đời.

Thung dung bước tới thảnh thơi
Hiền lành phúc hậu lánh nơi bụi trần
Thiên nhiên là thú bình an
Người thân bạn quý thanh nhàn sống vui.

Tay men bệ đá sân chùa
Tổ tiên cha mẹ đều xưa chốn này
Đình làng chùa cũ nơi đây
Nuôi đêm phúc ấm dưỡng ngày nhân sinh

Mình về với đức Viên Minh
Thơm hương Hoa Lúa nặng tình nước non
Đêm Yên Tử sáng trăng rằm
Ban mai ngày mới an nhiên cuộc đời

Thung dung bước tới thảnh thơi
Hiền lành phúc hậu lánh nơi bụi trần
Thiên nhiên là thú bình an
Người thân bạn quý thanh nhàn sống vui.


Hoàng Kim

Đình Minh Lệ ban mai


Chùa Viên Minh còn gọi là chùa Ráng nằm ven đê thuộc xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Hà Tây (cũ) nay thuộc Hà Nội, nơi Tổ Ráng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ trụ trì https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chua-rang-giua-dong-xuan

– Không làm các điều ác, làm các việc lành và giữ tâm thanh tịnh trong sáng là cách làm tăng trưởng tâm lực và phước lực.

– Phước lực phát sinh do bố thí cúng dường, nghiêm trì giới luật, giữ tâm thanh tịnh, cung kính, khiêm nhường, phục vụ, nghe pháp, chia sẻ pháp, hoan hỷ phước người khác làm, điều chỉnh nhận thức, bớt tham sân si, có lòng từ-bi-hỷ-xả.

…Phước trí thật sự chỉ có khi tinh tấn chánh niệm tỉnh giác, trọn vẹn sáng suốt nơi thực tại thân thọ tâm pháp. Phước trí vô vi vô ngã này tự toả ra ảnh hưởng lợi lạc đến muôn loài một cách tự nhiên …”

Làm phước là cách để thoát khỏi tính ích kỷ và mở rộng tấm lòng vô ngã vị tha. Đồng thời qua việc làm đó học ra chính mình, học ra bản chất đời sống để phát huy trí tuệ và đạo đức…

()()()

Thân – tâm – trí thanh tịnh thì hết tội.

Có 3 cách:

– Giới diệt tội ở thân.
– Định diệt tội ở tâm
– Tuệ diệt tội ở trí.

Giới định tuệ còn được thể hiện cụ thể trong Bát Chánh Đạo:

– Thấy biết đúng
– Suy nghĩ đúng là tuệ
– Nói đúng, làm đúng, sống đúng là giới
– Siêng năng, không quên mình, tâm tĩnh lặng đúng là định.

《》《》《》

…Đạo Phật trí tuệ lấy tâm tỉnh giác để thấy ra thực tánh và sống với thực tánh ấy…”

Thầy Viên Minh
Trungtamhotong.org
Lành thay ()
Sadhu Sadhu Sadhu

_______((()))________

Pháp Thiện cùng với Phật Pháp Chia Sẻ và 9 người khác. spSdnorotet0f h105c78lh3am31588aiflltờ08l0a6cm704cf1gfhg90a5  ·

TỤNG CHÚ – LINH HIỂN – ĐỨC TIN…?

Hỏi: Thưa Thầy, có thật pháp môn tụng Chú là linh hiển? Có người tụng chú với đức tin lớn mà thay đổi cuộc sống. Điều này do ngẫu nhiên, do phước của người tụng hay do Chú có linh nghiệm?

Trả lời:

✓ Theo nguyên lý thì tụng gì không thành vấn đề, miễn khi tụng tập trung được tâm ý thì đều có năng lực.

✓ Sự tập trung này phần lớn có được nhờ đức tin vào tha lực.

✓ Luyện bùa, trì Chú, thôi miên, niệm Phật, niệm Chúa, thiền định, thần thông v.v… cũng đều cần có sức mạnh tập trung mới thành tựu.

✓ Tưởng đó là nhờ tha lực nhưng sức mạnh đó chính là do “nội lực tự sinh” mà có.

✓ Thực ra, tự lực và tha lực cũng chỉ là một khi đi đến tận cùng.

∆ Người sống chánh niệm tỉnh giác thường thận trọng chú tâm quan sát thực tại nên phát huy được năng lực giới định tuệ nội tại một cách tự nhiên, vô vi, vô ngã và vô lượng.

✓ Còn nếu tu luyện mà đạt được một năng lực nào đó thì cũng chỉ là hữu vi, hữu ngã và hữu hạn mà thôi.

✓ Nếu sở đắc đó do động lực tà kiến và tham ái thì dẫu có năng lực lớn lao đi nữa cũng chỉ hại mình hại người, như Devadatta có thần thông mà hại Phật nên đoạ vào địa ngục A-tỳ. Vì vậy cần phải nhận thức đúng mục đích của sự tu luyện các loại chú thuật, thôi miên, thiền định, thần thông… là gì mới được.

✓ Đừng xem trọng việc tu có đạt được năng lực gì hay không mà nên xem lại tu có đúng hay chưa.

~ Thực ra “năng lực lớn nhất của người tu là có thể chịu được sự rỗng không – không cần một năng lực nào cả”.

✓ Thay vì cố tu luyện để tìm cầu sở đắc một năng lực lý tưởng nào đó thì người chân tu buông hết mọi nỗ lực mong cầu trở thành bất cứ thứ gì, dù với đức tin tha lực hay với khả năng tự lực. Vì chỉ khi thấy mình còn yếu kém hay thiếu thốn thì mới mong cầu một năng lực để nương tựa. Nhưng điều đó chỉ làm giàu cho cái ngã ảo tưởng mà thôi! Do đó Đạo Phật không đặt nặng đức tin vào tha lực, cũng không tập chú vào nỗ lực cá nhân để rèn luyện thành gì cả mà mục đích tu hành chỉ là thấy ra Sự Thật mà thôi.

《》《》《》

Hỏi: Thưa Thầy, cho con hỏi niệm Phật, niệm Chú không phải để trừ tội tăng phước mà cốt lõi là để cho tâm thanh tịnh. Vậy khi tâm đã thanh tịnh, không niệm Chú, niệm Phật nữa mà chỉ để tâm trong lành sáng suốt thôi có phước đức không?

Trả lời:

✓ Niệm Phật, niệm Chú hay tu bất cứ phương pháp nào cũng chỉ là phương tiện giúp tâm bớt vọng động mà thôi, vọng động thì sinh tội lỗi, tội lỗi thì bất an, đau khổ, nên khi hết vọng động thì tâm trở lại bình thường, không còn bất an đau khổ nữa. Phương tiện giống như những toa thuốc chữa bệnh, tùy bệnh mà uống thuốc. Khi đã hết bệnh thì phải ngưng uống thuốc.

✓ Cũng vậy, khi tâm đã tịnh, trở lại bình thường tội chướng đã trừ thì còn dùng phương tiện niệm Phật, trì Chú làm gì nữa. Tội tiêu, tâm tịnh đã là phước báu lớn lao nhất rồi, còn niệm Phật, trì Chú để cầu phước làm gì, như vậy chẳng phải kẹt vào phương tiện sao?

(Trích Trà Đạo – Thầy Viên Minh)
Trungtamhotong.org
Namo Buddhaya.
Lành thay ()

SỰ THA THỨ & LÒNG KHOAN DUNG

✓ Tha thứ không phải là dấu hiệu mềm yếu, mà là một sức mạnh cảm xúc rất sâu sắc.
~ Tha thứ là một sức mạnh của cảm xúc.


》》 Chúng ta đủ mạnh mẽ, chúng ta đủ lớn để tha thứ, để buông xả. Tôi giải phóng cho anh, cho anh đi, cho anh tự do. Giờ đây tôi cũng được tự do.

》 Ngay cả khi đó chỉ là một suy nghĩ, chỉ tưởng tượng mình tha thứ cho một người nào đó đã xúc phạm mình, khoảnh khắc đó bạn đã cảm thấy được giải thoát. Cơn sân vẫn có thể đến lại nữa, bạn lại tiếp tục làm như vậy cho đến khi học được cách tha thứ cho mọi người, tha thứ cho tất cả mọi chuyện, tha thứ vĩnh viễn, để không bao giờ bạn đổ lỗi, không trách cứ ai về bất cứ điều gì nữa.

✓ Hãy tưởng tượng khi bạn có trạng thái tâm ấy, trạng thái tâm không đổ lỗi, không trách móc bất cứ ai. Tâm bạn được giải thoát, thanh thản như thế nào.

✓ Tôi không chấp giữ oán giận, tôi không muốn trừng phạt bất cứ ai vì bất cứ điều gì. Tôi giải phóng cho mọi người khỏi bất cứ điều gì họ đã làm với tôi, thậm chí bất cứ điều gì họ sẽ làm với tôi trong tương lai.

~ Sống với cái tâm như thế thật sự là quá tốt, quá tuyệt vời…

《》《》《》

“…Hãy lấy tha thứ làm một cách sống, bởi vì hàng ngày chúng ta vẫn phải gặp nhiều người nói hoặc làm những điều tổn thương đến mình. Dù đi đâu chăng nữa, chúng ta vẫn phải sống giữa con người, dù vô tình hay cố ý chúng ta vẫn làm tổn thương đến nhau. Mọi thứ sẽ vẫn còn tiếp tục như thế cho đến khi chúng ta chết.

✓ Bạn chuẩn bị như thế nào cho cái tâm của mình, thái độ của mình để tiếp tục sống trong một thế giới như thế?

✓ Phát triển tâm mình, có một trái tim rộng lớn, cao thượng để dù bạn biết có người sẽ làm tổn thương mình, nhưng bạn đã sẵn lòng tha thứ.

✓ Bạn đã tha thứ trước khi bị họ làm tổn thương. Sống như vậy có phải tốt đẹp biết bao? Có thể tôi không có đủ khả năng để thay đổi thế giới quanh mình, nhưng tôi có thể thay đổi cách nhìn thế giới bên trong mình.

~ Điều đó thật tuyệt vời! Vì vậy tôi đang học để làm điều đó. Có thể tôi không có đủ khả năng để thay đổi thế giới quanh mình, nhưng tôi có thể thay đổi cách nhìn thế giới bên trong mình.

✓ Cái gì diễn ra bên trong tôi là trách nhiệm của tôi, nhưng những cái gì diễn ra ở bên ngoài thì tôi chẳng thể làm được gì nhiều. Những gì ở bên trong tôi là trách nhiệm của tôi, tôi có thể thay đổi. Tôi có thể tạo ra sự khác biệt, ít nhất là đối với tâm mình.

✓ Đau khổ là một lựa chọn. Chúng ta có quyền lựa chọn. Bạn muốn tiếp tục sống một cuộc đời đau khổ hay muốn giải thoát? Đây là điều rất quan trọng bạn cần phải học hiểu. Hãy học cách tha thứ, tha thứ…”

Trích; Sự Tha Thứ & Lòng Khoan Dung
~ Thiền Sư U. Jotika;


Namo Buddhaya.
Lành thay ()

#Chanhniem#Thayvienminh #Tinhgiac #Tinhthuc #Vothuong #Tinhtan #Phatphapnhiemmau #Phatphapvidieu #Gieoduyenphatphap #Duyenlanhphatphap #Chiasephatphap #Vonga #Theobuocchanphat #Songtrongthuctai #Phatphap #Phatphapbuddhadhamma #Thienphap #Anlac #Anlanh #Annhien #Buongxa #Tritue #Tuetri #Gioidinhtue #Hanhphuc #Giacngo #Giaithoat #Tubi #PhatphapBuddhadhammareels #Phapthien343reels

TRỜI MƯA QUA CỒN DƯA

Trời mưa qua Cồn Dưa
Linh Giang sông quê hương
Bến Lội Đền Bốn Miếu
Đá Đứng chốn sông thiêng


Hoàng Kim

TRẦN KHÁNH DƯ VẸN KIẾP

Ăn cháo nói càn khôn
Trần Khánh Dư vẹn kiếp
Tự do ngời tâm đức
Văn chương ngọc cho đời


Nhà Trần trong sử Việt
Thái Tông và Hưng Đạo
Lời dặn của Thánh Trần
Lời khuyên thói quen tốt


Lời Thầy dặn thung dung
Biết mình và biết người
Kế sách một chữ Đồng
Quốc Công đạo làm tướng


Tiết Chế đức dụng nhân
Trần Thánh Tông minh quân
Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ
Trúc Lâm Trần Nhân Tông

Nguyễn Du trăng huyền thoại
Đặng Dung thơ Cảm hoài
Đào Duy Từ còn mãi
Mai Hạc vầng trăng soi


Hoàng Kim

Sách “Văn đàn bảo giám” một pho sách quý của Trần Trung Viên sưu tập văn chương của 226 tác giả, trong đó 66 vị được ghi vào mục tiểu sử các bực thi hào Việt Nam. Sách do, Nhà Xuất Bản Văn học ấn hành năm 1999. Tác giả Trần Khánh Dư có bài thơ Bán than được chọn đăng tại trang 24 kèm tiểu sử .Hình ảnh (*) và nội dung nguyên văn như sau:

BÁN THAN
Trần Khánh Dư

Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn
Hỏi chi bán đó, dạ rằng than
Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn
Ở với lửa hương cho vẹn kiếp
Thử xem sắt đá có bền gan
Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác
Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn
.

(*) “Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, phải cách chức ra ở Chí Linh (Hải Dương), đốt củi bán than Sau giặc Nguyên sang xâm, vua Trần Nhân Tôn cho đánh giặc nên bậc danh tướng” .

Bài thơ hay, xúc động, ám ảnh. Tôi đã mang theo đời mình “Chuyện bây giờ mới kể” suốt 50 năm qua. Hôm nay ngày mới, nhân việc đã sáng tỏ hơn nhiều điều uẩn khúc lịch sử qua tìm tòi khảo cứu, nay Trà sớm với bạn hiền. Tôi đọc lại và suy ngẫm chiến công Trận Vân Đồn, cuộc đời Trần Khánh Dư lừng lẫy với thời gian. Đây là đòn chiến dịch quyết định chế thắng của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư là tướng thủy trực tiếp chỉ huy đánh đắm đoàn chiến thuyền chở mười bảy vạn thạch lương của Trương Văn Hổ tại sông Mang. Trận Vân Đồn với một loạt chiến dịch khác do Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là tổng chỉ huy cùng hai vua với quân dân thời Trần đã đem lại.chiến thắng vang dội trong Chiến tranh Nguyên Mông–Đại Việt lần 3. Tác phẩm “Bán than” văn chương ngọc cho đời của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư (124–1340) là kiệt tác soi tỏ cuộc đời nhân huệ kỳ tài, tình duyên và vận mệnh của ông.


Trần Khánh Dư vẹn kiếp , Phạm Ngũ Lão “Thuật Hoài“, Nguyễn Trãi “Dục Thúy Sơn“, Đặng Dung thơ “Cảm hoài” là các bài thơ nổi tiêng đã trên bảy trăm tuổi, sánh với kiệt tác Đỗ Phủ thơ mưa lành; Lý Bạch thơ trăng sáng, Mạnh Hạo Nhiên xuân hiểu; Trần Tử Ngang thơ Người, trở thành những tác phẩm văn chương đích thực bền vững với thời gian;. xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-khanh-du-ven-kiep/

ĂN CHÁO NÓI CÀN KHÔN

Hai ông ăn cháo nói chuyện càn khôn (1)
Bánh đúc Chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới
Minh sư Hưng Đạo thấu hiểu Khánh Dư
Nhớ chuyện Vân Tiên yêu thương Lão Quán
Binh thư yếu lược chọn tướng cực tài (2)
Bát quái tùy thời lời dẫn kiệt tác (3)
Lửa hương vẹn kiếp sắt đá bền gan (4)
Đá Đứng sông thiêng (5) Linh Giang Minh Lệ


Hoàng Kim vào góp chuyện với Cụ Nguyễn Quốc Toàn, thiền sư giữa đời thường, (xem Chuyện cụ Nguyễn Quốc Toàn) và anh Rúc Hung, chuyên gia ngôn ngữ văn hóa “ăn cháo nói càn khôn” (xem thư tịch anh Ruc Hung), đưa chuyện “Bán than” “Trần Khánh Dư” ra bàn luận. Mời quý thầy bạn theo đường dẫn Ăn cháo nói càn khôn để rõ thêm các ghi chú mà Hoàng Kim trao đổi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/an-chao-noi-can-khon/. Cụ Nguyễn Quốc Toàn ngày 9 tháng 3 năm 2021 trong bài·”Với Hoàng Kim” đã trao đổi rằng Cụ nhận xét về bài thơ “Chuyện đồng dao cho em” “Ăn cháo nói càn khôn” : 1) Theo từ điển tiếng Việt: “Đồng dao là lời bài hát dân gian truyền miệng của trẻ em, thường kèm một trò chơi nhất định”. Bài thơ của Hoàng kim nói đến những địa danh ở Quảng Bình, những nhân vật lịch sử thời Trần, Bát quái trong kinh dịch, những món ngon ở Ba Đồn, Đồng Hới… nên không thể gọi là đồng dao cho trẻ em được.- Chưa rõ Hoàng Kim dựa vào tứ thơ nào để triển khai thành bài thơ “Chuyện đồng dao cho em”. Ý thơ nhảy từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác không liên quan gì nhau. Đang “Bánh đúc chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới” liền ngay với “Minh sư Hưng Đạo thấu hiểu Khánh Dư”. Tác giả có sự thăng hoa cảm xúc về quê nhà, về lịch sử đất nước, về những danh nhân…nhưng ngần ấy ý tưởng không thể nói hết trong 64 từ (của bài thơ) nên mới dồn nén câu chữ đến như vậy chăng ?? 3- Cũng do phải dồn nén nên tác giả đã dùng 5 chú thích cho 8 câu thơ. Tổng cộng số chữ chú thích là 3712, gấp 58 lần số chữ của bài thơ. Đây là sự lạ.Tương truyền giáo sư Hà Văn Tấn chú thích sách Dư điạ chí của Nguyễn Trãi bằng số chữ của bản gốc, tưởng đã kinh khủng. Nhà thơ Hoàng Kim lại còn gấp 58 lần thì cổ kim đông tây hiếm ai chú thích với tỷ lệ như vậy. 4)- Tuy nhiên cái sự lạ của Hoàng Kim làm bu thấy lý thú, nhất là hai câu đầu:. “Hai ông ăn cháo nói chuyện càn khôn Bánh đúc chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới” Hai câu thơ tả chân mà đượm vẻ hài hước.. Đúng là bulukhin (là cụ Nguyễn Quốc Toàn) được bạn Ruc Hung chiêu đãi cháo “ba trong một” tuyệt ngon ở Đồng Hới. Ăn cháo và bàn chuyện trên trời (càn) cùng chuyện dưới đất (khôn). Hoàng Kim thưa với cụ Nguyễn Quốc Toàn rằng: Thơ Đồng dao là thể thơ có nhịp đồng dao, với vần điệu vui tai, ẩn chứa giá trị giáo dục bình dân mà sâu sắc Nhiều minh sư khéo vận dụng lối diễn đạt này qua các tích cổ dân gian. Chuyện đồng dao cho em Trần Khánh Dư vẹn kiếp “Ở với lửa hương cho vẹn kiếp. Thử xem sắt đá có bền gan” là một công án thực sự tuyệt vời, và ngay cả học sinh giỏi văn thời ấy và thời nay cũng rất khó kiến giải xác đáng nếu không có được một kiến văn và sự trãi nghiệm sâu sắc.Sách “Văn đàn bảo giám” giới thiệu bối cảnh bài thơ vỏn vẹn có bốn dòng “Tiểu sử Trần Khánh Dư” ghi Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, phải cách chức ra ở Chí Linh (Hải Dương), đốt củi bán than. Sau giặc Nguyên sang xâm, vua Trần Nhân Tôn cho đánh giặc nên bậc danh tướng”. Tích truyện ngắn như vậy, nhưng văn sử Việt đến nay đã tốn biết bao giấy mực để nhận thức cho đúng sự thật. Bài thơ “Bán than” không dễ dàng phân tích và bình luận: “Một gánh càn khôn quẩy tếch ngàn,/Hỏi chi bán đó, gửi rằng than /Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,/ Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn./ Ở với lửa hương cho vẹn kiếp, /Thử xem sắt đá có bền gan./ Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác,/Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn”

TRẦN KHÁNH DƯ VẸN KIẾP

Ngọc Quan Âm
Hoàng Kim

Tỉnh thức càn khôn chốn đại ngàn
Ngọc lành vàng đá giữa lầm than
Hoàng Thành trọn vẹn tinh hoa tốt
Trúc Lâm gìn giữ lửa hương tàn
Vận chuyển thời cơ lưu vẹn kiếp
Mệnh nung tâm huyết chí bền gan
Nhờ ai lem luốc tròn duyên nghiệp
Đất cảm trời thương thấu kẻ hàn.

Nhân Huệ Vương vẹn kiếp là kỳ tài Việt “Ở với lửa hương cho vẹn kiếp. Mà xem sắt đá có bền gan”. Trần Khánh Dư bình sinh là người thế nào? Vì sao ông là “Thiên Tử Nam” của vua Trần, đích tôn của Thống Quốc Thái Sư Trần Thủ Độ, đã là danh chính thừa kế tông thất linh địa truyền đời tại Đền Gốm Chí Linh lại là ngôn thuận tổ sư của phát tích vượng địa nghề cói ở An Trung, Hà Nam nơi ông mở mới bến sông đồng ruộng?

Trần Khánh Dư, hiệu là Nhân Huệ Vương, là một chính khách, nhà quân sự Đại Việt dưới thời đại nhà Trần. Đền thờ chính của ông tại Đền Gốm ở khu dân cư Linh Giàng, phường Cổ Thành (TP Chí Linh) ảnh http://baohaiduong.vn/di-tich/nhan-hue-vuong-tran-khanh-du-va-2-di-tich-143251. Đền thờ khác của ông ở trại An Trung, Hà Nam nơi ông khai hoang lập ấp, bỏ tiền nhà ra giúp vốn cho dân, hướng dẫn dân trồng cây cói và làm nghề dệt cói Ông mất năm 1340, hưởng thọ 100 tuổi, trãi 5 đời vua. Nơi mất và lửa hương ông quanh năm tại đền thờ trên nền nhà xưa của ông. Nơi đó có bức đại tự “Uống nước nhớ nguồn” và đôi câu đối “Nhân Huệ Vương mở mới bến sông, đồng ruộng tốt tươi nay vẫn đó Họ Bùi Nguyễn theo nền nối chí, cửa nhà đông đúc trước còn đây” Hoàng Kim viết bài “Trần Khánh Dư vẹn kiếp” nhân đọc “Trần Khánh Dư” của Lưu Sơn Minh là Sách hay thầy bạn quý, Tiếng vọng của thời gian với sự đồng cảm “Năm tháng đó là em” : Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư vẹn kiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-khanh-du-ven-kiep

Văn chương ngọc cho đời
BAN MAI CHÀO NGÀY MỚI

Chốn thiêng bàn chính hướng ban mai
An tĩnh thanh tâm đón nắng trời
Gió mát thư nhàn tươi khóm trúc
Đất lành bình thản đọng sương mai
Một bầu ngọc bích quang mây ửng
Hai túi càn khôn đức với đời
Vui cụ Trạng Trình nơi đồng rộng
Chọn tìm giống tốt thú riêng vui


GIÁC NGỘ THIỆN PHƯỚC ĐỨC

Không đèn không điện vẫn ban mai
Rằm chính đêm nay với gió trời
Bắc Đẩu Kim Tinh soi lối chính
Nam Tào Vệ Nữ tỏ hôm mai
Tây phương phật tánh ngời tâm đức
Đông phong pháp nhẫn sáng duyên đời
Bồi đức tăng thân chăm giáo dưỡng
Dưỡng phước thiện lành học an vui


CHÍNH NGỌ ĐOÁN KINH DỊCH
Hoàng Kim


Chính Ngọ thuận thời chẳng sái đâu
Sửu vừa tới trước các thời sau
Phước lao động dốc lòng tứ mã
Thương hiền tài vững chí ngựa trâu …
Giáo dưỡng lòng dân cơ hội chóng
Chăm lo thế nước nhiệm kỳ lâu
Mã đáo thành công bền sức ngựa
Kinh Dịch xem chơi Ngọ đứng đầu


Hoàng Kim

THƠ XUÂN MÙA ĐOÀN VIÊN

Ngày giáp Tết, đất trời Nam tuyệt đep. Nắng tươi vàng, mai bừng nở lung linh. Hành trình xanh, hoa rộn ràng sắc thắm. Búp lộc xuân. nghe nhựa ứa lên cành. Giờ tan học, con như chim về tổ. Bao yêu thương, cha mẹ ngóng con về. Muôn lời chúc, rộn ràng nghe xuân đến. Xa bạn thầy, náo nức buổi về quê. Phiên chợ Tết, người đi như trẩy hội. Ai cũng xuân, vui vẻ những câu chào. Dẫu khó nhọc, lo toan hằn khoé mắt. Cận Tết rồi, nên chỉ thấy niềm vui. Xuôi phương Nam, tôi tìm thăm Hai Lúa. Thắm tình thân, thầy bạn buổi tất niên. Địa chỉ xanh, dẫu xa mà gần gũi . Mừng xuân này công việc gằn bền thêm. Viên ngọc ước, trong ngần như hạt gạo. Chén cơm ngon, thơm bếp lửa gia đình. Hạnh phúc lớn, trong niềm vui bình dị. Cùng ruộng đồng, bạn quý với chân quê (Thơ và ảnh Hoàng Kim).

MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG

😍Tết về nhà hạnh phúc
Lắng lòng trong yêu thương
Tâm thành vui xuân mới
An nhiên khỏe thanh nhàn

Hiểu Người nhiều khổ lụy
Biết Đời gắng vươn lên
Tinh thần luôn phúc hậu
Hoa quả thơm hương nhà

Hoàng Kim

BAN MAI CHÀO NGÀY MỚI

Xuân đưa Tết đến thật duyên thơ
Nước tưới cây chăm chẳng dám ngơ
Quốc Tuấn Trạng Trình gieo giải lụa
Hoàng Thành Phước Đức dệt đường tơ
Trúc Lâm đất cảm cây đương mộng
Bạch Ngọc trời thương chí vẫn mơ
Trăm năm công nghiệp cầu ân đức
Tỏ Ngọc Quan Âm thỏa đợi chờ


Hoàng Kim

Hoa Bình Minh Ngày Mới

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Ban mai chào ngày mới
Tỉnh thức cùng tháng năm
Vớt Trăng nhàn nét bút
Sớm Xuân thơ giữa lòng.


Vu Lan bài học
Hoàng Thành bao đổi thay
Trời xanh tầm nhìn sáng
Đất Mẹ thương lời hiền

ĐỒNG XUÂN LƯU DẤU HIỀN

Một vùng đất thiêng cổ tích
Tùng Châu, Châu Đức, Đồng Xuân
Một giấc mơ lành hạnh phúc
Lời thương thăm thẳm giữa lòng.

Dấu cũ hiền tài lắng đọng
Dòng sông thế núi không quên
Chuyện “Đào Duy Từ còn mãi
Đời “Châu Văn Tiếp Phú Yên


Đồng Xuân, Tùng Châu, Châu Đức
Sắn biếc lúa xanh tâm hồn
Thương núi Lương Sơn tá quốc
Nhớ sông Kỳ Lộ Phú Yên

2

Thân thiết thương người hiền cũ
Tháng năm nhanh thật là nhanh
Tùng Châu, Hoài Nhơn, Phụng Dụ
Dừa xanh, sắn biếc tâm hồn

Cứ nhớ thương thầm dấu cũ
Dòng đời đâu dễ nguôi quên
Chuyên “Đào Duy Từ còn mãi
Đồng xuân lưu dấu người hiền

Một giấc mơ lành hạnh phúc
Tùng Châu, Châu Đức, Đồng Xuân
Một góc vườn thiêng cổ tích
Lời thương thăm thẳm giữa lòng


Hoàng Kim

VIẾNG MỘ ĐÀO DUY TỪ

Đời trãi năm trăm năm
Thương người hiền một thuở
Hậu sinh về chốn cũ
Thăm vườn thiêng thiên thu.

Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ?
Đầy trời hoa tuyết bay

Lồng lộng vầng trăng rằm
Một vườn thiêng cổ tích
Người là ngọc cho đời
Tháng năm còn nhớ mãi.

Hoàng Kim về dâng hương Đào Duy Từ ở đất Tùng Châu xưa. Tôi vượt đường xa lặng lẽ về chốn xưa lần đi trong tĩnh lặng theo dấu những trang ghi chép huyền thoại để thấm hiểu sự nhọc nhằn khởi nghiệp của bậc anh hùng, tấm lòng của ông đối với nước với dân. Dấu ấn thời gian phôi pha chỉ những giá trị trung hiếu vẹn toàn là lắng đọng.Tôi thăm Đình Lạc Giao Đắk Lăk, Lũy Thầy Quảng Bình, quê hương cụ Đào ở Thanh Hóa và nơi đây Tùng Châu Đào Duy Từ nơi đồng xuân lưu dấu người hiền. Đào Duy Từ (1572 –1634) là nhà quân sư danh tiếng của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, bậc kỳ tài chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, khai quốc công thần số một được thờ ở Thái Miếu của nhà Nguyễn. Hàng năm ngày giỗ Đào Duy Từ là vào ngày 17 tháng 10 âm lịch (nhằm ngày 13 đến 23 tháng 11 dương lịch tùy theo từng năm). Đào Duy Từ bắt đầu thi thố tài năng từ lúc Cụ 53 tuổi cho đến năm Cụ 62 tuổi thì Cụ mất. Chín năm ngắn ngủi ấy (1625-1634) Cụ đã kịp trao lại năm kỳ tích phi thường còn mãi với non sông. Mộ cụ Đào Duy Từ nằm khiêm nhường giữa vườn sắn KM94 xanh tốt tại thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định . Phía trước lăng mộ của Cụ là hai trụ đá lớn, chẳng rồng chẳng phụng , đỉnh tạo dáng búp sen. Cuối mộ Cụ cổ thụ thì hoang phế vì triều đại đổi thay nhưng dừa sắn thì tươi xanh bên mộ đá. Đào Duy Từ còn mãi với non sông

NHỚ NGƯỜI HIỀN MỘT THUỞ

Đào Duy Từ sinh năm 1572 ở làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tỉnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Thời ấy, Nguyễn Hoàng, chúa khởi nghiệp nhà Nguyễn, có quê tại huyện Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung). Nhà thờ họ Nguyễn hiện ở đình Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Ông Nguyễn Hoàng là con thứ hai của ông Nguyễn Kim (tức Hữu vệ Điện tiền Tướng quân An Thanh hầu Nguyễn Hoằng Kim) cháu của ông Nguyễn Hoằng Dụ, chắt của ông Nguyễn Văn Lang, đều là các trọng thần của nhà Lê. Nguyên khi xưa ông Nguyễn Kim khởi nghĩa giúp nhà Lê đánh nhà Mạc đã lấy được đất Thanh Nghệ nhưng khi thừa thắng đem quân ra đánh Sơn Nam thì bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc chết, binh quyền giao lại cho con rể Trịnh Kiểm. Người anh của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm kiếm chuyện giết đi vì sợ đức độ và tài năng của hai anh em nhà vợ đoạt mất quyền mình. Nguyễn Hoàng sợ Trịnh Kiểm ám hại nên đã hỏi kế của Nguyễn Bỉnh Khiêm và được Trạng Trình bảo rằng “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Ông đã xin vào trấn thủ Thuận Hóa từ năm 1558.

Năm Đào Duy Từ ra đời thì Trịnh Kiểm vừa mới mất (1570) trao quyền lại cho Trịnh Cối để lo việc đánh dẹp. Trịnh Cối say đắm tửu sắc, tướng sĩ nhiều người không phục. Trịnh Tùng, con thứ của Trịnh Kiểm, đã rước vua Lê về đồn Vạn Lại và công khai chống lại anh ruột, Nhân lúc anh em họ Trịnh đánh nhau, Mạc Kính Điển cùng với các danh tướng Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn đem 10 vạn quân vào đánh Thanh Hóa. Trịnh Cối liệu thế không địch nổi đã đầu hàng Mạc. Trình Tùng đưa vua về Đông Sơn, phòng ngự chắc chắn, liều chết cố thủ. Mâc Kính Điển đánh mãi không được, lâu ngày hết lương, phải rút quân về. Trình Tùng oai quyền vượt vua, Anh Tông lo ngại tìm cách giết Trịnh Tùng. Mưu việc không thành, vua sợ chạy vào Nghệ An, bị Trịnh Tùng lập vua mới Thế Tông Lê Duy Đàm bảy tuổi lên làm vua và cho người truy sát giết chết vua cũ. Suốt 10 năm 1573-1583 Trịnh Tùng cố thủ vững chắc Thanh Hóa. Sau khi Mạc Kính Điển mất (1579) thế lực hai bên thay đổi. Năm 1591, Trịnh Tùng cử đại binh đánh ra Thăng Long, bắt được Nguyễn Quyện, phá hào lũy và rút về Thanh Hóa. Vua Mạc Mậu Hợp say đắm vợ người, bạc đãi tướng sĩ, làm nát cơ nghiệp nhà Mạc. Tướng nhà Mạc là Văn Khuê về hàng nhà Lê. Trịnh Tùng đem đại binh trở lại Thăng Long, đánh tan quân Mạc, giết Mạc Mậu Hợp. Nhà Mạc mất ngôi. Con cháu nhà Mạc giữ đất Cao Bằng được ba đời nữa. Vua Lê chỉ còn trên danh nghĩa được cấp bổng lộc thượng tiến, thu thuế 1000 xã và 5000 lính túc vệ và chỉ thiết triều tiếp sứ. Mọi việc lớn nhỏ đều do chúa Trịnh điều hành. Họ Trịnh tôn Lê vì sợ nhà Minh sinh sự lôi thôi và sợ những kẻ chống đối lấy cớ phù Lê, hơn nữa họ Nguyễn có thế lực mạnh và họ Mạc còn đang giữ đất Cao Bằng .

Năm 1572, nhân lúc anh em Trịnh Cối, Trịnh Tùng đánh nhau, nhà Mạc đem quân đánh Thanh Hóa và cho một cánh thủy quân do tướng Lập Bạo chỉ huy đánh Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng đã cho gái đẹp Ngô thị giả cách đưa vàng bạc đến cầu hòa, dụ Lập Bạo ra ái ân trên bãi biển vắng. Lập Bạo không đề phòng nên bị quân Nguyễn trong cát nổi lên giết chết. Quân Mạc bị đánh tan. Nguyễn Hoàng từ năm 1592 đến năm 1600, đã kéo quân ra Bắc giúp Trịnh diệt Mạc và lập được nhiều công to nhưng Trịnh Tùng luôn để ý đề phòng và Nguyễn Hoàng đã không thể có cớ gì để trở lại đất cũ. Năm 1600 nhân dịp đi đánh giặc, Nguyễn Hoàng đã theo đường biển về lại Thuận Hóa. Sợ họ Trịnh nghi ngờ, ông đã gả con gái Ngọc Tú cho Trịnh Tráng là con trai thứ của Trịnh Tùng. Năm 1613, Nguyễn Hoàng sắp mất, gọi người con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên vào dặn rằng: “Đất Thuận, Quảng này, bên bắc thì có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, bên nam có Hải Vân và núi Bì Sơn, thật là một nơi trời để cho người anh hùng dụng võ. Vậy ta phải thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ để mà gây dựng cơ nghiệp về muôn đời”/ Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên nối nghiệp cha giữ đất phương Nam, theo đúng lời di huấn của cha “thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ”, bên ngoài kính cẩn nhận chức do vua Lê phong cho, giữ hòa hiếu với anh rể Trịnh Tráng, nhưng bên trong đã ngầm súc tích nội lực, tỉnh táo đối phó với mưu mô giảo hoạt tìm mọi cách thôn tính, khống chế của họ Trịnh.

Đào Duy Từ với tầm nhìn xa rộng và nhãn quan chính trị sâu sắc đã nhận ra tình cảnh trớ trêu trên. Hình thái Lê Trịnh, Mạc, Nguyễn thời ấy thật giống như “Tam Quốc”: Họ Trịnh noi cách Tào Tháo mượn uy thiên tử để sai khiến chư hầu. Họ Mạc tuy sức cùng lực kiệt nhưng được nhà Minh hậu thuẫn Nhà Minh luôn rình đợi thời cơ để can thiệp vào nước ta như cách “giúp Trần, cầm Hồ” của triều trước. Họ Nguyễn giữ đất phương Nam chân chúa lô rõ, hiền tài theo về. Đào Duy Từ như Ngọa Long ở Long Trung ẩn nhẫn đợi thời. Ông chỉ quyết định vào Nam khi đã định rõ minh quân, danh tướng, chiến lược, sách lược các đối sách trước mắt và lâu dài của bàn cờ lớn.

Lịch sử ghi nhận rằng Đào Duy Từ có bố là Đào Tá Hán, trước làm lính cấm vệ trong triều Lê Trịnh, bị phạm húy khi làm thơ đã dám nói tên của chúa Trịnh Kiểm nên bị phạt đánh đòn và đuổi về nhà làm dân thường. Bố của ông sau trở thành kép hát nổi tiếng khắp vùng và kết duyên với bà Vũ Thị Kim Chi ở làng Ngọc Lâm. Đào Duy Từ được sinh ra ở làng Hoa Trai, khi ông lên 5 tuổi thì bố bị bệnh mất, người mẹ ở góa, tần tảo nuôi con ăn học. Theo luật lệ của triều đình bấy giờ thì con cái những người làm nghề ca xướng đều không được quyền thi cử. Bà Kim Chi tiếc cho tài học của con nên đã nhờ viên xã trưởng đổi họ Đào của con theo cha thành họ Vũ theo mẹ.  Năm 1593 lúc Đào Duy Từ 21 tuổi, vào đời vua Lê Thế Tông (l567-1584) đã đỗ á nguyên tại kỳ thi Hương. Ông dự thi Hội thì bị viên xã trưởng mật báo và tố giác vì mẹ ông đã không chịu gian díu với hắn. Ông bị cấm thi vì trọng tội “gian lận trong thi cử”, bị giam giữ xét hỏi, trong khi mẹ ông ở nhà đã phẫn uất tự tử. Đào Duy Từ lấy vợ họ Cao ở Tống Sơn nên có quen biết chúa Nguyễn Hoàng từ trước. Đào Duy Từ đã rời quê hương vào Đàng Trong lập nghiệp khoảng năm 1622 đến 1625 khi ông đã 50- 53 tuổi.  Đào Duy Từ vào Nam sau ba mươi năm trầm tĩnh đợi thời. Ứng xử của ông giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhẫn nại đợi thời cơ sau hai mươi năm mới ra lựa chọn triều Mạc và ra dự thi  lập tức đoạt Trạng nguyên. Đào Duy Từ cũng chọn hướng vào Nam rất sâu sắc, có tính toán và đúng thời cơ. Đây không phải là một sự uất ức tầm thường mà  là sự nhẫn nại của bậc trí giả, thời thế nhiễu loạn, vàng lầm trong cát mà thôi. Đào Duy Từ được Chúa Nguyễn trọng dụng, đã hết lòng giúp chúa Nguyễn đạt được năm kỳ tích lạ lùng và nổi bật ngời sáng trong lịch sử Việt Nam:

1) Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ Trịnh ở phía Bắc. Ông đã cùng các danh tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến bày mưu định kế, luyện tập quân sĩ, xây đồn đắp lũy, tổ chức tuyến phòng ngự chiều sâu từ phía nam sông Linh Giang đến Lũy Trường Dục (ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình) và Lũy Thầy (từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Suốt thời Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài suốt 45 năm (1627-1672) đánh nhau cả thảy bảy lần, họ Trịnh thường mạnh hơn nhưng quân Nam tướng sĩ hết lòng, đồn lũy chắc chắn nên đã chống cự rất hiệu quả với quân Trịnh.

2) Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh, nước lớn lên, người nhiều ra. Đào Duy Từ có duyên kỳ ngộ với tiên chúa Nguyễn Hoàng và chân chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Ông hết lòng phò vua giúp nước “cúc cung tận tụy đến chết mới thôi” như Ngọa Long Gia Cát Lượng Khổng Minh. Đào Duy Từ mang tâm nguyện và chí hướng lớn lao như vua Trần Thái Tông “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Di sản của ông không chỉ là trước tác mà còn là triều đại.

3) Đào Duy Từ là bậc kỳ tài muôn thuở với những di sản còn mãi với non sông. Ông là nhà thực tiễn sáng suốt có tầm nhìn sâu rộng lạ thường. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn, sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao gắn với hệ thống chính trị tiến bộ hợp lòng dân. Với tài năng tổ chức kiệt xuất của Đào Duy Từ, chỉ trong thời gian ngắn ngủi chín năm (1625-1634), ông đã kịp xây dựng được một định chế chính quyền rất được lòng dân. Triều Nguyễn sau khi Đào Duy Từ mất (1634)  còn truyền được 8 đời (131 năm), cho đến năm 1735, khi Vũ Vương mất, thế tử chết, Trương Phúc Loan chuyên quyền, lòng người li tán, nhà Tây Sơn nổi lên chiếm đất Quy Nhơn, họ Trịnh lấy đất Phú Xuân, thì cơ nghiệp chúa Nguyễn mới bị xiêu đổ.

4) Tác phẩm “Hổ trướng khu cơ”; Nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc tuồng Sơn Hậu, thơ Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn  đều là những kiệt tác và di sản văn hóa vô giá cùng với giai thoại, ca dao, thơ văn truyền đời trong tâm thức dân tộc. Binh thư “Hổ trướng khu cơ” sâu sắc, thực tiễn, mưu lược yếu đánh mạnh, ít địch nhiều, là một trong hai bộ sách quân sự cổ quý nhất của Việt Nam (bộ kia là Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo) ; Nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc, tuồng cổ Sơn Hậu gắn với di sản văn hóa Huế thành di sản văn hóa thế giới; Những giai thoại, ca dao truyền đời trong tâm thức dân tộc của lòng dân mến người có nhân. Ngay trong trước tác của ông cũng rất trọng gắn lý luận với thực tiễn. Binh thư “Hổ trướng khu cơ” gắn với những danh tướng cầm quân lỗi lạc một thời như Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến. Vũ khúc cung đình, tuồng cổ Sơn Hậu,  thơ Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn đều thể hiện tầm cao văn hóa.

5) Đào Duy Từ là người Thầy đức độ, tài năng, bậc kỳ tài muôn thuở của dân tộc Việt, người khai sinh một dòng họ lớn với nhiều hiền tài và di sản. Đào Duy Từ lúc đương thời đã gả con gái mình cho Nguyễn Hữu Tiến sau này là một đại tướng của nhà Nguyễn. Đào Duy Từ đã đem tài trí của mình cống hiến cho xã hội về nhiều lĩnh vực. Ông là một nhà quân sự tài ba, kiến trúc sư xây dựng lũy Trường Dục ở Phong Lộc và lũy Nhật Lệ ở Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình, để chống lại các cuộc tấn công của quân Trịnh. Lũy Nhật Lệ còn gọi là lũy Thầy (vì chúa Nguyễn và nhân dân Đàng Trong tôn kính gọi Đào Duy Từ là Thầy). Lũy này được hoàn thành năm 1631, có chiều dài hơn 3000 trượng (khoảng hơn 12 km), cao 1 trượng 5 thước (khoảng 6 m), mặt lũy rất rộng (voi có thể đi lại được) cứ cách một quãng lại xây pháo đài để đặt súng thần công. Chiến lũy này có vị trí gần khe, dựa vào thế núi, chạy dài suốt cửa biển Nhật Lệ, trông giống hình cầu vồng, có tác dụng chặn được bước tiến của quân Trịnh trong hàng trăm cuộc giao tranh. Đương thời có các câu ca dao: Khôn ngoan qua cửa sông La/ Dù ai có cánh chớ qua lũy Thầy “Hữu trí dũng hề, khả quá Thanh Hà / Túng hữu dực hề, Trường lũy bất khả khoa”. Mạnh thì qua được Thanh Hà/ Dẫu rằng có cánh khôn qua lũy Thầy. Đường vô xứ Huế quanh quanh / Non xanh nước như tranh họa đồ/ Yêu anh em cũng muốn vô / Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.  Phá Tam Giang bây giờ đã cạn/ Truông nhà Hồ, Nội tán cấm nghiêm. Chùm thơ và giai thoại trên và dưới đây đã tồn tại lâu dài trong bia miệng người đời. Lời thơ đẹp, hợp logic và tình tự dân tộc, mọi việc đều khớp đúng với sự kiện lịch sử.

GIAI THOẠI LỒNG SỰ THẬT

Giai thoại kể rằng Đào Duy Từ vốn người Đàng Ngoài , quê gốc ở làng Hoa Trai, nay thuộc xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Bố là Đào Tá Hán, trước làm lính cấm vệ trong triều, thời Lê – Trịnh. Một hôm, nhân lúc nổi hứng, Tá Hán đã sáng tác bài thơ ca ngợi chúa Trịnh như sau:

Trang quốc sử ai bằng Trịnh Kiểm
Tỏ thần uy đánh chiếm hai châu
Thẳng đường rong ruổi vó câu
Phù Lê, diệt Mạc trước sau một lời…

Tá Hán liền bị quy là phạm thượng, trong thơ dám nói cả tên húy của chúa là Trịnh Kiểm. Ông bị tội phạt đánh đòn 20 roi và bị đuổi về nhà làm dân thường.

Nhờ có tài đàn hát nên Tá Hán bèn đi theo một gánh hát để kiếm sống và ít lâu sau đã trở thành kép hát tài giỏi, nổi tiếng khắp vùng.

Có lần, gánh hát đến diễn ở làng Ngọc Lâm trong huyện. Đào Tá Hán trọ trong nhà vị tiên chỉ của làng này là Vũ Đàm. Ông tiên chỉ họ Vũ có cô cháu gái là Vũ Thị Kim Chi đem lòng yêu Tá Hán. Lúc đầu Tá Hán sợ phận mình nghèo khổ, khó kết thành vợ chồng. Nhưng sau khi nghe người nhà vị tiên chỉ thuyết phục rằng cô Chi có sẵn vốn liếng làm ăn, không phải lo nghèo chẳng nuôi nổi vợ, nên Tá Hán nghe theo.

Họ làm lễ thành hôn rồi mua đất, dựng nhà ở Hoa Trai, sau hơn một năm thì sinh ra Đào Duy Từ. Khi Duy Từ lên năm, chẳng may bố bị bệnh mất. Người mẹ chịu ở góa, một mình ngược xuôi tần tảo quyết nuôi cho con ăn học. Duy Từ tỏ ra rất sáng dạ, lại ham mê đèn sách, báo trước khả năng có thể thành đạt trên bước đường cử nghiệp.

Thế nhưng số phận thật là oái oăm! Theo luật lệ của triều đình bấy giờ, thì con cái những người làm nghề ca xướng đều không được quyền thi cử. Bà Kim Chi tiếc cho tài học của con, bèn thu gom vay mượn tiền bạc đến đút lót cho viên xã trưởng làng Hoa Trai là Lưu Minh Phương, để nhờ đổi họ Đào của con theo cha thành họ Vũ của mẹ, mong sao Duy Từ được dự kì thi Hương sắp tới .Viên xã trưởng thấy người vợ góa của Đào Tá Hán còn nhan sắc, nên nhận lời và ra điều kiện nếu xong việc thì phải lấy y.

Theo một vài tài liệu cho biết Đào Duy Từ đã dự khoa thi Hương năm 1593 đời vua Lê Thế Tông (l 567-1584) và đã đỗ á nguyên (thứ hai). Ông được mẹ khuyến khích dự tiếp kì thi Hội. Lúc này Duy Từ mới 2l tuổi.

Thấy việc đổi họ cho Duy Từ đi thi đã trót lọt, xã trưởng họ Lưu bèn đòi bà Kim Chi thực hiện giao ước tái giá về làm vợ mình. Bà Chi cứ lần chần, chối khéo, với lí do con mới thi đỗ, mẹ làm thế sẽ khó coi…

Viên xã trưởng tức giận, đem chuyện trình bày với tri huyện Ngọc Sơn, vốn là chỗ thân quen, để nhờ áp lực quan trên bắt bà mẹ Duy Từ phải thực hiện giao ước.

Viên tri huyện biết chuyện liền lập tức mật báo lên trên. Lúc này Duy Từ đang dự kì thi Hội. Bài Từ làm rất hay, chỉ có một điểm lập luận chưa vừa ý chúa, nên quan chủ khảo là Thái phó Nguyễn Hữu Liêu đang còn cân nhắc.

Giữa lúc đó thì có tin “sét đánh” ập đến lệnh triều đình truyền xuống đòi xóa ngay tên Vũ Duy Từ, hủy bỏ bài thi, lột hết mũ áo được ban, bắt ngay để tra xét. Đồng thời, gửi trát về cho tri huyện Ngọc Sơn trừng trị những kẻ liên đới.

Luật lệ thời đó quy định xử phạt rất nặng những ai dám phạm vào quy chế thi cử. Sắc chỉ vua Lê về các kì thi Hương đã ghi: ”Nếu người nào mà bị nghi gian thì bắt giữ đích thân đem việc tâu lên để trên xét”. Vì thế, ngay sau đó, Đào Duy Từ đã bị giam giữ, xét hỏi.

Ở quê bà Vũ Thị Kim Chi cũng không tránh khỏi sự truy xét. Bà vừa lo cho tính mạng của con, vừa oán giận sự khắc nghiệt, bất công của triều đình, nên đã phẫn uất đi đến tự tử.

Duy Từ biết tin mẹ mất, nhưng không được về chịu tang, thương cảm quá thành bệnh ngày càng nguy kịch.

Chính trong thời gian Đào Duy Từ gặp cảnh ngộ éo le này, thì chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613), cát cứ ở Đàng Trong, đang làm chuyến du hành ra Bắc với mục đích chúc mừng chúa Trịnh diệt được họ Mạc, luôn thể dò la tình hình của xứ Đàng Ngoài và thăm viếng phần mộ của cha ông xây cất ở vùng Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung), Thanh Hóa.

Nguyễn Hoàng có đến thăm Thái phó Nguyễn Hữu Liêu nên tình cờ nghe được chuyện ông này kể về tài năng và số phận hẩm hiu của người học trò nghèo Đào Duy Từ. Chúa Nguyễn đang nuôi ý đồ xây dựng cơ nghiệp riêng ở Đàng Trong nên muốn ”chiêu hiền đãi sĩ” lôi kéo người tài xứ Bắc về mình. Vì thế, khi biết chuyện Duy Từ, chúa đem lòng ái mộ, cảm mến, ngầm giúp Từ tiền bạc để sinh sống, chạy chữa thuốc men.

Giai thoại dân gian kể tiếp, trước lúc trở về Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã đến thăm Đào Duy Từ. Chúa chợt thấy trên vách buồng Duy Từ đang ở có treo bức tranh cầu hiền vẽ ba anh em Lưu Bị thời Tam Quốc bên Tàu lặn lội tìm đến đất Long Trung để vời đón Gia Cát Lượng là một bậc hiền tài.

Nguyễn Hoàng bèn chỉ lên bức tranh, tức cảnh đọc mấy câu thơ để tỏ lòng cầu hiền của chúa và cũng để dò xét tâm ý Đào Duy Từ:

Vó ngựa sườn non đá chập chùng
Cầu hiền lặn lội biết bao công

Duy Từ bèn đọc tiếp:

Đem câu phò Hán ra dò ý
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng. ..

Nguyễn Hoàng nối thêm:

Lãnh thổ đoạn chia ba xứ sở
Biên thùy vạch sẵn một dòng sông

và Duy Từ kết

Ví như chẳng có lời Nguyên Trực
Thì biết đâu mà đón Ngọa Long

Thế nhưng, kể từ khi có cuộc hội ngộ này, phải đến chục năm sau, Đào Duy Từ mới trốn được vào Nam. Lúc đó, Nguyễn Hoàng đã mất và ông phải đi ở chăn trâu cho nhà hào phú ở đất Tùng Châu, để chờ thời đem tài trí của mình cống hiến cho xã hội.

Giai thoại ‘Kẻ chăn trâu kỳ dị’ kể rằng Nhà phú hộ Lê Phú ở thôn Tùng Châu, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thuê được một đứa ở chăn trâu tên là Đào Duy Từ tuy đã đứng tuổi, nhưng cần mẫn, siêng năng. Ngày ngày cứ sáng, sớm lùa trâu đi ăn, mãi chập tối mới đánh trâu về, trời nắng cũng như trời mưa, khiến gia chủ rất vừa lòng, chưa hề có tiếng chê trách.

Một hôm, phú hộ họ Lê mời các Nho sĩ hay chữ khắp vùng đến nhà dự hội bình văn. Chập tối, sau khi tiệc tùng xong, mọi người còn trà thuốc, bàn cãi chữ nghĩa văn chương, thì vừa lúc Đào Duy Từ chăn trâu về. Thấy đám đông khách khứa trò chuyện rôm rả, Duy Từ bèn lại gần, đứng ghếch chân lên bậc thềm nhìn, tay vẫn cầm chiếc roi trâu, vai đeo nón lá, lưng quấn khố vải… Chủ nhà ngồi phía trong nhìn thấy cho là vô lễ, giận dữ quát:

– Kẻ chăn trâu kia! Hạng tiểu nhân biết gì mà dám đứng nhìn các quan khách đây là những bậc danh Nho ?

Duy Từ nghe mắng song không tỏ ra sợ hãi, cười ha hả, rồi nói một cách thản nhiên:

– Nho cũng có hạng ”nho quân tử”, hạng ”nho tiểu nhân”. Chăn trâu cũng có kẻ ”chăn trâu anh hùng”, kẻ ”chăn trâu tôi tớ”, cao thấp không giống nhau, hiền ngu không là một ! Còn kẻ tiểu nhân tôi chỉ đứng nhìn, có xâm phạm gì đến cái phú quý, sang trọng của các vị, mà chủ nhân lại mắng đuổi ?

Mấy người khách nghe Duy Từ là đứa chăn trâu, mà nói lí như vậy, liền vặn hỏi:

– Vậy nhà người bảo ai là “nho quân tử”, ai là “nho tiểu nhân” hả?

Đào Duy Từ chẳng cần nghĩ ngợi, nói luôn một mạch:

– “Nho quân tử” thì trên thông thiên văn, dưới thấu địa lí, giữa hiểu việc đời, trong nhà giữ được đạo cha con, tình nghĩa vợ chồng, anh em, bè bạn, ngoài xã hội thì biết lo việc nước, vỗ yên dân, giúp đời, phò nguy cứu hiểm, để lại sự nghiệp muôn đời. Còn “nho tiểu nhân” thì chỉ là bọn học vẹt, cầu danh cầu lộc, khoe ít chữ nghĩa, coi thường hào kiệt, may được giữ một chức quan nhất thời, thì chỉ tìm trăm phương ngàn kế để mưu đồ lợi riêng làm sâu mọt hại dân đục nước, thật là đáng sợ !

Đám khách nghe Duy Từ nói thế, đều giật mình kinh ngạc, không ngờ một đứa chăn trâu mà lí lẽ cứng cỏi làm vậy, bèn tò mò hỏi thêm:

– Còn ”kẻ chăn trâu anh hùng”, kẻ ”chăn trâu tôi tớ” thì nghĩa làm sao, nhà ngươi thử nói nghe luôn thể ? Duy Từ mỉm cười, ung dung trả lời:

– ”Chăn trâu anh hùng” thì như Ninh Thích phục hưng nước Tề, Điền Đan thu lại thành trì cho nước Yên, Hứa Do cho trâu uống nước ở khe mà biết được hưng vong trị loạn, Bạch Lý Hề chăn dê mà hiểu thấu thời vận thịnh suy. Đó là những kẻ ”chăn trâu anh hùng”. Còn những bọn chỉ biết cam phận tôi tớ, chơi bời lêu lổng, khi vui thì reo hô hoán, khi giận thì chửi rủa, đánh đấm, chẳng kể gì thân sơ, làm cha ông phải xấu lây, xóm làng chịu điều oan. Đấy là hạng ”chăn trâu tiểu nhân” cả !

Mọi người nghe Duy Từ đối đáp trôi chảy, sách vở tinh thông, nghĩa lí sâu sắc, càng thêm kinh ngạc, nhìn nhau, rồi đứng cả dậy, bước ra ngoài thềm mời Duy Từ cùng vào nhà ngồi. Nhưng Duy Từ vẫn tỏ ra khiêm tốn chối từ. Cả bọn bèn dắt tay Duy Từ lên nhà, ép ngồi vào chiếu trên.

Gã phú hộ Lê Phú rất đỗi ngạc nhiên, thấy kẻ đầy tớ chăn trâu nhà mình mà nói toàn chữ nghĩa nên còn ngờ, bèn giục mấy nhà Nho văn hỏi thêm, thử sức Duy Từ về kiến thức, sách vở cổ kim xem hư thực ra sao.

Các vị Nho học nhất vùng hỏi đến đâu, Đào Duy Từ đều đối đáp trôi chảy đến đó và tỏ ra không có sách nào chưa đọc đến, không có chữ nào không thấu hiểu, khiến cho cả bọn phải thất kinh, bái phục sát đất !

Chủ nhà cũng không kém phần sửng sốt, mới vỗ vai Duy Từ, đổi giận làm lành, mà rằng:

– Tài giỏi như thế, sao bấy lâu cứ giấu mặt không cho lão già này biết, để đến nỗi phải chăn trâu và chịu đối xử bạc bẽo theo bọn tôi tớ ? Quả lão phu có mắt cũng như không. Có tội lắm ! Có tội lắm!

Từ đó chủ nhà may sắm quần áo mới xem Duy Từ là khách quý, mời ngồi giảng học, đối đãi hết sức trọng vọng. Chủ nhà đã tiến cử Đào Duy Từ cho quan Khám lý Trần Đức Hòa. Vì mến tài của Đào Duy Từ, Trần Đức Hòa đã gả con gái cho, đồng thời tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Sau cuộc gặp gỡ với Đào Duy Từ, Chúa Sãi đã phong cho ông làm Nha uý Nội tán.

Giai thoại “bước ngoạt cuộc đời” kể rằng: Sau buổi đối đáp với các nhà nho ở Tùng Châu, tiếng tăm Đào Duy Từ – một kẻ chăn trâu kì lạ, tài giỏi hơn người, lan truyền khắp nơi. Bấy giờ có vị quận công, anh em kết nghĩa với chúa Nguyễn, rất có thế lực, là Khám lí Trần Đức Hòa hay tin. Ông này cho đón Đào Duy Từ đến nhà chơi. Qua các buổi chuyện trò, đàm đạo văn chương, Khám lí họ Trần đã nhận thấy Duy Từ có học vấn uyên bác, lại tỏ ra chí lớn hơn người, bèn đem lòng yêu quý và gả người con gái là Trần Thị Chính cho Từ làm vợ.

Khi đã có chốn nương thân vững chắc Đào Duy Từ mới dần dà lộ rõ chí hướng phò vua giúp nước đã nung nấu suốt mấy chục năm cho bố vợ biết. Ông đưa tác phẩm “Ngọa Long cương vãn” của mình cho Trần Đức Hoà xem. Nội dung bài chính là nỗi lòng của Duy Từ, tự ví mình như Gia Cát Lượng (là một nhà quân sự, chính trị nổi tiếng bên Trung Quốc, vì chưa được thi thố tài năng, nên còn ẩn náu ở chốn Ngọa Long). Nỗi lòng đó của Duy Từ được thể hiện rõ ở đoạn kết:

Chốn này thiên hạ đã dùng
Ắt là cũng có Ngọa Long ra đời
Chúa hay dùng đặng tôi tài
Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên

Khám lí Trần Đức Hòa xem đi xem lại bài ”Ngọa Long cương” của con rể, thấy văn từ khoáng đạt, điển tích tinh thông, ý chí mạnh mẽ, hoài bão lớn lao, đã tấm tắc khen, rồi tìm cách dâng lên chúa Nguyễn xem để tiến cử Duy Từ với chúa.

Bấy giờ chúa Nguyễn là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (16l3- l635) đang có ý định kén chọn nhân tài, để dựng nghiệp lớn, nên khi xem xong bài vãn của Đào Duy Từ đã rất tâm đắc, bèn lệnh cho Khám lí Trần Đức Hòa dẫn ngay người con rể vào gặp chúa.

Gia đình nhà vợ vội may sắm quần áo, khăn mũ hợp nghi thức để Duy Từ mặc vào chầu cho thật chỉnh tề nhưng Duy Từ nhất mực từ chối, viện lẽ rằng mình không dám dùng, vì chưa có chức tước!

Trước buổi tiếp, Sãi Vương muốn thử tư cách Đào Duy Từ, nên chúa mặc y phục xuềnh xoàng, cầm gậy đứng trước cửa, thái độ lơ đãng, như chờ một kẻ hầu nào đấy.

Từ xa, Đào Duy Từ đã nhìn thấy vẻ thờ ơ của chúa, bèn giả tảng hỏi bố vợ:

– Người kia là ai vậy, thưa cha?

Trần Đức Hòa sợ hãi, trả lời:

– Ấy chết! Sao con dám hỏi vậy? Vương thượng đấy, Người đứng chờ, con mau mau đến bái lạy!

Duy Từ nghe bố vợ nói, chỉ cười nhạt rồi quay lại chực không đi nữa. Khám lí Trần đi trước, ngoảnh lại thấy con rể bỏ về, sợ khiếp đảm, liền níu lại quở trách:

– Con làm thế này thì tội phạm thượng sẽ trút lên đầu cha

Duy Từ đáp:

– Thưa cha, vì con thấy chúa đang trong tư thế đi dạo với các cung tần mỹ nữ, chứ không có nghi lễ gì gọi là tiếp đón khách hiền. Nếu con lạy chào tất phạm vào tội khinh vua.

Nghe con rể nói vậy, ông bố vợ lại càng thất kinh, cáu kỉnh cầm tay Duy Từ bắt trở lại ngay, để lạy chào chúa, không được để chúa phải chờ. Nhưng Duy Từ vẫn dùng dằng không chịu nghe lời.

Từ xa, Sãi Vương đã để ý quan sát thấy tất cả, biết Đào Duy Từ là kẻ tài giỏi thực, tính khí khái, chứ không giống những bọn tầm thường, chỉ cốt quỵ lụy, được ra mắt chúa, hòng tiến thân để kiếm chút bổng lộc, chức tước mà thôi. Chúa bèn quay vào nội phủ, thay đổi áo quần và bảo thái giám đem áo mũ ban cho Duy Từ, rồi vời vào sảnh đường tiếp kiến.

Kể từ buổi đó, Đào Duy Từ được chúa Sãi Vương tin yêu, trọng vọng, tôn làm quân sư, luôn ở cạnh chúa để bàn bạc việc quốc gia trọng sự. Ông được phong chức Tán trị, tước Lộc Khê hầu, nên người đời vẫn quen gọi ông là Lộc Khê.

Năm 1627, chúa Trịnh Đàng Ngoài muốn bắt họ Nguyễn ở Đàng Trong thần phục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương và đòi lễ vật cống nạp. Chúa Sãi không chịu, nhưng bề ngoài chưa biết xử trí ra sao, bèn hỏi ý kiến Lộc Khê Đào Duy Từ. Theo một số tư liệu, thì chính Duy Từ là người khuyên chúa bước đầu cứ nhận sắc phong, rồi sau sẽ tìm kế đối phó.

Ba năm sau, thấy thời cơ thuận lợi, bấy giờ Lộc Khê mới bàn với Sãi Vương, sai thợ làm một chiếc mâm đồng có hai đáy, bỏ sắc vua Lê phong kèm với một tờ giấy có 4 câu chữ Hán vào giữa, rồi hàn kín lại. Trên mâm cho bày nhiều lễ vật hậu hĩnh, rồi cử sứ giả mang ra Thăng Long, để tạ ơn vua Lê, chúa Trịnh.

Triều đình Đàng Ngoài nhận được mâm lễ vật tỏ ý ngờ vực, bèn cho khám phá bí mật ở phía trong và cuối cùng họ đã phát hiện chiếc mâm có hai đáy. Khi đem đục ra thì thấy có sắc vua phong dạo trước và tờ giấy viết bốn câu chữ Hán sau:

Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch

Dịch nghĩa từng câu là: chữ ”mâu” không có dấu phết; chữ ”mịch” bỏ bớt chữ ”kiến”; chữ ”ái” để mất chữ ”tâm” và chữ ”lực” đối cùng chữ ”lai”.

Thoạt đầu, chúa Trịnh và cả đình thần không ai hiểu bốn câu trên ngụ ý gì. Sau chúa phải cho vời viên quan thông thái nhất triều vào hỏi, thì mới vỡ lẽ rằng, trong chữ Hán, chữ ”mâu” viết không có dấu phết thì thành chữ ”dư”. Chữ ”mịch” mà bỏ chữ ”kiến” thì là chữ “bất”. Chữ ”ái” nếu viết thiếu chữ ”tâm” thì ra chữ ”thụ” và chữ ”lực để cạnh chữ ”lai” sẽ là chữ ”sắc”. Gộp cả bốn chữ mới lại thành câu: ”Dư bất thụ sắc”, nghĩa là ”Ta chẳng chịu phong”.

Chúa Trịnh thấy họ Nguyễn chối từ, trả lại sắc phong bằng một mẹo kế tài tình, thì vừa tức giận, vừa phục tài, bèn cho dò la và biết được đều do Lộc Khê Đào Duy Từ bày đặt ra cả. Chúa tính kế làm sao để lôi kéo Lộc Khê bỏ chúa Nguyễn Đàng Trong về với triều đình Lê – Trịnh Đàng Ngoài.

Chúa lập mưu sai người mang nhiều vàng bạc bí mật vào biếu Đào Duy Từ, kèm một bức thư riêng để nhắc ông rằng tổ tiên, quê quán vốn ở Đàng Ngoài, nếu trở về sẽ được triều đình trọng vọng, cho giữ chức quan to.

“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay”

Đào Duy Từ đã trả lại quà tặng và viết bài thơ phúc đáp chúa Trịnh như sau:

Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?…

Chúa Trịnh đọc thơ biết khó lòng lôi kéo được họ Đào, nhưng thấy bài thơ chưa có câu kết, ý còn bỏ ngỏ, nên vẫn nuôi hi vọng, bèn cho người đem lễ vật hậu hơn, cầm thư chúa vào gặp Đào Duy Từ lần nữa.

Lần này, ông mới viết nốt hai câu kết gửi ra, để trả lời dứt khoát việc mời mọc của chúa Trịnh. Hai câu đó như sau:

Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen!

Từ đấy Đào Duy Từ ở lại giúp chúa Nguyễn ổn định và phát triển vùng đất miền trong, mở mang bờ cõi đất nước ta cho đến lúc qua đời.

LŨY THẦY ĐÀO DUY TỪ

Năm Canh Ngọ 1630, Đào Duy Từ chủ xướng việc thiết kế và chỉ đạo xây dựng hai công trình phòng thủ quan trọng là Lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc và Lũy Thầy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu nay thuộc thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.  Sách Việt Nam sử lược có viết chi tiết về việc Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến đã giúp chúa Nguyễn bày mưu định kế,luyện tập quân lính xây đồn đắp lũy để chống với quân họ Trịnh. Người ta thường gọi lũy ấy là lũy Thầy, nghĩa là lũy của Đào Duy Từ đắp ra. Lũy Thầy là chiến lũy quan trọng, giúp chúa Nguyễn có thể phòng thủ hiệu quả trước nguy cơ tấn công của quân Trịnh.  Năm 1992, Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao đã ra quyết định công nhận di tích lịch sử đối với hệ thống Lũy Thầy tại thị xã Đồng Hới và huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình với nhiều giá trị to lớn. Mặc dù Đào Duy Từ không phải là người quê ở đây nhưng là người có công rất lớn đối với Quảng Bình nên được nhân dân mến mộ , xếp vào danh nhân tiêu biểu của Quảng Bình

LuyThay

Lũy Thầy theo kế sách của Đào Duy Từ là hệ thống phòng thủ chiều sâu “Đèo Ngang – Sông Gianh – Lũy Thầy”. Đào Duy Từ phân tích rằng quân Trịnh dẫu đông và mạnh gấp bội quân Nguyễn nhưng bị chặn bởi ba tuyến phòng thủ liên hoàn lợi hại tạo bởi trở núi, cách sông kết hợp hệ thống chiến lũy liên hoàn. Sự sắc bén của quân Trịnh sẽ giống như mũi tên đuối tầm, dẫu có thể vượt qua Hoành Sơn, nhưng sẽ kiệt sức ở Linh Giang, và bị chặn đứng tại Định Bắc Trường Thành. Sự thật lịch sử, suốt thời Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài 45 năm (1627- 1672) đánh nhau cả thảy bảy lần, họ Trịnh thường mạnh hơn nhưng quân Nam tướng sĩ hết lòng, đồn lũy chắc chắn nên đã chống cự rất hiệu quả với quân Trịnh. Lũy Thầy là một hệ thống thành lũy bằng đất, đá được hình thành trong thời gian 3 năm (1630-1634) với tổng chiều dài gần 34 km gồm lũy Trường Dục, lũy Trấn Ninh (lũy Đầu Mâu) và lũy Trường Sa. Lũy Thầy là một công trình kiến trúc quân sự có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử xây dựng thành lũy ở Việt Nam, thể hiện sự kết hợp một cách khoa học giữa thành lũy, sông ngòi, hầm hào liên hoàn, hỗ trợ cho nhau. Ngoài công dụng quân sự, lũy còn có tác dụng về nông nghiệp, thủy nông, thủy lợi như ngăn gió bão, gió mùa, hạn chế cát bay. Và nhiều nét sinh hoạt văn hóa khác gắn liền… Trong cả hệ thống, lũy Đầu Mâu thuộc làng Lệ Kỳ, xã Vĩnh Ninh, huyện Quảng Ninh được cho là còn khá nguyên vẹn. Năm 1631, sau khi xây xong lũy Trường Dục, chúa Nguyễn chưa yên tâm bèn sai Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu Dật đi Quảng Bình xem xét hình thế núi sông vùng Đông Hải để xây thêm thành lũy phòng ngự. Khảo sát xong, Đào Duy Từ tâu: Thần xem từ cửa Nhật Lệ đến núi Đầu Mâu, phía ngoài có nước khe, bùa lũy sâu rộng Nguyễn Phúc Nguyên đồng ý cho xây ngay. Bia Định Bắc Trường Thành mô tả lũy Đầu Mâu như sau: “Lũy Đầu Mâu cao 1 tượng 5 thước (tương đương 6m), phía ngoài đóng cọc gỗ lim, phía sau cọc tre, đổ đất lên 5 tầng cấp để voi ngựa có thể bước lên và di chuyển dễ dàng trên mặt lũy. Cứ cách 3-5 tượng thì xây 1 pháo đài để đặt 1 súng thần công, cứ cách 1 tượng thì đặt 1 súng phóng đá, sỏi – tất cả tạo thành một công trình phòng thủ hiểm yếu và kiên cố nhất.  Lũy có chiều dài 12 km.

Hậu thế học Đào Duy Từ , sau này, hệ thống phòng thủ chiều sâu “túi bom Quảng Bình- tuyến phòng thủ Khe Sanh Quảng Trị- chốt Thượng Đức Quảng Nam” người Pháp, người Mỹ, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều hiểu tầm quan trọng của  chốt Thường Đức như “mắt ngọc của đầu rồng” trên đường 14. Họ đã lập đồn lũy để kiểm soát trấn giữ nhằm tìm cách khóa chặt đường tiến và tiếp liệu của quân Bắc xuống phương Nam, phải sử dụng đường Tây Trường Sơn trên đất Lào rất vất vả. Chốt Thượng Đức Quảng Nam với cao điểm 1062, ngã ba sông Con, sông Cái, sông Vu Gia, Hà Tân Đại Lãnh lập thành thế trận hiểm yếu giống như hệ thống phòng thủ đèo Ngang, Rào Nan, Nguồn Son, Linh Giang, lũy Trấn Ninh, Trường Dục của thời Đào Duy Từ. Do thiếu tầm nhìn chiến lược kỳ tài của Đào Duy Từ với các danh tướng tài ba như Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến nên cửa thép Đà Nẵng miền Nam đã sụp đổ. Đó là điểm nhìn tham chiếu sâu sắc cho hậu thế. (Đêm ngủ ở Hà Tân Đại Lãnh, Hoàng Kim liên tưởng)

ĐỀN THƠ LÀNG HOA TRAI

Đào Duy Từ là người làng Hoa Trai, Ngọc Sơn, Tỉnh Gia, Thanh Hóa. Nơi đây có đền thờ của Đào Duy Từ. Huyện Tỉnh Gia hiện là điểm đến du lịch của tỉnh Thanh Hóa. Sự kết hợp hài hòa giữa các cảnh quan biển, đảo, đồng bằng, trung du và miền núi đã tạo cho Tĩnh Gia thế mạnh phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là du lịch. Ðến với Tĩnh Gia, du khách ghé thăm những địa danh nổi tiếng như Hòn Bảng, Hòn Biện Sơn, Hòn Mê, núi Ngọc Sơn, núi Am, núi Thề Nguyền, hồ Yên Mỹ, động Trúc Lâm, nhà thờ Ðào Duy Từ, nhà thờ Bùi Thị Xuân, nhà thờ Lê Ðình Châu Tất cả tạo thành quần thể du lịch vô cùng độc đáo, là sự tổng hoà giữa những cảnh đẹp do thiên nhiên ban tặng cùng các truyền thuyết, dấu tích lịch sử.  Cụm di tích Lạch Bạng có chùa Đót Tiên, đền thờ Quang Trung, nhà thờ Ba Làng xây dựng năm 1893 sớm nhất ở Việt Nam. Trên đường về thành phố Thanh Hóa, du khách dừng lại làng Hoa Trai (Nguyên  Bình Tĩnh Gia) để dâng hương tại đền thờ Đào Duy Từ một danh nhân văn hóa ở quê Thanh…”

DaoDuyTu2

ĐÀO CÔNG Ở TÙNG CHẦU

Đào Duy Từ qua đời năm 1634, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho đưa thi hài ông về mai táng và lập đền thờ tại làng Tùng Châu thuộc xã Hoài Thanh huyện Hoài Nhơn. Di tích lăng mộ Đào Duy Từ thuộc địa phận thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn. Năm Gia Long 4 (1805) nhà Nguyễn xét công trạng khai quốc công thần, Đào Duy Từ được xếp hàng đầu, được cấp 15 mẫu tự điền và 6 người trông coi phần mộ. Đến năm Minh Mệnh 17 (1836), triều đình lại sai dân sở tại sửa chữa lăng mộ cho ông. Mộ Đào Duy Từ qua thời gian và chiến tranh bị hư hại nhiều, năm 1999 tcó sửa sang lại.. Mộ cụ Đào Duy Từ nay nằm giữa vườn dừa và sắn KM94 xanh tốt.

DaoDuyTu3

Tôi đến dâng hương Cụ. Mưa rồi tạnh. Hương chợt bùng lên hóa sạch trước mộ của Người. Một vùng đất bình lặng trong thế núi tuyệt đẹp, cồn đất an lành và khu đầm ruộng lúa vòng cung rộng rãi như một vầng trăng non ôm gần trọn doi đất, Nơi đây trước kia nghe nói là vùng đầm sen, chốn ngọa long ẩn mình của kẻ sĩ chăn trâu kỳ dị.

Di tích Nhà thờ Đào Duy Từ hiện tại thuộc thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn (cách Quy Nhơn khoảng 80km về phí Bắc). Nhà thờ nằm trong khuôn viên một thửa đất hình chữ T có diện tích 1.616 m2, được xây dựng vào năm Tự Đức 12 (1859), đã trãi qua nhiều lần trùng tu. Nhà thờ có tam quan cao khoảng 6m, hai mái lợp ngói âm dương, trên có bốn chữ lớn “Quốc công từ môn” (cổng đến thờ Quốc công) ghép bằng mảnh sứ, hai bên đắp phù điêu hình hai con dơi cánh điệu, đường nét khá sắc sảo, bốn trụ góc có hình rồng uốn lượn. Qua Tam Quan có sân nhỏ hình chữ nhật, kích thước 6,9m x 7,8m. tiếp đến là bình phong đắp hình long mã lưng có hà đồ nỗi trên mặt nước, mặt sau đề bốn chữ “Bách thế bất di” (Trăm đời không thay đổi). Ở hai bên là đôi câu đối nhắc đến lai lịch Đào Duy Từ: “Ngọc sơn chung tú Bắc/ Bồng lãnh hiển danh Nam”. Cách đều bình phong 2,6m về hai bên có hai cột trụ cao 4m, trên đỉnh đắp tượng hạc đứng chầu đối xứng, phía sau là sân lớn hình chữ nhật với kích thước 15,4m x 14m. qua sân lớn đến nhà thờ được thiết kế kiểu nhà mái lá, một kiểu kiến trúc truyền thống ở Bình Định. Khám thờ bên trong có bài vị của Đào Tá Hán, Nguyễn Thị Minh (thân phụ và thân mẫu của Đào Duy Từ), Đào Duy Từ và vợ. Trên bài vị Đào Duy Từ có dòng chữ “ô Thủy tổ khảo nội tán lộc khê hầu Đào Công, tặng khai quốc công thần, đặc tiến Vinh lộc đại phu, Đông các đại học sỹ, Thái sư, nhưng thủy Trung Lương, phong Hoàng Quốc Công thần chủ” Bài vị của vợ Đào Duy Từ viết “ôThủy tổ tỉ nội tán Lộc khê hầu Hoàng Quốc Công phu nhân, Trinh thục cao thị thần chủ”. Trong nhà thờ còn có đôi câu đối nhưng nay đã sứt mòn, mờ không đọc được. Ngoài ra, tại thôn Ngọc Sơn còn có lăng Đào Tá Hán. Truyền rằng khi đã làm quan ở Thuận Hóa, Đào Duy Từ cho đắp mộ phụ thân rồi tung tin rằng đã đưa hài cốt cha mẹ vào đây để phòng việc trả thù của họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Lăng mộ hiện nằm trên một quả đồi rộng. Cũng tại Ngọc Sơn hiện có một ngôi chùa nhỏ, tương truyền là nơi đi tu của bà vợ cả họ Cao.

Di tích nhà thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài thuộc xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn. Trong đền thờ khám thờ là bài vị Đào Duy Từ cũng ghi giống như bài vị bên nhà thờ thôn Ngọc Sơn.  Sách Đại Nam Nhất Thống Chí và Đồng Khánh Dư Địa Chí đều chép đền thờ Hoàng Quốc Công Đào Duy Từ ở thôn Cự Tài, huyện Bồng Sơn (nay là Hoài Nhơn). Trong chiến tranh nhà thờ này đã bị sụp đổ. Năm 1978 dòng họ Đào xin kinh phí của tỉnh Nghĩa Bình để xây dựng lại đền thờ trên nền cũ hiện chỉ còn lại hai trụ cổng và tấm đại tự cũng đề “Quốc Công từ môn” (giống như nhà thờ ở thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây) là dấu tích kiến trúc năm Tự Đức thứ 32 (1880) và lần trùng tu năm Khải Định thứ 1 (1861).

Những di tích kể trên, theo đơn vị hành chính hiện nay, lăng mộ cụ Đào Duy Từ tại thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, và nhà thờ ở thôn Cự Tài, xã Hoài Phú, nhà thờ và lăng mộ cụ Đào Tá Hán tại thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây,  tuy nằm ở các thôn, xã khác nhau nhưng tất cả vùng đất này đều của trại Tùng Châu xưa. Đây là những xã thôn mà hiện nay con cháu Đào Duy Từ còn rất đông đảo, đặc biệt là ở thôn Cự Tài.

Hàng năm vào ngày 17 tháng 10 (âm lịch) là ngày giỗ Đào Duy Từ, con cháu họ Đào tổ chức cúng tế rất long trọng. Theo quy ước, cứ vào dịp này con cháu dòng tộc đều nghỉ việc đồng áng trong ba ngày. Sau khi làm lễ thắp hương tại lăng mộ Đào Duy Từ (thôn Phụng Du) con cháu về họp mặt và dâng hương tại đền thờ cha mẹ và vợ chồng Đào Duy Từ ở thôn Ngọc Sơn rồi sau đó mới trở về tế lễ chính thức tại đền thờ Đào Duy Từ ở thôn Cự Tài. Ngoài ngày giỗ chính (17 tháng 10), hàng năm tại các di tích trên còn có 5 ngày lễ phụ vào dịp Đông chí, Chạp mả, Thanh minh, Trung thu và Tết Nguyên đán. Ngày giỗ Đào Duy Từ cũng là ngày con cháu phối hợp cúng tế thân phụ và thân mẫu cùng vợ của ông. Duy bà vợ cả còn có ngày riêng là 12 tháng 2 âm lịch tại chùa tu của bà ở thôn Tài Lương. Giỗ bà hàng năm( gọi là tiểu chẩn) chỉ sửa cơm chay, cứ mười năm (gọi là trung chẩn) thì lễ vật có thêm đôi chim sống, một đôi gà sống cúng xong thả chim gà ra rồi con cháu thi nhau đuổi bắt, cứ 30 năm (đại chẩn) mới sửa cỗ mặn.

Tôi về mảnh đất Tùng Châu xưa, đã lần tìm theo những trang ghi chép cũ để thấu hiểu sự nhọc nhằn khởi nghiệp của bậc anh hùng và để thấy dấu ấn cùng với ảnh hưởng lớn lao của cụ Đào Duy Từ đối với vùng đất này.

DaoDuyTu5

Gia thế Đào Duy Từ qua hai cuốn gia phả ảnh của  TS. Đinh Bá Hòa . Dấu tích của Gia phả họ Đào niên hiệu Thành Thái năm thứ 3 (1891) – một trong những tài liệu ghi chép rất tỉ mỉ, cụ thể về gia thế Đào Duy Từ. Nơi đây, không chỉ có con cháu họ Đào tự hào về vị tổ tiên của mình mà tất cả mọi người dân đều hãnh diện về ông. Cuộc đời và sự nghiệp Đào Duy Từ đã trở thành niềm tự hào chung của dân Hoài Nhơn, của nhân dân Bình Định. Cuộc hành hương về mảnh đất xưa nơi Đào Duy Từ chăn trâu để tìm chân chúa và thời vận. Cuộc đời và sự nghiệp Đào Duy Từ còn mãi với thời gian.

Đền thờ Đào Duy Từ ở làng Lạc Giao, Buôn Ma Thuột

Đình Lạc Giao

ĐÌNH LẠC GIAO ĐẮC LĂK
Đình Lạc Giao thuộc phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, được lập năm 1929, là ngôi đình làng đầu tiên của những người Việt từ đồng bằng lên đây lập nghiệp thờ thành hoàng làng là Đào Duy Từ. Đình Lạc Giao năm 1932 được xây dựng lại bằng gạch lợp ngói theo hình chữ Môn, gồm có nhà thờ Thần Hoàng và những người có công với nước, hai nhà tả hữu hai bên dùng làm nơi hội họp mỗi khi tế lễ, phía trước có cổng tam quan đi vào, sau cổng có bức bình phong có chạm khắc hổ phù, sau nữa là một lư hương lớn.

DaoDuyTu6

Đình Lạc Giao năm 1932, vua Bảo Đại ra chiếu sắc phong thần hoàng Đào Duy Từ, khẳng định đây là đất của “Hoàng triều cương thổ”.

DSC07461

Làng Lạc Giao ban đầu chỉ dăm nóc nhà dọc theo con đường suối Ea Tam, xóm người Việt ấy được gọi là thôn Nam Bang. Họ từ những người bị tù lưu đày xa xứ, rồi những dân phiêu bạt từ các vùng đất miền Trung nghèo khó tìm nơi lập nghiệp sinh sống, rồi những công chức, thầy giáo, binh lính được bổ nhiệm lên vùng đất xa xôi. làm rẫy dọc theo khu rừng già ven suối, bên cạnh một buôn của Ama Thuột. Năm 1924, họ gọi xóm người Việt di cư đến là Lạc Giao với ý nghĩa: Lạc là con Lạc cháu Hồng, Giao nghĩa là nơi bang giao Kinh – Thượng. Tên gọi Lạc Giao là lời nguyền giao ước an cư lạc nghiệp của đồng bào Kinh- Thượng, cùng chung lưng đấu cật xây dựng vùng đất mới này. Năm 1925, làng Lạc Giao được mở rộng bao trùm cả một khu vực rộng lớn ở ngay trung tâm Buôn Ma Thuột.

Đình Lạc Giao trước đó được hình thành theo tài liệu của đình được ghi nhận là do ông Phan Hộ, người Quảng Nam, vào Ninh Hoà, Khánh Hoà) sinh sống. Thuở ấy, lên cao nguyên Dak Lak chưa có đường, ông Phan Hộ cùng một số trai tráng đi bằng voi, ngựa xuyên rừng vài tháng mới tới vùng M’Drak rồi đến Buôn Ma Thuột trao đổi hàng hoá với người Ê Đê, thấy người dân ở đây giàu lòng mến khách, đất đai màu mỡ lại dễ làm ăn, nên ông vận động nhiều gia đình lên đây sinh sống, khai phá đất hoang để lập làng. Nỗi nhớ thương quê nhà bản quán, anh em khôn nguôi trong lòng những người đi xa quê, làm ăn xứ lạ. Từ đó họ có nhu cầu gặp gỡ, trao đổi công việc làm ăn, nhất là Lễ Tết có nơi cúng kiếng ông bà tổ tiên, nhắc chuyện quê hương làng xóm. Họ đã góp tiền của công sức dựng nên ngôi đình trên để thoả nỗi ước mong đó. Đình Lạc Giao ra đời ghi dấu bước chân của người Việt trên mảnh đất cao nguyên, là nơi mọi người cầu mong sức khoẻ và làm ăn phát đạt, nơi thờ các vị tiên hiền và người có công với đất nước, nơi sinh hoạt trong những ngày lễ tết của cư dân Việt trên vùng đất mới.

Năm 1932, vua Bảo Đại ra chiếu sắc phong cho thần hoàng của làng là Đào Duy Từ, khẳng định đây là đất của “Hoàng triều cương thổ”. Nhân vật được sắc phong Thần Hoàng là một danh nhân văn hoá, một tài năng lớn trong nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá … đặc biệt ông là người có công mở mang đất nước, xây dựng nên nhiều vùng đất mới. Hằng năm cứ đến ngày 17-10 âm lịch, nhân dân Buôn Ma Thuột lại tổ chức ngày tưởng niệm tại đình …’’

Hoàng Kim đã về dâng hương tưởng nhớ Đào Duy Từ ở đất Tùng Châu xưa. Tôi lần tìm theo những trang ghi chép cũ để thấu hiểu sự nhọc nhằn khởi nghiệp của bậc anh hùng và để thấy dấu ấn cùng với những ảnh hưởng lớn lao của Đào Duy Từ đối với mảnh đất này. Tôi may mắn  thăm  Đình Lạc Giao, Lũy Thầy và các nơi để chứng ngộ công đức của Người và cảm nhận. Cám ơn gia tộc Đào Duy, phó giáo sư Đào Thế Anh, giáo sư Mai Văn Quyền, giáo sư Lê Văn Tố, phó giáo sư sử học Trương Minh Dục, thầy Dương Duy Đồng, thầy Nguyễn Minh Hiếu, em Nguyễn Thị Trúc Mai, em Phạm Văn Ngọc, một số người đã trực tiếp chứng kiến các khảo sát điền dã nông nghiệp lịch sử của tôi đã gợi ý cho tôi tiếp tục hoàn thiện bài viết này.

Tài liệu tham khảo chính
1) Đào Xuân Hưng 2010. Họ Đào Việt Nam http://hodaovietnam.com/home
2) Nguyễn Khắc Thuần 2012. Giai thoại dã sử Việt Nam; Nhà Xuất bản Giáo dục
3) Trần Trọng Kim 1921 Việt Nam sử lược, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin 1999;
4) Trịnh – Nguyễn diễn chí, quyển 2;
5) Trang thông tin điện tử tỉnh Bình Định http://www.baobinhdinh.com.vn;
(TS. Đinh Bá Hòa 2012. Gia thế Đào Duy Từ qua hai cuốn gia phả, Trong: Báo Bình Định, http://www.baobinhdinh.com.vn/vanhoa-nghethuat/2012/2/122623). Cuốn thứ nhất chép năm Tự Đức 30 Đinh Sửu (1872) và cuốn thứ hai chép năm Thành Thái thứ 3, vào tháng 2 năm Tân Mão (1891)… Về nội dung, hai cuốn gia phả đều chép giống nhau về các đời của họ Đào, trong cùng một khung niên đại, từ đời viễn tổ Đào Duy Trung đến mốc soạn tu gia phả. Bản năm Tự Đức bị mất một số trang phần liệt kê các chi phái. Bản Thành Thái do trùng tu trên cơ sở của bản trước nên văn phong sáng sủa, ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ hơn… Về lai lịch họ Đào, kể từ Đào Duy Từ và vợ ông là Cao Thị Nguyên trở về trước, cả hai bản đều ghi là ở Thanh Hóa. Về vợ Đào Duy Từ, sử sách về ông đều chép, ông được khám lý Trần Đức Hòa gả con gái cho. Vậy nên có cơ sở để nói rằng Đào Duy Từ có hai vợ. Về bà Cao Thị Nguyên, gia phả họ Đào ghi bà là vợ Đào Duy Từ. Về bà Trần Thị (không nói rõ tên) cả chính sử và dã sử đều chép là vợ của Lộc Khê hầu. Ở Hoài Nhơn, cách đền thờ Đào Duy Từ 300 m có đền thờ bà Trần Thị, trước cổng đề biển “Quốc ông phu nhân tự”... Đối chiết tài liệu gia phả do TS. Đinh Bá Hòa cung cấp với dã sử và khảo sát thực tế cần xác định rõ thêm người vợ Trần Thị của Đào Duy Từ và gia tộc khám lý Trần Đức Hòa, để rõ thêm con cái và hành trạng hai người vợ  của ông.  Con cháu họ Đào cũng cho biết, không hiểu từ bao giờ tại vùng này, trai gái hai họ Trần và Đào không được lấy nhau mà coi nhau như anh em ruột thịt. Hiện nay tục này vẫn giữ tuy không còn nghiêm ngặt.Theo hai bản gia phả, bà Cao Thị Nguyên là vợ của Đào Duy Từ… Đào Duy Từ và vợ cả đều là người Tĩnh Gia – Thanh Hóa. Ông lấy bà Cao Thị Nguyên trước khi vào Đàng Trong. Tài liệu chính sử và dã sử đều ghi Đào Duy Từ vào Đàng Trong năm 1625, lúc này đã 53 tuổi. Năm 1627, Đào Duy Từ gặp Trần Đức Hòa, được ông gả con gái và tiến cử lên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên… Các tài liệu ghi năm 1631 Đào Duy Từ gả con gái cho Nguyễn Hữu Tiến, tuy không nói rõ con bà vợ nào nhưng chắc chắn là con bà Cao Thị Nguyên. Tài liệu cũng chép, bà Cao Thị Nguyên không theo ông vào Đàng Trong mà ở quê nhà trông coi phần mộ cha mẹ Đào Duy Từ , ông chỉ mang các con vào sau khi đã thành danh. Vậy mộ song thân của Đào Duy Từ và bà vợ họ Cao được đón vào lúc nào cần được tìm hiểu rõ hơn.
6) Trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình http://www.quangbinh.gov.vn ;
7) Trang thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa http://www.thanhhoa.gov.vn
8)  Đào Duy Từ (chuyên luận Hoàng Kim)  đã bổ sung, chỉnh sửa , hiệu đính nhân ngày 17 tháng 10 âm lịch năm 2015, và đăng lại ở CNM365
9) Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ. Bài và ảnh Hoàng Kim, đăng lại ở CNM365

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim
#Nhàtôi
; #banmai; #htn365; #ana; #Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc;  #cnm365;  #cltvn; #đẹpvàhay; #lvn365 https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi 23-thang-4/ & https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-23-thang-4/

CNM365 Tình yêu cuộc sống: Ban Mai Bình Minh An Tỉnh thức nhớ Viên Minh; Vĩ Dạ thương Miên Thẩm; Bay lên nào Hải Âu; Sơn Nam ông già Nam Bộ; Sơn Nam và Bùi Giáng; Chỉ tình yêu ở lại ; Về với vùng cát đá ; Thầy giáo già trước biển; Mưa lành và lúa xuân; Lúa siêu xanh Việt Nam ; Tiến bộ giống sắn Việt Nam; Sắn Việt Nam ngày nay; Hoàng Long thơ về Mẹ; Thung dung đời quên tuổi; Nhớ lời vàng Albert Einstein; Trần Văn Trà bóng hạc; Thiên đường này đâu quá xa; Qua Waterloo nhớ Scott; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Gạo Việt và thương hiệu; Thăm nhà cũ của Darwin; Về; Nghĩa Lĩnh Đền Hùng; Dẻo thơm hạt ngọc Việt, Trần Khánh Dư vẹn kiếp; Ăn cháo nói càn khôn; Nhớ quên khúc nhạc vui; Mười thói quen mỗi ngày; Nguyễn Hàm Ninh Thầy Vua; Ngắm ‘ngõ nhà lão Hâm’; Kim Notes lắng ghi chú; Đọc ’50 năm nhớ lại’; Hoàng Đình Quang bạn tôi; Giống lúa siêu xanh GSR65; Tháng Tư chuyện không quên; Phục sinh giữa tối sáng; Việt Nam con đường xanh; Đêm khúc nhạc thanh bình; Thầy bạn trong đời tôi; Tiến bộ giống sắn Việt Nam ; Sắn Việt Nam ngày nay ; Giống khoai lang Việt Nam; Thành tâm với chính mình; Trường tôi nôi yêu thương, Về Trường để nhớ thương; Minh triết Thomas Jefferson; Chuyện đồng dao cho em; Chuyện cổ tích người lớn; Lời dặn của Thánh Trần; Nhớ thầy Tôn Thất Trình; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Tâm Đạo chuyện trăm năm; Đến với Tây Nguyên mới, Ban mai chào ngày mới; Khi hoa bằng lăng nở; Nhà tôi chốn thung dung; Kuma DCj & Hoàng Thảo; Minh triết của đức Phật; Đền Bà Chúa Thượng Ngàn; Đi dưới trời minh triết; Yên Lãng Hồ Chí Minh; Tản mạn nhớ và quên; Làng Minh Lệ quê tôi; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Chuyện muôn năm còn kể; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Lời ru nhớ núi sông; Đến với Tây Nguyên mới ; Câu cá bên dòng  Sêrêpôk; Tỉnh thức cùng tháng năm; Mưa xuân Kim và Thủy; Chuyện sao Kim kỳ thú; Sông Hoàng Long chảy hoài; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Mưa xuân trong mắt ai; Tháng Ba hoa gạo nở; Việt Nam con đường xanh; Đọc lại và suy ngẫm; Mây lành Phổ Đà Sơn; Kim Notes lắng ghi chú; Gia Cát Mã Tiền  Khóa; Trung Quốc một suy ngẫm; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Có một ngày như thế; Phục sinh giữa tối sáng; Nam tiến của người Việt; Nhà tôi giấc mơ xanh; Cao Biền trong sử Việt; Giấc mơ lành yêu thương; Nhà tôi giấc mơ xanh; Tô Đông Pha Tây Hồ; Thượng Đức thương nhìn lại; Những trang văn thắp lửa; Thơ vui những ngày nhàn; Bill Gates học để làm; Minh triết sống phúc hậu; Giống khoai lang Việt Nam; Sắn Việt Nam ngày nay; Vietnamese Cassava Today; Hồ Lắk Đình Lạc Giao; Ngày Quốc tế Hạnh phúc; Chim Phượng về làm tổ; Chốn vườn thiêng cổ tích; Trân trọng Ngọc riêng mình; Bảo tồn và phát triển sắn; Về miền Tây yêu thương; Trần Công Khanh ngày mới; Mark Zuckerberg và FB ; Chuyện đồng dao cho em; Đến với Tây Nguyên mới; Thương Kim Thiếp Vũ Môn.Nghỉ ngơi nhàn tĩnh dưỡng; Trần Công Khanh ngày mới;Selma Nobel văn học; Thầy Quyền thâm canh lúa; Chuyện ngày sinh của Thủy;Một gia đình yêu thương; Thành kính lưu lời thương; Nhớ ông bà cậu mợ; Một niềm tin thắp lửa;Minh triết sống phúc hậu; Truyện vua Solomon; Đến với Tây Nguyên mới; Hồ Lắk Đình Lạc Giao; Thương Kim Thiết Vũ Môn; IAS đường tới trăm năm; Nông nghiệp Việt trăm năm; Quản lý đất đai Việt Nam; Nam Tiến của người Việt; Mẹ tắm mát đời con; Bóng hạc chốn xa xôi; Hồ Lắk Đình Lạc Giao; Cánh cò bay trong mơ; Vào Tràng An Bái Đính; Sông Hoàng Long chảy hoài; Nguồn Son nối Phong Nha; #An nhiên; Đến với Tây Nguyên mới; Thương Kim Thiết Vũ Môn; Nguyễn Huy Thiệp lắng đọng;Đặng Dung thơ Cảm hoài; Đồng hành cùng đi tới; Giống khoai lang Việt Nam; Thương Kim Thiếp Vũ Môn; Quảng Bình đất và người; Thơ văn thầy Hồ Ngọc Diệp; Chuyện cổ tích người lớn; Cuối dòng sông là biển; Thầy nghề nông chiến sĩ; Đọc lại và suy ngẫm; Thương Kim Thiếp Vũ Môn; Giống khoai lang Việt Nam; Việt Nam con đường xanh; Đọc lại và suy ngẫm; Mây lành Phổ Đà Sơn; Cao Biền trong sử Việt; Giấc mơ lành yêu thương; Nhà tôi giấc mơ xanh;Phạm Hồng Đức Phước ca cao; Cao Biền trong sử Việt;Trời nhân loại mênh mông; Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay; Thầy bạn trong đời tôi; Cuối dòng sông là biển;. Phục sinh giữa tối sáng; Nam tiến của người Việt; Gia Cát Mã Tiền Khóa; Kim Notes lắng ghi chú; Gia Cát Mã Tiền Khóa;Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Chọn giống sắn Việt Nam; Ngọc Phương Nam ngày mới; Nghê Việt am Ngọa Vân; Phục sinh giữa tối sáng; Lê Phụng Hiểu ruộng thác đao; Thầy bạn trong đời tôi; Bóng hạc chốn xa xôi; Giống khoai lang Việt Nam; Chuyện thầy Lê Quý Kha; Lên Việt Bắc điểm hẹn ; Tiếng Việt lung linh sáng; Bài thơ Viên đá Thời gian; Kim Notes lắng ghi chú; Gia Cát Mã Tiền  Khóa; Minh triết sống phúc hậu; Thung dung dạy và học; Thầy bạn trong đời tôi; Trịnh Công Sơn lắng đọng; Dạo chơi non nước Việt; Minh triết cho mỗi ngày; Địa chỉ xanh Ấn Độ; Vườn Quốc gia Việt Nam; Tĩnh lặng cùng với Osho; Đi thuyền trên Trường Giang; Đến với Tây Nguyên mới; Bài thơ Viên đá Thời gian; Đợi anh ngày trở lại; Chốn thiêng; Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc; Sắn Việt Nam ngày nay; Chung sức trên đường xuân; Vietnamese cassava today; Đỗ Hoàng Phong chiều xuân; Hồ Văn Thiện bóng chiều; Walt Disney người bạn lớn; 24 tiết khí lịch nhà nông; Lời thương; Giống lạc HL25 Việt Ấn; Thầy Tuấn kinh tế hộ; Thầy Tuấn trong lòng tôi; Địa chỉ xanh Ấn Độ; Chuyện cổ tích người lớn; Giống khoai lang Việt Nam; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Xanh một trời hi vọng; Về miền Tây yêu thương; Nơi một trời thương nhớ; Nông lịch tiết Thanh Minh; 24 tiết khí nông lịch; Ngày xuân đọc Trạng Trình; Nhớ thầy Trần Ngọc Ngoạn; Chốn thiêng; Thế giới trong mắt ai; Việt Nam con đường xanh; Nông nghiệp công nghệ cao; Phạm Quang Khánh Hoa Đất; Sông Mekong tin nổi bật; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Chín điều lành hạnh phúc; Đến với bài thơ hay; Nụ tầm xuân mùa xuân ; Về miền Tây yêu thương; Nơi một trời thương nhớ; Nông lịch tiết Thanh Minh; Tốt gỗ chẳng cần sơn; Ngày xuân đọc Trạng Trình; Nhớ thầy Trần Ngọc Ngoạn; Chốn thiêng; Thế giới trong mắt ai; Nông nghiệp công nghệ cao; Việt Nam con đường xanh; Thầy bạn trong đời tôi. Bill Gates học để làm Chuyện cổ tích người lớn. Thương Kim Thiếp Vũ Môn; Nhớ lời thề cỏ May, Vui quà tặng cuộc sống

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
CNM365 Tình yêu cuộc sống, ngày mới nhất bấm vào đây https://hoangkimvn.wordpress.com/ cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Ban Mai Bình Minh An

banmai

Ban Mai Bình Minh An

#Banmai #BìnhMinhAn
#annhiên #hoangkimlong
#Thungdung #Khátkhaoxanh

#cnm365 #tinhyeucuocsong

#Banmai #BìnhMinhAn là thời điểm chuyển đổi. Khoảnh khắc quý hiếm duy nhất có được hình này : ‘Ký Tế xong rồi, Vị Tế chưa xong’. “Ở vào thời Ký Tế, việc lớn đã xong, còn những việc nhỏ cũng làm cho xong nữa, thì mới thật là hoàn thành. Hoàn thành rồi lại phải cố giữ được sự nghiệp, nếu không thì chỉ tốt lúc đầu thôi, rốt cuộc sẽ nát bét. Nghĩa là lúc trị phải lo trước tới lúc loạn. Kinh Dịch bắt đầu bằng hai quẻ Càn, Khôn, gốc của vạn vật; ở giữa là hai quẻ Hàm và Hằng, đạo vợ chồng, gốc của xã hội, tận cùng bằng hai quẻ Ký Tế và Vị Tế đã xong rồi lại chưa xong; như vậy là hàm cái nghĩa việc trời đất cũng như việc của loài người, không bao giờ xong, cái gì tới chung rồi lại tiếp ngay tới thủy. Mà đạo dịch cũng vậy không bao giờ hết. Dịch cho ta niềm hi vọng ở tương lai. Thật là một triết lý lạc quan“. (Nguyễn Hiến Lê, Kinh Dịch đạo của người quân tử, NXB Văn Học 1992, trang 433 & 439).

– Không làm các điều ác, làm các việc lành và giữ tâm thanh tịnh trong sáng là cách làm tăng trưởng tâm lực và phước lực.

– Phước lực phát sinh do bố thí cúng dường, nghiêm trì giới luật, giữ tâm thanh tịnh, cung kính, khiêm nhường, phục vụ, nghe pháp, chia sẻ pháp, hoan hỷ phước người khác làm, điều chỉnh nhận thức, bớt tham sân si, có lòng từ-bi-hỷ-xả.

…Phước trí thật sự chỉ có khi tinh tấn chánh niệm tỉnh giác, trọn vẹn sáng suốt nơi thực tại thân thọ tâm pháp. Phước trí vô vi vô ngã này tự toả ra ảnh hưởng lợi lạc đến muôn loài một cách tự nhiên …”

Làm phước là cách để thoát khỏi tính ích kỷ và mở rộng tấm lòng vô ngã vị tha. Đồng thời qua việc làm đó học ra chính mình, học ra bản chất đời sống để phát huy trí tuệ và đạo đức…

()()()

Thân – tâm – trí thanh tịnh thì hết tội.

Có 3 cách:

– Giới diệt tội ở thân.
– Định diệt tội ở tâm
– Tuệ diệt tội ở trí.

Giới định tuệ còn được thể hiện cụ thể trong Bát Chánh Đạo:

– Thấy biết đúng
– Suy nghĩ đúng là tuệ
– Nói đúng, làm đúng, sống đúng là giới
– Siêng năng, không quên mình, tâm tĩnh lặng đúng là định.

《》《》《》

…Đạo Phật trí tuệ lấy tâm tỉnh giác để thấy ra thực tánh và sống với thực tánh ấy…”

Thầy Viên Minh
Trungtamhotong.org
Lành thay ()
Sadhu Sadhu Sadhu

_______((()))________

#Chanhniem #Thayvienminh #Tinhgiac #Tinhthuc #Vothuong #Tinhtan #Phatphapnhiemmau #Phatphapvidieu #Gieoduyenphatphap #Duyenlanhphatphap #Chiasephatphap #Vonga #Theobuocchanphat #Songtrongthuctai #Phatphap #Phatphapbuddhadhamma #Thienphap #Anlac #Anlanh #Annhien #Buongxa #Tritue #Tuetri #Gioidinhtue #Hanhphuc #Giacngo #Giaithoat #Tubi #PhatphapBuddhadhammareels

#Phapthien343reels

HOÀNG LONG CÁ AO XUÂN

Hoàng gia bạch ngọc cá ao xuân
Vũ môn biếc trúc nắng thanh tân
Bình minh an vui mừng được lộc
Ước hoàng thành phước đức trúc lâm.


Hoàng Kim

THƠ VỀ MẸ
Hoang Long


Thuở cỏn con, con nằm bên mẹ
Đầu rúc vào lòng, con ấm lắm mẹ ơi
Con thương mẹ đêm ngày tần tảo
Thức đêm dài mẹ may áo cho con

Con vui sướng khi được ôm lưng mẹ
Mỗi lần mẹ về với chị em con
Đem cho con muôn điều hạnh phúc
Mẹ vẫn luôn nghĩ về chúng con

Thuở thiếu thời con không nghe lời mẹ
Để mỗi lần mẹ đánh con đau
Tuổi nhỏ bồng bột chưa biết nghĩ
Giờ lớn khôn con cố học hành

Con sẽ bay cao bay xa mãi
Tìm đến ánh sáng của tương lai
Tìm ra người bạn con mong ước
Giữ mãi hình mẹ ở trong con

Đảm việc nhà lo toan việc nước
Xây gia đình giữ hạnh phúc cho con
Con muốn tìm, muốn gặp người bạn đó
Người bạn như mẹ, mẹ của con

Xa cha mẹ, chúng con lên thành phố
Nhớ tuổi thơ mẹ nhắc con học hành
Mẹ làm lụng chúng con mong giúp mẹ
Nhưng mẹ chỉ cười “học đi con”

Mẹ đã cho con nhiều hạnh phúc
Dạy cho chúng con biết điều hay
Mẹ cũng chăm con từng giấc ngủ
Mỗi lần con về bên mẹ, mẹ ơi!

Con muốn ở bên mẹ như thuở bé
Cảm nhận tình thương mẹ dành cho con
Thoải mái từng giờ trong hạnh phúc
Bên mẹ, gia đình, giấc ngủ ngon.

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
Hoàng Long, Hoàng Kim (chủ biên) và đồng sự
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

Bài viết mới (đọc thêm, ngoài giáo trình, bài giảng)

Tiến bộ giống sắn Việt Nam
Bảo tồn và phát triển sắn
Sắn Việt Nam ngày nay
Vietnamese cassava today
Cách mạng sắn Việt Nam
Chọn giống sắn Việt Nam
Chọn giống sắn kháng CMD
Giống sắn KM419 và KM440
Mười kỹ thuật thâm canh sắn
Sắn Việt bảo tồn phát triển
Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
Sắn Việt Nam bài học quý
Sắn Việt Nam sách chọn
Sắn Việt Nam và Howeler
Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt và Sắn Thái
Quản lý bền vững sắn châu Á
Cassava and Vietnam: Now and Then


Lúa siêu xanh Việt Nam
Giống lúa siêu xanh GSR65
Giống lúa siêu xanh GSR90
Gạo Việt và thương hiệu
Hồ Quang Cua gạo ST
Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
Con đường lúa gạo Việt
Chuyện cô Trâm lúa lai
Chuyện thầy Hoan lúa lai
Lúa C4 và lúa cao cây
Lúa sắn Cămpuchia và Lào
Lúa sắn Việt Châu Phi
Lúa Việt tới Châu Mỹ


Ngô Việt Nam ngày nay
Giống ngô lai VN 25-99
Giống lạc HL25 Việt Ấn


Giống khoai lang Việt Nam
Giống khoai lang HL518
Giống khoai lang HL491
Giống khoai Hoàng Long
Giống khoai lang HL4
Giống khoai Bí Đà Lạt


Việt Nam con đường xanh
Việt Nam tổ quốc tôi
Vườn Quốc gia Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp sinh thái Việt
Nông nghiệp Việt trăm năm
IAS đường tới trăm năm
Viện Lúa Sao Thần Nông
Hoàng Thành đến Trúc Lâm
Ngày Hạnh Phúc của em
Có một ngày như thế


Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
Sóc Trăng Lương Định Của
Thầy Quyền thâm canh lúa
Borlaug và Hemingway
Thầy Luật lúa OMCS OM
Thầy Tuấn kinh tế hộ
Thầy Tuấn trong lòng tôi
Thầy Vũ trong lòng tôi
Thầy lúa xuân Việt Nam
Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
Thầy Dương Thanh Liêm
Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
Phạm Quang Khánh Hoa Đất
Phạm Văn Bên Cỏ May


24 tiết khí nông lịch
Nông lịch tiết Lập Xuân
Nông lịch tiết Thanh Minh
Nông lịch tiết Cốc vũ
Nông lịch tiết Lập Đông
Nông lịch tiết Tiểu tuyết
Nông lịch tiết Đại tuyết
Nông lịch tiết giữa Đông
Nông lịch tiết Đại Hàn


Nhà sách Hoàng Gia
Xem tiếp CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

THƠ CHO CON HOÀNG LONG
Hoàng Kim

Con!
Thân thương một tiếng gọi
Hạnh phúc bật nên lời
Lòng Cha bồi hồi
Sung sướng gọi:
Con!

Cha đi công tác xa
Mong đợi Con, từng ngày chờ thư Mẹ
Thư đến!
Con ra đời!
Cha run lên vì mừng
Thao thức suốt đêm
Không ngủ

Bạn bè vây quanh Cha
Trân trọng niềm vui thiêng liêng
Nâng cốc chúc Cha
Hạnh phúc!

Tiếng Con ngọt ngào môi Cha
Dào dạt lòng Cha vỗ mãi
Có Con
Nối cuộc đời Cha
Gấp đôi
Có Con
Đan giữa cuộc đời
Hạnh phúc

Con là sợi dây máu thịt
Yêu thương gắn Mẹ và Cha
Có Con
Cha thấy cuộc đời ý nghĩa hơn
Cuộc sống – Tình yêu – Sự nghiệp
Hai Con là hai con mắt
Cửa sổ tâm hồn Cha
Dẫu đời Cha nhiều chông gai
Trái chín cuộc đời vẫn ngọt
Con là giấc mơ trong trẻo
Là ban mai tươi vui
Là viên ngọc trao đời
Là hương hoa hạnh phúc

Ước vọng cuộc đời Cha
Có Con đi nối con đường sự nghiệp
Con đứng trên vai Cha
Vươn tới những chân trời mơ ước

Hai Con
Hai viên ngọc
Chị con và Con
Mẹ con dịu hiền hơn
Mẹ con đảm đang hơn
Cha bớt vụng về mỗi việc làm nho nhỏ
Con trở thành ngọn lửa
Sưởi ấm lòng Mẹ Cha
Khi mỗi ngày khó khăn
Trong trẻo tiếng Con
Mẹ Cha hết mệt
Con là niềm vui lớn nhất
“Con hơn Cha nhà có phúc”
Cha mong dồn cho Con.

Lớn lên
Con sẽ hỏi Cha
Sao Cha đặt tên Con là Hoàng Long?
Con ơi!
Tên Con là khúc hát yêu thương
Của lòng Cha Mẹ
Cha Mẹ thương nhau
Vì qúy trọng những điều ân nghĩa
Sự nghiệp và tình yêu
Những ngày gian khổ
Cùng nghiên cứu củ sắn, củ khoai
Con là giống khoai Hoàng Long
Tỏa rộng nhiều vùng đất nước
Dẫu không là trái thơm qủa ngọt
Nhưng là niềm vui người nghèo
Để Cha nhớ về quê hương
Khoai sắn bốn mùa vất vả
Để Cha nhớ những ngày gian khổ
Năm năm
Cơm ngày một bữa
Khoai sắn không phụ lòng
Để Cha nhớ về
Lon khoai nghĩa tình
Nắm khoai bè bạn
Gom góp giúp Cha ăn học
Khi vào đời
Cha gặp Mẹ con
Cho nên:
Cha muốn Con
Trước khi làm những điều lớn lao
Hãy biết làm củ khoai, củ sắn
Hãy hướng tới những người lao động
Nhớ quê nghèo cắt rốn, chôn rau

Lớn lên
Con sẽ hỏi cha
Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
Long là rồng
Con là đậu rồng
Là công trình thứ hai Mẹ Cha nghiên cứu
Mẹ con chọn hạt
Cha gieo nên con
Vất vả gian nan
Hứa hẹn một mùa gặt hái
Con là tháng ngày mong đợi
Là niềm vui đóng góp cho đời
Từ hạt đậu củ khoai
Cha Mẹ trao Con sự nghiệp
Cha nhớ câu đối trăm năm
Về một gia đình hạnh phúc
“Sáng khoai, trưa khoai, tối khoai
ngày khoai ba bữa
Cha đỗ, mẹ đỗ, con đỗ
đều đỗ cả nhà”
Chị con và Con
Là mong ước
Của Mẹ và Cha

Lớn lên
Con sẽ hỏi Cha
Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
Long là rồng
Nghĩa mẹ tạo nền
Công cha xây móng
Trước mắt con là sông dài, biển rộng
Ước mong con bay lên

Con hãy đi đến cùng
Mục đích của con
Làm được những điều cao cả
Hãy cố gắng không ngừng
Kiên gan
Bền chí
Ước mơ và hiện thực
Hôm nay và mai sau
Nghị lực là thước đo cuộc đời
Hai chữ đầu tiên Con học làm người
Phải học hai điều NHÂN NGHĨA

Cha mong Con lớn lên
Ít nếm trãi khó khăn, vất vả
Nhưng đừng bao giờ quên
Những ngày đói khổ
Thời thơ ấu của Cha
Mồng Ba tháng Giêng ngày mất của Bà
Hai mươi tháng Mười ngày ông Mỹ giết
Ngày mà cửa nhà tan nát
Đói nghèo Bác dắt dìu Cha
Tuổi thơ thì bắt ốc, mò cua
Lớn một chút trồng khoai, dạy học
Qua danh lợi hiểu vinh, hiểu nhục
Trãi đói nghèo biết nghĩa, biết ân
Phan Thiết là nơi Mẹ đã sinh Con
Ông Bà ngoại nuôi cho Con khôn lớn
Tuổi thơ của Con lớn trong yên ấm
Tao nôi êm ả, thanh bình
Ru cho Con “uống nước nhớ nguồn”
Khi con lớn đừng quên điều HIẾU THẢO

Cha say viết về Con
Kể về Con
Thơ cho Con
Cô bác vây quanh Cha
Gật gù
Thông cảm

Thơ chắp mối
Từng vần,
Từng mảng
Câu thơ chưa chỉnh lời
Nhưng tứ thơ
Dồn dập
Bối hồi
Hạnh phúc lớn
Trong lòng Cha
Ngân mãi

(*) Hoàng Long sinh đêm Noel 24 tháng 12, nhằm ngày 23 tháng 11 Ất Sửu

VƯỜN NHÀ SỚM MAI NAY

Ngày lành bắt cá ao xuân
Mẹ cha anh chị quây quần cùng vui
Thung dung thanh thản cuộc đời
Tình quê bồi đắp về nơi sâu đằm

Thảnh thơi hát khúc trăm năm
Chọn tìm giống tốt đêm nằm chiêm bao
Ta về vui giữa ước ao
Sách hoa người ngọc bình an đong đầy

Vườn nhà buổi sớm mai nay
Nước xao tăm cá, mai đầy nắng xuân
Mẹ gà quấn quýt đàn con
Đất lành chim đậu phước xuân ân tình


Hoàng Kim

“Kinh Dịch xem chơi ưa tính sáng ưa hơn châu báu Sách Nhàn đọc giấu trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim” (Cư Trần Lạc Đạo, trích thơ Thiền đức Trần Nhân Tông) Hoàng Kim cẩn đề ảnh ngày 3 tháng 1 (nhằm ngày 21 tháng 11 năm Ất Sửu)

???????????????????????????????

CHUYỆN ĐỜI TÔI

Suốt đời chuyên một việc
Cây Lương Thực Việt Nam
Thung dung Dạy và Học
Hoa Đất Ngọc Phương Nam


Nhớ Thầy Tôn Thất Trình
Chiếc bàn Thầy lưu lại
Góc phải nhà chữ U
“Dĩ nông vi bản ” đấy.

Tới thầy Lê Minh Triết
Giảng dạy ba mươi năm
Cây Lương thực Việt Nam
Hoàng Kim vui về đấy

Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay


Bố hưu con về dạy (*)
Nguyên, Long nối nghiệp nhà
Cùng thầy hiền bạn quý
Chăm đất lành nở ho
a

Bao năm Trường Viện là nhà
Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương
Một đời người một rừng cây
Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng


Hoàng Kim

HOÀNG TỐ NGUYÊN TIẾNG TRUNG
黄素源 (越南) Hoàng Tố Nguyên Việt Nam
Dạy và học tiếng Trung trực tuyến
#htn #vietnamxahoihoc #cnm365 #dayvahoc #vietnamhoc, #cltvn Việt Nam xã hội học (越南社会学; Vietnamese Sociology) Ngữ Văn Việt Trung Anh đối chiếu Xã hội Việt Nam ngày nay; Nông nghiệp sinh thái Việt; Ngành nghề ở Việt Nam; Vùng sinh thái Việt Nam; Du lịch sinh thái Việt; Nước Việt Nam ngày nay; Việt Nam con đường xanh https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/hoang-to-nguyen-tieng-trung & https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-to-nguyen-tieng-trung/

XÃ HỘI VIỆT NAM 越南社会
Hoàng Tố Nguyên
#htn #vietnamxahoihoc #vietnamhoc #cnm365 https://hoangkimvn.wordpress.com

#cattien Vườn Quốc Gia Cát Tiên

#ana Na, Harry và chị Sóc học ngoại ngữ
https://hoangkimvn.wordpress.com/category/ana

Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung (News) Tọa đàm Quốc tế

Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 24 https://youtu.be/6iwAtA6B7a4
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 23 https://youtu.be/oLJZHtuXqAI
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 22 https://youtu.be/QtRsXsWxg8o
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 21 https://youtu.be/QtRsXsWxg8o
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 20 https://youtu.be/744VwGs_kkE

#htn #dayvahoctiengviet #vietnamhoctiengviet #viettrunganhdoichieu https://youtu.be/_RA_P3g6icY Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung Dạy và học tiếng Việt tham dự trực tuyến tọa đàm quốc tế ‘ ULIS UNC 2024 Hà Nội Việt Nam https://hoangkimvn.wordpress.com.category/ana

https://youtu.be/XFr2-7IxsOA?si=pwR39IQ9uiwfH69e Tọa đàm tiếng Trung 20 1 2024 #htnhttps://youtu.be/PAA1B3NRlD8 HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/pUsMC2cl7wU HTN hanyuxuexi

#htn https://youtu.be/NHxNTKjymuk HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/NHxNTKjymuk HTN hanyuxuexi P2
#htn https://youtu.be/XGXP6z-1awE HTN hanyuxuexi P1
#htnhttps://youtu.be/z2g9xVP4nj03 HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/hrE7LVGnzyQ HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/8AMmb6QeHeM 023 HTN hanyuxuexi

#htnhttps://hoangkimvn.wordpress.com/category/htn
#ana https://hoangkimvn.wordpress.com/category/ana

#hga 1 Hoàng Gia An tiếng Trung 1 https://youtu.be/oET6Se69JTE

Cậu với cháu an nhiên miền cổ tích
Vui chọn cho mình dạy học bình yên

https://hoangkimvn.wordpress.com/category/ana

#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/cJln6_vQ6qQ
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/GitihRIko2g
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/taJKR2-OiWU
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/xM3Vf5NvbwU
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/ZYKN0QCpU2s
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/QS1KJ-THo-w
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/EqMdZXLqIeQ
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/_yX9s2GpeLE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/P3ql_Fhyhq4
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/JC8aXMNzDHU
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/akxXQAXcceE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/nn9b0tZzdjA
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/y4t_BLrv5XM
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/jEkG-784N6E
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/B61xopPlNiE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/hsxhmeWf3Fw
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/Ec-k00A98T4
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/dQeXSZ-rVUE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/EqMdZXLqIeQ
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/_yX9s2GpeLE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/P3ql_Fhyhq4
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/JC8aXMNzDHU
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/akxXQAXcceE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/nn9b0tZzdjA
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/y4t_BLrv5XM
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/jEkG-784N6E
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/B61xopPlNiE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/hsxhmeWf3Fw
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/Ec-k00A98T4
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/dQeXSZ-rVUE

Con cháu #thungdung sống
Ông bà #annhiên vui

#ana 108 Hoàng Gia An tiếng Anh 108 https://youtu.be/AdCyTD2L46s
#ana 107 Hoàng Gia An tiếng Anh 107 https://youtu.be/R8OXHctE5Cc
#ana 106 Hoàng Gia An tiếng Anh 106 https://youtu.be/Fpxul3GxBvs
#ana 105 Hoàng Gia An tiếng Anh 105 https://youtu.be/Ey-2_cgYORI
#ana 104 Hoàng Gia An tiếng Anh 104 https://youtu.be/krcnsWfJoC0
#ana 103 Hoàng Gia An tiếng Anh 103 https://youtu.be/lz-YeHTXLUw
#ana 102 Hoàng Gia An tiếng Anh 102 https://youtu.be/evJ4bArQpbU
#ana 101 Hoàng Gia An tiếng Anh 101 https://youtu.be/s22IbV6A7BE
#ana 100 Hoàng Gia An tiếng Anh 100 https://youtu.be/gvd0CyHHFiY
#ana 99 Hoàng Gia An tiếng Anh 99 https://youtu.be/Dgv9zFQnnN0
#ana 98 Hoàng Gia An tiếng Anh 98 https://youtu.be/KQ79oUqEW_8
#ana 97a Hoàng Gia An tiếng Anh học nhóm https://youtu.be/DatqUASAeZA
#ana 97 Hoàng Gia An tiếng Anh 97 https://youtu.be/6wftdq9g5Eo
#ana 96 Hoàng Gia An tiếng Anh 96 https://youtu.be/gomklMrEh8Q
#ana 95 Hoàng Gia An tiếng Anh 95 https://youtu.be/6wpV4qkuPUY
#ana 94 Hoàng Gia An tiếng Anh 94 https://youtu.be/DMnpIL5dElU
#ana 93 Hoàng Gia An tiếng Anh 93 https://youtu.be/zF1TbLyq9Ls
#ana 92 Hoàng Gia An tiếng Anh 92 https://youtu.be/XdWPJo-ZoRs
#ana 91 Hoàng Gia An tiếng Anh 91 https://youtu.be/83Yf8qO1M4s

#ana 90 Hoàng Gia An tiếng Anh 90 https://youtu.be/AaYsXOy0IPY
#ana 89 Hoàng Gia An tiếng Anh 89 https://youtu.be/qepX50rTnfA
#ana 88 Hoàng Gia An tiếng Anh 88 https://youtu.be/Ka1XcSOUmYQ
#ana 87 Hoàng Gia An tiếng Anh 87 https://youtu.be/5o4TF1z62ss
#ana 86 Hoàng Gia An tiếng Anh 86 du học 1 https://youtu.be/h4QGdIG4Ze4
#ana 86 Hoàng Gia An tiếng Anh 86 https://youtu.be/LPCgvjAzOWA
#ana 85 Hoàng Gia An tiếng Anh 85 https://youtu.be/jYaPBYGTwls
#ana 84 Hoàng Gia An tiếng Anh 84 https://youtu.be/rCKfIGf2if4
#ana 83 Hoàng Gia An tiếng Anh 83 https://youtu.be/YwefHnfarm8
#ana 82 Hoàng Gia An tiếng Anh 82 https://youtu.be/6XnrqkbcL_o

#ana 81 Hoàng Gia An tiếng Anh 81 https://youtu.be/XycgPqaBzyU

#ana 80 Hoàng Gia An tiếng Anh 80 https://youtu.be/2D6eCFk8SHE
#ana 79 Hoàng Gia An tiếng Anh 79 https://youtu.be/w74HUzGbprA
#ana 78 Hoàng Gia An tiếng Anh 78 https://youtu.be/TrNv6clTa9U
#ana 77 Hoàng Gia An tiếng Anh 77 https://youtu.be/JKm9Egtt4qM
#ana 76 Hoàng Gia An tiếng Anh 76 https://youtu.be/oNYklP4h5W4
#ana 75 Hoàng Gia An tiếng Anh 75 https://youtu.be/JHV01egXuFE
#ana 74 Hoàng Gia An tiếng Anh 74 https://youtu.be/pBrB7j8VYAg
#ana 73 Hoàng Gia An tiếng Anh 73 https://youtu.be/mW_RI5ZrPhQ
#ana 72 Hoàng Gia An tiếng Anh 72 https://youtu.be/eTV7F52t5lU
#ana 71 Hoàng Gia An tiếng Anh 71 https://youtu.be/2qmsnl_Opjg

#ana 70 Hoàng Gia An tiếng Anh 70 https://youtu.be/AdKozHw3qHs
#ana 69 Hoàng Gia An tiếng Anh 69 https://youtu.be/AiwLUX1HLrw
#ana 68 Hoàng Gia An tiếng Anh 68 https://youtu.be/_jb8MLGg-M4
#ana 67 Hoàng Gia An tiếng Anh 67 https://youtu.be/XY8peF42iOg
#ana 66 Hoàng Gia An tiếng Anh 66 https://youtu.be/76qcgOUf2dQ
#ana 65 Hoàng Gia An tiếng Anh 65 https://youtu.be/HhUqPSDwXYg
#ana 64 Hoàng Gia An tiếng Anh 64 https://youtu.be/wXAe7IrJKp0
#ana 63 Hoàng Gia An tiếng Anh 63 https://youtu.be/kUpEeEmDiJ0
#ana 62 Hoàng Gia An tiếng Anh 62 https://youtu.be/NhRCP291Mhs
#ana 61 Hoàng Gia An tiếng Anh 61 https://youtu.be/_SplvzyMBWo

#ana 60 Hoàng Gia An tiếng Anh 60 https://youtu.be/uzdnnXaw_Uc
#ana 59 Hoàng Gia An tiếng Anh 59
https://youtu.be/7X0nUv_oNNM
#ana 58 Hoàng Gia An tiếng Anh 58 https://youtu.be/j0nyBwFICcE
#ana 57 Hoàng Gia An tiếng Anh 57 https://youtu.be/2TZGZ0PX16o
#ana 56 Hoàng Gia An tiếng Anh 56 https://youtu.be/q-LayZZreRE
#ana 55 Hoàng Gia An tiếng Anh 55 https://youtu.be/mO3fuLUlERY
#ana 54 Hoàng Gia An tiếng Anh 54 https://youtu.be/VHrCZu4qLI4
#ana 53 Hoàng Gia An tiếng Anh 53 https://youtu.be/CH2bo7ZC-fQ
#ana 52 Hoàng Gia An tiếng Anh 52 https://youtu.be/pampfMzGMe0
#ana 51 Hoàng Gia An tiếng Anh 51 https://youtu.be/y4bpXStzF4k


HOÀNG GIA MINH TIẾNG ANH

#hgm 21 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 21 https://youtu.be/7pyXSGZ6RxM
#hgm 20 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 20 https://youtu.be/Wd-cNTOjzeM
#hgm 19 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 19 https://youtu.be/DiHJtGh0tn0
#hgm 16 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 16 https://youtu.be/CWZGnSkJ5CA
#hgm 11 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 11 https://youtu.be/RAH0JE7Bt5w
#hgm 10 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 10 https://youtu.be/orQVmRQhIng
#hgm 8 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 8 https://youtu.be/ilLZ_GOppsk
#hgm 7 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 7 https://youtu.be/AIN_sUjCOf0
#hgm 6 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 6 https://youtu.be/pvlIOd-IA9Y
#hgm 5 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 5 https://youtu.be/UnLz0366uRo
#hgm 4 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 4 https://youtu.be/DIPU5wZV98U
#hgm 3 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 3 https://youtu.be/ZZhiBJGY08o
#hgm 2 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 2 https://youtu.be/maZpITPXBQE

HOÀNG GIA BÌNH TIẾNG ANH

#hgb 38 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 38 https://youtu.be/IPTdQiXYupY
#hgb 36 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 36 https://youtu.be/smJzNmyVvqA
#hgb 30 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 30 https://youtu.be/PRf-cc6ogK4
#hgb 29 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 29 https://youtu.be/Tmh9eIfpn-Q
#hgb 27 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 27 https://youtu.be/rjoaohDMkIY
#hgb 25 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 25 https://youtu.be/iJ_fjn6mftU
#hgb 16 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 16 https://youtu.be/rFQs-H_PL1c
#hgb7 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 7 https://youtu.be/Lo5SjVI3u6A

LUYỆN NGHE NÓI VIỆT TRUNG ANH
Hoàng Tố Nguyên Tiếng Trung https://youtu.be/lPoz7bsgUfA 23 3 2024
Hoàng Tố Nguyên Tiếng Trung https://youtu.be/bpYCNYzZvC8 7 3 2024
Hoàng Tố Nguyên Tiếng Trung https://youtu.be/eLbo0EAuoUY 28 2 2024
Thung dung đẹp và hay Dạy Và Học Tiếng Việt https://youtu.be/mWJepJA2JUk
Lao động nữ với công nghệ https://youtu.be/kgljBI3pS4Y 28.2.2024
Luyện nói 70 câu tiếng Anh https://youtu.be/q83IcmZWLvI?si=y4MLsIVC6LD4MUeN

Learn Vietnamese Chinese English 4 https://youtu.be/iK03ZagwTOI 4 3 2023
Learn Vietnamese Chinese English 3 https://youtu.be/i3NOu2rwR-4 1 3 2024
Learn Vietnamese Chinese English 2 https://youtu.be/1m77g9LxNb4
Learn Vietnamese Chinese English 1 https://youtu.be/WzsCz3whXiA

H

HOÀNG GIA BÌNH MINH AN
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung Hoàng Gia Bình Minh An #ana #htn #vietnamxahoihoc #htn365 https://hoangkimvn.wordpress.com/category/ana

Ông Bà Và Con Cháu

Ông bà dạy cháu học
Lời hát ru chuyện đời
Có vàng vàng chẳng hay phô
Có con có cháu trầm trồ dễ nghe


Bà dạy cháu ăn nói
Ăn sạch thì sống lâu
Nói lành thì phước lớn

Lời nói không mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau



Ông và cháu trốn tìm
Học chuyện đời tìm kiếm:
Trăm năm ai chớ quên ai
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim


Cháu và ông làm bài
Tô màu và đố chữ:
Vàng trắng xanh tím đỏ
An nhàn vô sự là Tiên


Bài đồng dao huyền thoại
Ngày mới Ngọc cho đời
Ông bà và con cháu
Một gia đình yêu thương


xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-troi-noi-me-cha-xua Thông tin tích hợp tại Tình thức cùng tháng năm #htn #ana #Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc, #đẹpvàhay, #cnm365#cltvn;

Thang nam nho lai va suy ngam 7

A Na bà chúa Ngọc
A Na Bình Minh An

Hoàng Gia Bình sinh ngày 29 tháng 3 năm 2011
Hoàng Gia Minh sinh ngày 22 tháng 2 năm 2014
Hoàng Gia An sinh ngày 23 tháng 2 năm 2017

Chị Sóc cùng Harry, Na
Giữa trời xanh tuyết trắng
Có hoa đào hồng thắm
Núi Phú trời bình yên

Chi Sóc là cô Tiên
Giữa một vùng cổ tích
A Na tìm được Ngọc
Harry vui thích cười.

Tuổi Ngọc sáng đất trời
Vô tư đầy sung sướng
Chị Hai mừng khôn lớn
Em nhớ hoài tuổi hoa

Chị với em ngắm hoa
Lung linh vườn cổ tích
Sóc, anh Harry mai học
Na và Ngoại ngoan nghe.

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
#htn, #hoangkimlong, #BanMai #vietnamxahoihoc, #htn365,#ana, #dayvahoc, #vietnamhoc, #cnm365#cltvn #Vietcassava

Nguyen Long

A Na Bình Minh An

thayoi

Thơ tứ tuyệt Hoàng Kim
LỜI THẦY DẶN THUNG DUNG

Việc chính đời người chỉ ít thôi.
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
Di sản muôn năm mãi sáng ngời

*

Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
Con em và cháu vững tay rồi
Đời sống an nhiên lòng thanh thản
Minh triết mỗi ngày dạy học vui.

*

Thung dung đời thoải mái
ban mai của riêng mình
giọt thời gian điểm ngọc
thanh nhàn khát khao xanh.


*

Nhân hậu đời quên tuổi
Thanh nhàn vui tháng năm
Học không bao giờ muộn
Tỉnh lặng với chính mình


*

Quốc Công đạo làm tướng
Tiết Chế đức dụng nhân
Tự do ngời tâm đức
Văn chương ngọc cho đời

Ban mai lặng lẽ sáng

Ban mai lặng lẽ sáng
Phúc hậu tới thảnh thơi
Minh triết và sáng tạo
Vui đi dưới mặt trời

*

Hiền lành ẩn trí tuệ
Đức độ là tinh anh
Bảo tồn và trưởng thành
Một niềm tin thắp lửa

*

Ban mai nắng mới lên
Hoa bình minh tỉnh thức
Long lanh hương trời đất
Lộc non xanh mướt cành.


*

Chào đón bình minh an
Bà cõng cháu nấu cơm
Ông cùng con dọn vườn
Vui khỏe cùng trẻ thơ …

*

Đường trần thênh thênh bước
Đỉnh xanh mờ sương đêm
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Phước Đức vui kiếm tìm.

Nguyễn Du trăng huyền thoại

Nguyễn Du thơ chữ Hán
Kiếm bút thấu tim Người,
Đấng danh sĩ tinh hoa,
Nguyễn Du khinh Thành Tổ,
Bậc thánh viếng đức Hòa


*

Nguyễn Du tư liệu quý
Linh Nhạc thương người hiền,
Trung Liệt đền thờ cổ,
“Bang giao tập” Việt Trung,
Nguyễn Du niên biểu luận


*

Nguyễn Du Hồ Xuân Hương
Đối tửu” thơ bi tráng,
“Tỏ ý” lệ vương đầy,
Ba trăm năm thoáng chốc,
Mại hạc vầng trăng soi.


*

Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ
Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”,
Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”,
Bến Giang Đình ẩn ngữ,
Thời biến nhớ người xưa.


*

Nguyễn Du thời Tây Sơn
Mười lăm năm tuổi thơ,
Mười lăm năm lưu lạc,
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ,
Tình hiếu thật phân minh


*

Nguyễn Du làm Ngư Tiều
Câu cá và đi săn
Ẩn ngữ giữa đời thường
Nguyễn Du ức gia huynh
Hành Lạc Từ bi tráng

*

Nguyễn Du thời nhà Nguyễn
Mười tám năm làm quan
Chính sử và Bài tựa

Gia phả với luận bàn
Bắc hành và Truyện Kiều


*

Nguyễn Du tiếng tri âm
Hồ Xuân Hương là ai
Kiều Nguyễn luận anh hùng
Thời Nam Hải Điếu Đồ
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ


*

Nguyễn Du trăng huyền thoại
Đi thuyền trên Trường Giang,
Tâm tình và Hồn Việt,
Tấm gương soi thời đại
Mai Hạc vầng trăng soi,

ĐI DƯỚI TRỜI MINH TRIẾT

Lên non xem trận địa
Thế giới trong mắt ai
Ngồi tựa đỉnh non Xanh
Thăm thẳm một tầm nhìn


Đi dưới trời minh triết
Chuyện hiền vui trăm năm
Đường xuân đời quên tuổi
Vui sống giữa thiên nhiên

Biển, Núi,  Em và Anh

Ban Mai Ngọc Biển Vàng

#Ban Mai Ngọc Biển Vàng
#Annhiên
#BìnhMinhAn

#Thungdung #Khátkhaoxanh
#HoàngThành
#Trúc Lâm #Sáng

Thung Dung Đời Thoải Mái
Ban Mai Ngọc Riêng Mình
Giọt Thời Gian Biển Ngọc
Thanh Nhàn Khát Khao Xanh.

Bình Sinh Hồ Chí Minh

Bình Sinh Đầu Ngẩng Tới Trời Xanh
Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành
Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy
Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH

Cuối tháng ba năm 2008, anh Phan Chí Thắng có gửi cho tôi lá thư nguyên văn: “Gửi Hoàng Kim. Cách đây mấy ngày, trong một cuộc tiếp xúc nhiều người, tôi vô tình được nói chuyện với anh H. – cháu nội người đỗ đầu khoa Hội cùng năm với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Dì ruột của anh H. lấy anh cả của ông LĐT. Anh H. kể là được nghe trực tiếp từ ông LĐT về bài tứ tuyệt được thêu trên trướng do 5 nhà cách mạng lão thành Nga gửi đến tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ nghe một lần mà anh H. thuộc lòng cho đến bây giờ, thật xứng danh cháu nội cụ Hội Nguyên. Tôi xin chép lại vào đây để Hoàng Kim tham khảo “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh / Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành / Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy / Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH ” Có vài điểm thắc mắc: 1. Làm sao mà các nhà cách mạng Nga lại làm được thơ tứ tuyệt? Hay là họ nhờ ai đó làm giúp theo ý họ?  2. Các chữ viết hoa trong bài tứ tuyệt được thêu chữ hoa, nghĩa là có dụng ý. Ba chữ là lấy từ trong “Hồ Chí Minh”. Còn chữ “Thơm” có phải đó cũng là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia? Hay là một tên gọi khác của Bác mà rất ít người biết? Sơ bộ như thế đã, các nhà nghiên cứu sẽ tìm câu trả lời.

Bình Sinh Hồ Chí Minh

Bác nghỉ chân sau mấy dặm ra đi
Rừng Việt Bắc chở che giây phút nghỉ’
Biết ơn Thầy1 lưu lại thời trân quý
Bình Sinh Hồ Chí Minh Việt Nam
.

“Ngôi nhà sàn đơn sơ
Giữa thủ đô Hà Nội
Ngày lại ngày tiếp nối
Bác thênh thản xuống lên
Làm việc và chăm vườn
Cho cá ăn từng buổi
Di chúc 4 năm cuối
Bác đã viết tại đây
(*)

ĐI DƯỚI TRỜI MINH TRIẾT

Biển nhớ nơi nao Người lắng sóng
Bờ thương chốn cũ Bác trông thuyền
Bảo như trường kiếm xô sông dạt
Ninh Hải Thung Nham níu núi thiền *

HoNuiCoc06

Yên Lãng Hồ Chí Minh

Hoàng Kim trả lời thư anh Phan Chí Thắng:

1. Cám ơn bức thư của Anh. Em trao đổi sớm (2008) vì biết rằng đây là một vấn đề không dễ “giải mã” trong ít ngày nên cần chép ngay để lưu lại một điểm nhấn nghiên cứu. Nhiều sự thật lịch sử sẽ còn phải chờ đợi thêm một thời gian nữa mới có đủ thông tin. Cần đúng người, đúng việc, đúng liều lượng và đúng thời điểm. Với ước mong đi sâu tìm hiểu về một số nhân vật và địa danh lịch sử của dãi đất miền Trung, em đã tập hợp tư liệu tại chuyên trang “Chợt gặp mai đầu suối

2. Chữ “Thơm” và chữ “Hồ” trong câu thơ trên hình như có quan hệ đến Nguyễn Huệ (Hồ Thơm) và Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh). Cụ Hồ Sĩ Tạo (như là ông nội ruột của Hồ Chí Minh) với cụ Hồ Phi Phúc (cha của Nguyễn Huệ) hình như có quan hệ thân tộc. Có giả thuyết cho rằng tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê – Trịnh tới Nghệ An (năm 1655). Ông cố của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753 còn có tên là Hồ Thơm hay Quang Bình, Văn Huệ. Cụ Hồ rất trọng lịch sử nên giả thuyết cho rằng chữ “Thơm” có thể cũng là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia? Hay là một tên gọi khác của Bác mà rất ít người biết đều là có thể.

3. Câu thơ “Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH” em nhớ đến Bác và nhớ đến một người Thầy khác, đó là Norman Borlaug. (Mời đọc Borlaug và Hemingway Lời Thầy dặn thung dung). Cuộc đời Thầy cũng trong như ánh sáng. Thời gian và sự khen chê không làm xoá nhoà được dấu ấn nổi bật của Người. Norman Ernest Borlaug , sinh ngày 25 tháng 3 năm 1914, từ trần ngày 12 tháng 9 năm 2009 tại Texas,  là nhà nông học Mỹ, nhà nhân đạo, người đoạt giải Nobel và ông được gọi là cha đẻ của Cuộc cách mạng Xanh. Ông là người đã nhận được đồng thời ba giải thưởng lớn Nobel Peace Prize, Presidential Medal of Freedom, Congressional Gold Medal vì những cống hiến đặc biệt cao quý cho nhân loại.

Ba năm trôi qua (2008-2011), nhiều tư liệu mới đã làm phong phú thêm nguồn nhận thức của chúng ta và đã có thêm tìm tòi mới về Bác. Hồ Chí  Minh có thơ viết ở đền Trần và Bác đã dùng cụm từ  “kẻ phi thường” để nói về Nguyễn Huệ và Công Uẩn trong hai câu “Nguyễn Huệ là kẻ phi thường” và “Công Uẩn là kẻ phi thường”. Điều chắc chắc là Bác biết rất rõ cụm từ  “bậc phi thường” vì Bác là bậc Thầy về chữ nghĩa và rất cẩn trọng ngôn ngữ. Tại sao vậy? Đánh giá về Hồ  Chí Minh hiếm  câu nào hay hơn “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh” và “Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH” nhưng kiến giải rõ hơn thì hình như vẫn cần thêm một thời gian nữa.

*

Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh! Báo cáo của Việt Nam gửi Quốc tế Cộng sản ngày 12 tháng 7 năm 1940 do Hồ Chí Minh soạn thảo là cẩm nang đón trước thời cơ “nghìn năm có một” của Tổng khởi nghĩa tháng 8 và Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tài liệu tổng hợp, phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện tình hình, sâu sắc hiếm thấy nhưng cực kỳ súc tích chỉ vắn tắt 12 trang. Đó là một trong số những thí dụ rõ nhất về thiên tài kiệt xuất của Hồ Chí Minh dám chớp thời cơ giành chính quyền và biết thắng. Hãy nghe Hồ Chí Minh phân tích tình thế: “Tóm lại, những điều kiện khách quan cho phép chúng tôi có hi vọng thành công. Song, lực lượng chủ quan- lực lượng của Đảng còn quá yếu. Như trên đã nói, một đảng mới mười tuổi lại trãi qua hai lần khủng bố lớn, số cán bộ có kinh nghiệm đấu tranh hiện còn đang rên xiết trong tù ngục, khiến đảng viên và quần chúng như “rắn mất đầu” không thể tận dụng cơ hội tốt “nghìn năm có một”. Chúng tôi liệu có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh đó, khắc phục khó khăn đó, giúp Đảng hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó hay không? Có. Chúng tôi nhất định không thể từ trong đánh ra. Chúng tôi chỉ có cách từ ngoài đánh vào. Nếu chúng tôi có được: 1) Tự do hành động ở biên giới; 2) Một ít súng đạn; 3) Một chút kinh phí; 4) Vài vị cố vấn thì chúng tôi nhất định có thể lập ra và phát triển một căn cứ địa chống Pháp, chống Nhật – đó là hi vọng thấp nhất. Nếu chúng tôi có thể mở rộng Mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức, có thể lợi dụng mâu thuận giữa các nước đế quốc thì tiền đồ tươi sáng là có thể nhìn thấy được. Tôi rất hi vọng các đồng chí giúp tôi nhanh chóng giải quyết vấn đề này. 12.7.40.” (Hồ Chí Minh Toàn tập t. 3 tr. 162-174). Qua bảy mươi chín năm sau, đọc lại và suy ngẫm, càng đọc càng thấm thía thêm nhiều điều sâu sắc. https://hoangkimvn.wordpress.com/category/vietnamxahoihoc & https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietcassava &

Hoàng Kim NGỌC PHƯƠNG NAM
https://hoangkimvietnam.wordpress.com/2011/09/02/binh-sinh-đầu-ngẩng-tới-trời-xanh/

MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH

Ngủ thì ai cũng như lương thiện, Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền; Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” (Nửa đêm, bản dịch của Nam Trân) ảnh Bác Hồ với học sinh trường trung học Trưng Vương (Hà Nội) nǎm 1956 Ngành nghề ở Việt Nam lao động và việc làm, tác động rất sâu sắc đến đời sống văn hóa và xã hội. Minh triết Hồ Chí Minh trích dẫn lời dạy thấm thía của Bác trên Báo Thái Bình Từ triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh nghĩ về công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-ho-chi-minh

Tôi viết Bình sinh Hồ Chí Minh theo chính kiến và nhận thức của riêng mình. Ngày 2 tháng 9 là ngày Quốc Khánh Việt Nam, ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi năm sự kiện lớn này của nước Việt Nam mới, như ngôi sao vàng năm cánh, như năm ngón tay trên một bàn tay, đóng mốc son ngày 2 tháng 9 và ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và Thế Giới đối với nền độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết. Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt; Hồ Chí Minh nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức có lý có tình; Hồ Chí Minh thực tiễn, quyền biến, năng động, rất ít trích dẫn; Hồ Chí Minh kiên quyết, khôn khéo trong tổ chức tuyên truyền cách mạng, giỏi thu phục tập hợp hiền tài. Nước Việt Nam mới khi hình thành vì sao không có được giải pháp hợp tác giữa Hồ Chí Minh với Bảo Đại, Ngô Đình Diêm, Nguyễn Trường Tam, Phạm Quỳnh, Phan Văn Giáo … Vì sao chưa thuyết phục được Nguyễn Hải Thần, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn,… ? Họ đều là các nhân vật lịch sử lớn chi phối sâu sắc thời cuộc. Bài học lịch sử Việt Nam là khối vàng ròng giá trị to lớn cần thấu hiểu và cắt nghĩa cho đúng. Sự thật lịch sử đang sáng tỏ dần. Thế giới trong mắt ai ; Việt Nam con đường xanh ; Bài học lớn muôn đời; Đi dưới trời minh triết; Bình sinh Hồ Chí Minh 595 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/binhsinhhochiminh/

Kim Notes lắng ghi chú
Việt Nam học tinh hoa cấp thiết bảo tồn và phát triển cơ sở dữ liệu chính yếu. Hoàng Kim lưu lại một đánh giá cẩn trọng để đọc lại và suy ngẫm:

“ĐỌC XONG, ĐAU ĐỚN VÀ TIẾC NUỐI
Lao Ta cùng với Thuy Hang Nguyen.

Tôi luôn giữ một sự cẩn trọng khi nghĩ về các nhân vật lịch sử, nhất là những nhân vật lịch sử có ảnh hưởng lớn đến số phận của đất nước. Đơn giản vì những gì mình biết về họ, nếu không quá ít, thì cũng thường không chính xác. Đơn giản vì khi mình chỉ nghĩ đến cơm ăn áo mặc, đến chút hạnh phúc con con, thì họ luôn tìm cách lay trời chuyển đất (theo hướng tốt lên hay xấu đi lại là chuyện khác). Mà con người thì vĩnh viễn vẫn chỉ là con người, với tính không toàn hảo là đặc điểm đặc trưng của nó.

Thêm một lý do nữa khiến tôi phải cẩn trọng, vì khi nói, khi phán xét về họ, thường chúng ta dùng bối cảnh hiện tại, tư duy hiện tại, để giải mã, luận giải những suy nghĩ, hành động của họ trong một bối cảnh (phải đưa ra quyết định, quyết sách, các lựa chọn…) hoàn toàn khác.

Tôi tin chắc rằng việc đánh giá về vua Gia Long, việc ông tìm mọi biện pháp (bao gồm cả các liên kết với ngoại bang) để bằng mọi cách tiêu diệt nhà Tây Sơn (Với ông chỉ là một đối thủ đầy thù hận), sẽ còn kéo rất dài, thậm chí là không có điểm dừng. Những đổ lỗi, kết tội thì luôn dễ, vì chả cần phải suy nghĩ nhiều. Nhưng ghi công, trả cho họ sự công bằng, mới là điều đáng làm và khó làm. Chẳng hạn, đôi khi người ta cứ để phải nhắc mới chịu nhớ ra rằng, Gia Long không chỉ là ông vua thống nhất đất nước với diện tích lãnh thổ rộng nhất cho đến lúc ấy, mà còn là ông vua đặt tên đất nước vẫn được dùng cho đến ngày nay.

Đấy, lịch sử cứ thích những trò trớ trêu như vậy

Với một tinh thần cẩn trọng như đã nói, tôi chậm rãi đọc cuốn sách “Thư gửi nước Mỹ” của Hồ Chí Minh, do Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành. Cuốn sách được xuất bản nhân sự kiện ngài Tổng thống Biden sang thăm Việt Nam và hai nước nâng cấp quan hệ lên mức cao nhất, điều mà qua cuốn sách, có thể thấy ông Hồ Chí Minh đã mong muốn từ gần 80 năm trước, bằng chứng là ông bày tỏ nguyện vọng muốn đưa 50 thanh niên sang Mỹ để “Một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết…., mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác”

(Thư gửi Bộ trưởng Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, ngay 1.11.1945)

Đúng như tên gọi, cuốn sách gồm 32 bức thư, điện văn, công hàm, đối thoại…của Hồ Chí Minh, gửi cho các Tổng thống, các bộ trưởng, các tổ chức, các cá nhân…của nước Mỹ, trong suốt 24 năm, từ 1945, đến năm 1969. Nhiều tư liệu lần đầu được công bố. Tất cả đều ngắn gọn, rất ngắn gọn, văn phong giản dị, dễ hiểu và đặc biệt kĩ lưỡng, lịch lãm về mặt ngôn ngữ.

Đây là một trong 32 bức thư đó, đề ngày 2-11-1945:

“THƯ GỬI TỔNG THỐNG MỸ

Tổng thống Tơruman; Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Oasinhtơn, D.C;

Thưa ngài Tổng thống, thay mặt nhân dân và Chính phủ Việt Nam, tôi muốn bày tỏ sự biết ơn chân thành của chúng tôi về những tuyên bố trong 12 điểm mà ngài đã đưa ra đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Tuyên bố đó được nhân dân chúng tôi nồng nhiệt chào đón vì nó đã mở ra một kỷ nguyên mới cho các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Đó là sự tiếp nối chính sách đối ngoại nhân đạo và tự do của Hoa Kỳ cũng như cá nhân Tổng thống Hoa Kỳ, đưa đến việc hiện thực hóa những lý tưởng được ghi trong các bản Hiến chương mà nền cộng hòa Mỹ cao quý là một bên ký kết.

Kính thư

Hồ Chí Minh”

Ngày nay vẫn có rất nhiều người sùng bái Hồ Chí Minh coi việc chửi nền chính trị Mỹ như một đảm bảo (dù thô thiển) cho lòng trung thành của họ với ông. Họ có thể sẽ rất sốc khi trong hầu hết những bức thư, Hồ Chí Minh đều ca ngợi hết lời những giá trị Mỹ, như Tự do, Dân chủ, Tôn trọng nhân quyền, Thượng tôn công lý. Thậm chí, trong bức thư gửi Tổng thống Mỹ đề ngày 22-11-1945, ông không ngại dùng từ “cầu xin” với ông Tổng thống Mỹ.

“Vì thế tôi tha thiết cầu xin ngài về bất cứ sự giúp đỡ nào có thể được”.

Nếu chúng ta nhìn lịch sử bằng con mắt khách quan, thuần túy khoa học, ít nhất cũng không bị chính trị hóa, thì những bức thư của Hồ Chí Minh thực sự là những tư liệu độc đáo và quý hiếm, để có thể bổ sung không chỉ về mặt kiến thức lịch sử (cho khá nhiều người có bằng cấp chính trị), mà quan trọng hơn, có khả năng sẽ thay đổi suy nghĩ của không ít người khác, về những sự thật lịch sử mà họ vẫn đinh ninh.

Tôi biết chắc chắn một điều, người Mỹ đã lưu giữ cẩn thận tất cả những bức thư này.

Khép lại cuốn sách mỏng, tôi không có ý định lạm bàn về bất cứ điều gì. Nhưng cảm giác nuối tiếc, xen với nỗi đau đớn, thì rất rõ: Giá kể như không có cuộc chiến tranh Việt-Mỹ!

Và giá như…”

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/banmai/ Thông tin tích hợp tại TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM #banmai #htn, #vietnamxahoihoc, #htn365, #ana, #dayvahoc, #vietnamhoc, #cnm365#cltvn #Vietcassava

HoangKim2017a

HÃY ĐỂ TÔI ĐỌC LẠI
Hoàng Kim


Vui bước tới thảnh thơi
Chín điều lành hạnh phúc
Vui sống giữa thiên nhiên
Bảy bài học cuộc sống

Hãy để tôi đọc lại
Xuân sớm Ngọc Phương Nam .
Chuyện cụ Lê Huy Ngọ
Nhớ Người Nhớ quê hương

Bài đồng dao huyền thoại
Thiền Sư Lão Nông Tăng
Sóc Trăng Lương Định Của
Thầy Quyền thâm canh lúa

Trung Quốc một suy ngẫm
Vành đai và con đường
Trung Nga với Trung Á
Thế sự bàn cờ vây

Việt Nam con đường xanh
Giấc mơ lành yêu thương
Sự chậm rãi minh triết
Vui đi dưới mặt trời

xem tiếp 20 đường dẫn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hay-de-toi-doc-lai/

KIM DUNG TRONG NGÀY MỚI
Hoàng Kim

Kim Dung là nhà văn có  tầm ảnh hưởng lớn nhất của văn học Trung Quốc hiện đại . Ông là một trí tuệ lớn. Kim Dung thích ai nhất trong tác phẩm của chính ông? Kim Dung thích nhất nhân vật Hoàng Lão Tà, Quách Tương và Đoàn Dự. Ông tâm đắc nhất tác phẩm Thiên Long bát bộ và Lộc Đỉnh Ký. Tuyệt kỹ một đời không nhìn vào danh tiếng mà nhìn vào thực chất. Vô chiêu thắng hữu chiêu. Phim chuyển thể tác phẩm ông ưng ý nhất là “Thần điêu đại hiệp”.Kim Dung sinh ngày 10 tháng 3 năm 1924 nhằm ngày 6 tháng 2 năm Giáp Tý. Kim Dung mất buổi chiều 30 tháng 10 năm 2018 tại một bệnh viện ở Hong Kong do tuổi cao, hưởng thọ 94 tuổi. Kim Dung trong ngày mới /Trà sớm thương người hiền / Nguyễn Chu Nhạc Lão Nông/ Nguyễn Du trăng huyền thoại Phiếm Đàm cùng Lão Chu tôi yêu thích chép chung bài đúc kết của mình với phiếm đàm của lão như là nhân duyên nhớ về một quý nhân; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kim-dung-trong-ngay-moi/

TRẦN ĐĂNG KHOA TRONG TÔI
Hoàng Kim

‘Trần Đăng Khoa Nghê Việt, Trần Đăng Khoa trong tôi’. Hoàng Kim nói với Nguyên Hùng bạn xứ Nghệ Trần Đăng Khoa có những câu thơ sâu thẳm: “Chiều buông ngọn khói hoang sơ/ Tiếng chuông ngàn tuổi tỏ mờ trong mây/ Người xưa hồn ở đâu đây/ Nhìn ra chỉ thấy tuyết bay trắng chiều …” “Ta ngự giữa đỉnh trời / Canh một vùng biên ải/ Cho làn sương mong manh/ Hoá trường thành vững chãi … / Bỗng ngời ngời chóp núi / Em xoè ô thăm ta ?/ Bàng hoàng xô toang cửa/  Hoá ra vầng trăng xa…”.Đó là những câu thơ hay, về nơi tĩnh lặng, đến chốn thung dung. Nhưng, bài thơ đầu tiên của Khoa hay ám ảnh mà tôi lựa chọn đồng hành từ tuổi thơ là “Hạt gạo làng ta” do nhac sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc và lời ca đội hát Vàng Anh.

Tôi đã đọc Lão Khoa, blog chính thức của nhà văn Trần Đăng Khoa khởi đầu từ năm 2011, bạn gặp bài đầu tiên là Tựa (Lời thưa), kế đến là Nông thôn bây giờ, Nguyên Ngọc, Chuyện tào lao Lão Khoa, và Thơ Trần Đăng Khoa. Tôi không nghĩ trình tự sắp xếp những bài đầu tiên này của Khoa là ngẫu nhiên mà cho rằng đó chính là những điều lắng đọng. Cuộc đời cao hơn trang sách lưu lại kinh nghiệm sống được trãi nghiệm. Theo Lời thưa của Trần Đăng Khoa, chúng ta nên đọc chính văn, thơ văn và trao đổi của chính tác giả để tránh những điều ngộ nhận qua lời đồn. Cám ơn anh Lưu Trọng Văn với bài viết ngắn “Hạt gạo làng ta” và những hình ảnh lưu lại thật lắng đọng.

“Không hư cấu” ảnh Trần Đăng Khoa trong mắt Hoàng Xuân Tuyền. Tôi thật đồng cảm với sự “giản dị, xúc động, ám ảnh” phương châm sống và viết chân mộc, thích hợp, hiệu quả của Trần Đăng Khoa. Tôi xin phép tác giả chia sẻ và lưu ảnh này về bài “Trần Đăng Khoa trong tôi” và “#cnm365#cltvn 2 tháng 11″ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-dang-khoa-trong-toi/ & https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-2-thang-11/ và xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-dang-khoa-trong-toi/

NGUYỄN NGỌC TƯ SẦU RIÊNG
Hoàng Kim

Hãy để tôi đọc lại. Sự chậm rãi minh triết. Tôi đọc lại Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng và bổ sung thêm ít ghi chú mới. Nguyễn Ngọc Tư có trang “Sầu riêng” riêng tư vừa đủ. Ở đó có thơ; Một vài phiên bản; Hành lý hư vô; Những trang viết mới.

Tôi dừng lại đọc chậm rãi nhiều lần “Khoảng cách trong khoảng cách”. Dường như ở đó có thấp thoáng Bóng hạc chốn xa xôi tiếng dội của chính mình; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-ngoc-tu-sau-rieng/

NGUYỄN DU TƯ LIỆU QUÝ
Hoàng Kim

Linh Nhạc thương lời hiền
Trung Liệt đền thờ cổ
“Bang giao tập” Việt Trung
Nguyễn Du niên biểu luận

Hoàng Kim đã tích hợp song song hai nguồn thông tin chọn lọc từ Mộc bản triều Nguyễn (1) của Di sản thế giới tại Việt Nam, cùng với tích hợp so sánh đối chiếu với sách Sông Côn mùa lũ và các tài liệu tham khảo từ sách này (2) .xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-tu-lieu-quy/

Nguyễn Du tư liệu quýbài 2 trong chùm chuyện khảo Nguyễn Du trăng huyền thoại của Hoàng Kim. Tác phẩm Nguyễn Du trăng huyền thoại bao gồm chín bài, mục lục như sau: 1 Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người, Đấng danh sĩ tinh hoa, Nguyễn Du khinh Thành Tổ, Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền, Trung Liệt đền thờ cổ, “Bang giao tập” Việt Trung, Nguyễn Du niên biểu luận 3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng, “Tỏ ý” lệ vương đầy, Ba trăm năm thoáng chốc, Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”, Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”, Bến Giang Đình ẩn ngữ, Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ, Mười lăm năm lưu lạc, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ, Tình hiếu thật phân minh 6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn, Ẩn ngữ giữa đời thường, Nguyễn Du ức gia huynh, Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan, Chính sử và Bài tựa, Gia phả với luận bàn. Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âm Hồ Xuân Hương là ai, Kiều Nguyễn luận anh hùng, Thời Nam Hải Điếu Đồ, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ 9 Nguyễn Du trăng huyền thoại Đi thuyền trên Trường Giang,Tâm tình và Hồn Việt, Tấm gương soi thời đại. Mai Hạc vầng trăng soi,

Vị thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình ngôi chùa cổ Thủ Đức trong giấc mơ lạ Nguyễn Du nửa đêm đọc lại đã khuyên tôi lập “Nguyễn Du niên biểu luận” cuộc đời và thời thế Nguyễn Du để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy nhất về những sự kiện trọng yếu cuộc đời và thời thế của ông. Điều này chi phối, gợi ý thế xuất xử của bình sinh hành trạng Nguyễn Du, để chúng ta có thể hiểu đúng sự thật huyền thoại về ông. Những sự kiện chính yếu của thời thế đàng Trong và đàng Ngoài với các nước liên quan hệ quy chiếu lấy chính cuộc đời Nguyễn Du và gia tộc của ông làm trung tâm, là dẫn liệu thông tin thực sự có ích để thấu hiểu chính xác ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người, bối cảnh hình thành kiệt tác”Thúy Kiều” “300 năm nữa chốc mòng, biết ai thiên ha khóc cùng Tố Như”. Sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, người dịch Đỗ Mộng Khương, người hiệu đính Hoa Bằng, Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế, năm 2006, trang 400 /716 Tập 2 đã viết: “Nguyễn Du rất giỏi về thơ, làm thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về, có tập thơ “Bắc hành” và truyện “Thúy Kiều” lưu hành ở đời”.

Nguyễn Du niên biểu luận được thiết lập dựa trên các tài liệu chính: 1) Chính sử Nguyễn Du tiểu sử trong sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, người dịch Đỗ Mộng Khương, người hiệu đính Hoa Bằng, Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế 2006, Tập 2, trang 400 /716; 2) Bài tựa của Bùi Kỷ trong sách Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo Nhà xuất bản Tân Việt năm 1968; Sách này có đủ các bài tựa rất quan trọng mà các sách khác không có. Ghi chú điển cố Truyện Kiều trong sách này được Cụ Bùi Kỷ và Cụ Trần Trọng Kim hiệu khảo kỹ và chuẩn mực với mức tin cậy cao ví như “ngọc bích họ Hòa” với Lạn Tương Như; 3) Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền trang 73-81, có ba trang tiếng Việt và 6 trang tiếng Hán Nôm. Trong sách Lê Xuân Lít 2005. “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều” Nhà Xuất Bản Giáo Dục ,1995 trang, (mời đọc và kiểm chứng tại Nguyễn Du trăng huyền thoại bài !). 4) Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều, do Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim hiệu khảo Nhà xuất bản Tân Việt 1968, sách này được coi là bản Phường gần sự thật nguyên tác hơn hết; 5) Bắc hành tạp lục 132 bài, Thanh Hiên thi tập 78 bài và Nam trung tạp ngâm 40 bài của Nguyễn Du tại Thi Viện Đào Trung Kiên, dẫn liệu đường link ở Nguyễn Du thơ chữ Hán, 6) Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn; thông tin tuyển chọn từ Bang giao hảo thoại, của Ngô Thì Nhậm, Viện Hán Nôm, Thư viện Khoa học xã hội (sách chép tay chữ Hán), Bang giao tập, Ngô gia văn phái, hiện lưu ở Thư viện khoa học xã hội, bản mang ký hiệu A117a (sách chép tay chữ Hán) thông tin này có đối chiếu với sách Cương mục chính sử Triều Nguyễn với tóm tắt sự kiện trích dẫn tại Kho báu đỉnh Tuyết Sơn 7) Ngô Gia Văn Phái 1984. Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 8) Lê Quý Đôn toàn tập, Đại Việt thông sử (Lê triều thông sử) ; 9) Trần Trọng Kim, 1999, Việt Nam sử lược, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin 617 trang, 10) Lê Xuân Lít, 2005 “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều” Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1995 trang; 11) Nguyễn Thế Quang 2010, Nguyễn Du, tiểu thuyết lịch sử, Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn, 416 trang, 12) Thích Nhất Hạnh 2000, Thả một bè lau, Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán,Lá Bối in lần thứ nhất, San Jose , 471 trang 13) Ngô Giáp Đậu, người dịch Ngô Đức Thọ, Mai Xuân Hải, Nguyễn Văn Nguyên, 2013. Hoàng Việt long hưng chí Nhà Xuất bản Hồng Bàng, 469 trang; 14) Dương Quảng Hàm 2005. Việt Nam văn học sử yếu Nhà Xuất bản Trẻ, 688 trang; 15) Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, 2015. Đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa Nguyễn Du kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du (Kỷ yếu hội thảo khoa học) NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 997 trang; 16) Lê Nghị 2020 Thử giải mã lại Truyện Kiều; và bài viết “Truyện Kiều có trước hay sau Kim Vân Kiều truyện?” của PGS.TS Đoàn Lê Giang (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) và tác giả Nguyễn Cẩm Xuyên bài viết “Cần làm sáng tỏ một nghi án văn học “Thanh Tâm tài nhân ” là ai? 17) Phạm Trọng Chánh đọc sách Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi, cùng với các bài nghiên cứu dịch thuật của Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh về Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm. 18) Sách Sông Côn mùa lũ của tác giả Thiện Ngộ Nguyễn Mộng Giác https://nguyenmonggiac.com/song-con-mua-lu.html, sử thi Việt huyền thoại trên 2000 trang mà tôi thật sự tâm đắc có Lời giới thiệu của giáo sư tiến sĩ Mai Quốc Liên, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Quốc học với với 45 Tài Liệu Tham Khảo Sông Côn Mùa Lũ. Hoàng Kim đã tích hợp song song hai nguồn thông tin chọn lọc từ Mộc bản triều Nguyễn (1) của Di sản thế giới tại Việt Nam, cùng với tích hợp so sánh đối chiếu với sách Sông Côn mùa lũ và các tài liệu tham khảo từ sách này. Đúc kết thông tin mới đọc tại Nhớ thầy Nguyễn Mộng Giác; Nguyễn Huệ thời Tây Sơn; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Ngưa không nản chân bon
.
LINH NHẠC THƯƠNG LỜI HIỀN

Nguyễn Du nửa đêm đọc lại.Tôi có một chuyện lạ xẩy ra lúc 12 giờ 40 phút ngày 4 tháng 7 năm 2012 mà chuyện vẫn chưa kết thúc mãi cho tới hôm nay (2023) của mười một năm sau. Đêm ấy, tôi tỉnh dậy lúc nửa đêm. Mai coi thi. Buổi tối mưa lớn. Sấm chớp ầm ầm, Điện tắt. Trời nóng ngột ngạt, Tôi tự ép mình phải ngủ để ngày mai dậy sớm. Bài viết “Một khám phá độc đáo về Truyện Kiều” của Giáo sư Nguyễn Lân Dũng về cuốn sách “Thử tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du qua Truyện Kiều” của GS.NGND Ngô Quốc Quýnh (Đại học Quốc gia Hà Nội) làm tôi mộng mị. Trong cuốn sách này, tác giả đã cho rằng Nguyễn Du gửi gắm tâm sự của mình qua Truyện Kiều mà Từ Hải chính là Nguyễn Huệ, Kim Trọng là Lê Chiêu Thống và nàng Kiều là Nguyễn Du. Thầy Nguyễn Lân Dũng gọi điện cho tôi và nhắn tin giục tôi sớm giúp nhận xét phản biện cuốn sách. Tôi vừa thương quý kính trọng Thầy vừa nhận thấy luận điểm của thầy Ngô Quốc Quýnh cũng có lý có tình nên tôi định sớm viết bài đồng tình. Không ngờ vì điện tắt nên chợt thiếp đi . Và, trong giấc mơ lạ lúc nửa đêm, tôi được đối thoại với một cụ già râu tóc bạc phơ tự xưng là Thiền sư Linh Nhạc Phật Ý. Cụ già hỏi lại tôi và đã ngăn tôi khoan vội đồng tình mà hãy nên tìm hiểu kỹ sự thật của 12 uẩn khúc chưa rõ. Đó là: Nguyễn Du là người thế nào? Nguyễn Du Bắc hành tạp lục; Nguyễn Du với Hồ Xuân Hương; Nguyễn Du và Kinh Kim Cương; Nguyễn Du so tài Nguyễn Huệ; Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Du tri kỷ, tri âm; Tố Như sau ba trăm năm; Nguyễn Du viếng Kỳ Lân mộ; Hoành Sơn những bài thơ cổ; Hồng Lam vằng vặc sao Khuê. Tôi thức dậy ghi vội những lời Cụ dặn và đã không dám đồng tình ngay với lời kết luận của thầy Ngô Quốc Quýnh. Tôiđồng tình với khám phá độc đáo của GS.NGND Ngô Quốc Quýnh là Nguyễn Du mượn Kiều để chuyển tải tâm sự của Người. Tuy nhiên, sự khác biệt trong nhận định là ở chỗ Từ Hải và nàng Kiều chính là Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương.. Khuya không ngủ được, tôi thao thức đọc lại Nguyễn Du. Chiều tối hôm sau, tôi ngẫu nhiên theo chỉ dẫu của cụ già trong giấc mơ, đã tìm thấy được ngôi chùa cổ Tổ Đình Phước Tường tại địa chỉ 13/32 đường Lã Xuân Oai phường Tăng Nhơn Phú, Quận 9. Ngôi chùa này lưu dấu tích của thiền sư Linh Nhạc Phật Ý.và vị thiền sư này quan hệ tới sự đã che giấu vua nhà Nguyễn thoát chết gang tấc bởi sự truy vết của nhà Tây Sơn. Hiện nay, Tổ Đình Phước Tường sư trụ trì là Thượng tọa Thích Nhật An. Tổ Đình đã được Bộ Thông tin Việt Nam xếp hạng Di tich Văn hóa Quốc gia tại Quyết định số 43/VH QĐ ngày 7 /1/ 1993 .Ngày tiếp sau, khi coi thi đã hoàn thành trở về nhà tôi duyên may lại tình cờ gặp được Bố tát Nhựt Tông trên chuyến xe từ Suối Tiên đi ngã tư Bà Rịa- Vũng Tài. Tôi đã đổi ý không đi về nhà ở Hưng Thịnh Đồng Nai mà theo gót chân Bố tát vân du chùa Long Phước 98 Trần Xuân Độ, Phường 6 tại Núi Lớn, phía sau Thích Ca Phật Đài, thành phố Vũng Tàu, thăm thiền sư Thiện Lý, với Lão Quán Lục Vân Tiên giữa đời thường Nguyễn Quốc Toàn, để cùng luận bàn đạo Phật ngày nay và mang sách của thầy Nhựt Tông và mang sách Nguyễn Du của anh Toàn về nhà cặm cụi tra cứu tìm tòi. Chuyện cũ ấy và chứng cứ ở đây http://dayvahoc.blogtiengviet.net/2012/07/04/http_dayvahoc_blogtiengviet_net_nguyendu

Tôi dùng Google để tìm kiếm tài liêu nghiên cứu thì đêm hôm ấy là đêm thiêng tang lễ của Thiện Ngộ Nguyễn Mộng Giác tác giả Sông Côn mùa lũ https://nguyenmonggiac.com/song-con-mua-lu.html, sử thi Việt huyền thoại, mà tôi thật sự tâm đắc. Nhớ thầy Nguyễn Mộng Giác https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-thay-nguyen-mong-giac/ là sự trân trọng của tôi gửi gia đình thầy Thiền Ngộ Nguyễn Mộng Giác

NHỚ THẦY NGUYỄN MỘNG GIÁC
Hoàng Kim

Nhớ thương cánh chim trời
Những trang đời lắng đọng
Hoa Đất thương lời hiền
Ngựa không nản chân bon.

Ngày xuân đọc Trạng Trình
Đào Duy Từ còn mãi
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Văn chương ngọc cho đời.

Vĩ Dạ thương Miên Thẩm
Mai Hạc vầng trăng soi

Nguyễn Du, Nguyễn Huệ, Châu Văn Tiếp đã được khảo cứu song song trong 9 năm qua.

Nhà nghiên cứu Phạm Trọng Chánh nói những lời thật cảm khái : “Trong tình hình đọc sách hiện tại trong nước và hải ngoại, mỗi người Việt Nam đọc không đến một quyển sách một năm, các nhà xuất bản tại hải ngoại chỉ sống nhờ sự hy sinh của tác giả, tự viết tự bỏ tiền in, không kể gì lời lỗ. Sách gửi đi các nơi không hy vọng gì thu tiền lại. Trong nước sách in được 1500 quyển như  Nguyễn Du trên đường gió bụi anh Hoàng Khôi là thuộc loại khá. Đáng cho chúng ta khuyến khích. Phải chăng vì thiếu sách hay, các nhà văn ngày nay không đủ sức hấp dẫn lôi kéo người đọc chăng. Nghĩ lại ngày xưa thời Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới, những năm 1930-1940 mỗi năm người đậu Tú Tài chỉ vài chục người, người biết chữ quốc ngữ có là bao nhiêu trên 25 triệu dân thế mà sách  đã tạo ra những trào lưu văn học lớn mạnh. Ngày nay chúng ta có 90 triệu dân trong nước và 4 triệu người Việt hải ngoại, mà tình hình sách vở còn thua các nước nhược tiểu, nghĩ thật đáng buồn. Chúng ta không nâng cao được dân trí, mà dân trí lại thụt lùi.  Được một nhà văn như anh Hoàng Khôi, hy sinh thức đêm thức hôm để viết sách, để mua vui một vài trống canh, tôi mừng và mong có nhiều người như anh Hoàng Khôi. Đừng để các thế hệ mai sau không còn biết viết văn, biết đọc mà chỉ còn biết bấm mấy câu vớ vẫn trên điện thoại di động.

Tôi từng tâm đắc với Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ  nơi “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe” càng cho thấy nhân cách kẻ sĩ và sự cảm thông của ông đối với Liễu Hạ Huê sâu sắc đến dường nào. Người hiền thực ra đời nào cũng có, thời thế nhiễu loạn, chẳng qua vàng lầm trong cát đấy thôi. Nguyễn Du là con quan tướng quốc Nguyễn Nhiễm cựu thần nhà Lê và mẹ ông là người phụ nữ tài sắc, vợ lẽ nhà quan, gặp lúc thế nước động loạn, chúa Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều có ý riêng. Ông lớn lên trong cảnh lận đận không nhà, có tài mà không thể cậy. Ông là một đại sĩ phu tài năng trác tuyệt nhưng chỉ làm một viên quan thường triều Nguyễn mà vua vừa dùng, vừa tìm cách kiềm chế như đối với Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Chú. Ông vì giỏi nên được vua Nguyễn cử đi sứ Tàu mà thôi. Thơ Nguyễn Du vì vậy kín đáo và sâu sắc hiếm thấy Để thấu hiểu những giá trị nhân văn đích thực, rất cần những khoảng lặng để đối diện với chính mình.  Hôm trước tôi đã có dịp cùng với những người bạn quý thảo luận về hành vi ứng xử của Liễu Hạ Huệ gần gũi với một người nữ mà ông không mang tiếng dâm tà. Nhờ việc tra cứu, đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ ‘Liễu Hạ Huệ mộ’ của cụ Nguyễn Du, tôi chợt sững người, nhận thức thêm được những nỗi niềm, của cụ Nguyễn lấp lánh sau những con chữ …

Tôi đọc cuốn sách “Nguyễn Du” của nhà giáo Nguyễn Thế Quang “Của tin còn một chút này làm ghi” không dưới hai mươi lần (Trang sách Nguyễn Du với lời đề tặng của tác giả Nguyễn Thế Quang, ảnh Hoàng Kim), và sực thấm hiểu vì sao Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn trên nghìn lần cũng như chợt hiểu vì sao Hồ Chí Minh “sao vàng năm cánh mộng hồn quanh“. Tôi đã đọc mười hai tư liệu quý về Nguyễn Du (kể cả ba tư liệu mới bổ sung gần đây) Dẫu vậy tôi vẫn hồ nghi nhiều điều, chưa đủ tư liệu trao đổi với các giáo sư Nguyễn Lân Dũng, Ngô Quốc Quýnh nhà giáo Nguyễn Thế Quang, nhà nghiên cứu Bulukhin Nguyễn Quốc Toàn và  còn nợ  Ví Dặm Ân Tình, Quỳnh Trâm, Huy Việt … những lời bàn luận.

Tôi nhờ lập “Nguyễn Du một niên biểu” chi tiết hóa thời thế và cuộc đời Nguyễn Du đúng hành trạng từng năm, từ lúc ông sinh ra cho đến khi ông mất, theo gợi ý của cụ già tự xưng là thiền sư Linh Nhạc Phật Ý trong giấc mơ lạ. Cụ già đã khuyến khích tôi làm điều này và cũng nhờ phản biện sâu sắc với các dẫn liệu của tiến sĩ Phạm Trọng Chánh. Ông là người bôn ba hải ngoại đã hiểu tác phẩm Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi một cách sâu sắc hiếm thấy, chân thành, đức độ và khích lệ tác giả Hoàng Khôi với một triết lý dạy và học mẫu mực. “Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà người đi sau nối tiếp người trước, làm giải quyết những nghi vấn còn tồn đọng, làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ“.

Tôi mừng không ngủ được trước tư liệu quý này và xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

TRUNG LIỆT ĐỀN THỜ CỔ

Việt Nam thế Tam Quốc trong thời Nguyễn Du vua Lê Chiêu Thống bị bán đứng, vua Quang Trung cái chết bí ẩn, Nhà Đại Thanh có bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn. Ba tồn nghi lớn của lịch sử: Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị? Lý Tự Thành và kho báu đời Minh đến nay ở đâu? và, Hệ lụy ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn? là ba nghi vấn và chỉ dấu lịch sử có thật. Nguyễn Du cuộc đời và thời thế, là một trong những tấm gương lớn soi thấu những bí ẩn lịch sử ấy. Đó là một chuỗi lịch sử lớn cần nghiên cứu, giải mã thấu đáo. Các thông tin mới hé lộ gần đây của kho sử liệu Nhà Nguyễn mới được khai thác công bố một phần trong ‘Khát vọng Non sông”, và một phần được tập hợp đúc kết tại “Nguyễn Du niên biểu luận” của Hoàng Kim với các hồ sơ điền dã về Linh Nhạc Phật Ýở Tổ Đình Phước Tường TP Hồ Chí Minh với đền cổ Trung Liệt Hà Nội và tư liệu Bang giao tập (bí mật ngoại giao nhà Tây Sơn) góp phần vén bức màn bí mật ấy.

Vua Càn Long sau thất bại nặng nề của nhà Thanh trong chiến tranh với Tây Sơn đã sai danh tướng Phúc Khang An thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, được giao quyền tùy cơ hành xử và điều động thêm 50 vạn quân ứng chiến vùng biên giới nhằm hư trương thanh thế. Phúc Khang An là người mà vua Càn Long đặc biệt yêu quý và tin cẩn, dân gian cho rằng đó là con ngoài giá thú của vua với em gái của Hoàng Hậu. Phúc Khang An.nguyên là đặc sứ phụ trách hậu cần cho đội quân của Tôn Sĩ Nghị

Năm 1789, kho vàng tại tu viện Mật Tông ở Tây Tạng đang bị quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ dòm ngó chuẩn bị tấn công. Vua Càn Long coi đây là điểm quan tâm lớn nhất. Vua Càn Long đã 78 tuổi có tính toán riêng về người kế vị là Hoàng tử Gia Khánh và phúc tướng Phúc Khang An nên việc cơ mật này không thể giao cho ai khác ngoài Phúc Kháng An đảm nhiệm. Lưỡng Quảng và Đại Việt cũng cần sớm an định vì điểm nóng Cam Túc đang làm vua Thanh rất lo nghĩ, trong khi Nguyễn Huệ anh dũng thiện chiến không thể xem thường nên vua Càn Long lựa ý vỗ về hơn là đem binh thảo phạt.

Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp sớm biết tình thế nên đã đón ý hoặc phân vai mật trao đổi với Tây Sơn. Nguyễn Huệ thấy rõ chỗ yếu của quân Thanh và biết họ đang tìm cách để giảng hòa, trong khi ông cũng đang bận tâm xử lý phía Nam. Do vậy Nguyễn Huệ sau khi thắng trận đã sai mang nhiều vàng bạc hối lộ Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp để nghị hòa và cho cháu là Nguyễn Quang Hiển lên cửa ải Nam Quan cầu phong và xin cho Nguyễn Huệ được về Bắc Kinh triều kiến Càn Long. Mưu mẹo này thông đồng giữa hai bên với sự thách giá trả giá bên trong, cách qua mặt vua Lê Chiêu Thống cùng số cựu thần nhà Lê và cách hợp lý hóa chính sử, xin xem kỹ Bang giao tập “Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn” là tư liệu quý.

Lê Chiêu Thống lại tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà không chịu phát quân. Phúc Khang An thân vương vua Thanh, đã được hưởng lợi từ Tây Sơn và nhận rõ tình thế, nên ngoài mặt hứa giúp quân cho Lê Chiêu Thống, nhưng mặt khác lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở về và đã dâng biểu xin hoàng đế Càn Long bãi binh, đồng thời ông cũng chỉ thị cho Thang Hùng Nghiệp gửi mật thư cho Quang Trung gợi ý nên hoà hiếu, tránh binh đao và lập các mẹo mực bang giao để giữ thể diện cho vua Càn Long mà tránh được chiến tranh.

Thư ngoại giao “Trần tình biểu” của vua Quang Trung lúc đầu khá cứng rắn nhưng với sự mưu kế của Thang Hùng Nghiệp nên đã nhẹ đi rất nhiều Tây Sơn theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, đã nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc. Nhà Thanh đồng ý hủy bỏ việc động binh để trả thù, và tiếp nhận sứ thần của Tây Sơn. Vua Quang Trung phải dâng biểu “Nộp lòng thành”, nộp cống phẩm. Nhà Thanh đã chịu chấm dứt chiến tranh, nhưng vẫn chưa chịu thừa nhận Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Phúc Khang An viết cho vua Quang Trung một bức thư dài báo cho vua Quang Trung biết là vua Càn Long đã ban cho Quang Trung một chuỗi hạt trai, “Ơn trời cao đất dày đến thế là tốt lắm” lại báo cho vua Quang Trung biết rằng: bọn Lê Duy Kỳ đã bị róc tóc, mặc quần áo kiểu người Thanh, đã bị đưa đi an trí ở “ngoại biên” “quyết không cho về nước nữa”. Rồi sau đó Phúc Khang An đòi Tây Sơn phải làm miếu thờ Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống. Lại cho biết là khoảng tháng bảy, tháng tám năm Canh Tuất (1790) nhà Thanh sẽ làm lễ bát tuần vạn thọ vua Càn Long “Có hàng vạn nước vượt biển trèo non đem ngọc xe lễ vật đến chầu“. Phúc Khang An yêu cầu vua Quang Trung đến ngày đó cũng phải “chỉnh trang” sang chầu, và như thế phải khởi hành vào tháng tư năm Canh Tuất (1790) Đáng chú ý là sau đó, vua Càn Long xuống chỉ cho vua Quang Trung đại ý nói: do quân Thanh vượt biên giới đến Thăng Long, Nguyễn Huệ phải đem quân ra để hỏi Lê Duy Kỳ vì cớ gì cầu cứu thiên binh; vì bị quân Thanh đánh, quân Tây Sơn bất đắc dĩ phải đánh lại; gặp lúc cầu phao đứt, nên quân Thanh bị chết hại nhiều. Trong tờ chỉ Càn Long còn nhận rằng Nguyễn Huệ đã bắt và giết hết những người đã giết Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống. Ông còn cho rằng khi quân Thanh vào Thăng Long, ông đã ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị rút quân về nước, vì Sĩ Nghị không tuân lệnh, cho nên có trận đại bại vào đầu năm Kỷ Dậu. Ông lại đòi lập đền thờ Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống, và đòi vua Quang Trung phải đích thân sang Yên Kinh triều cận vào dịp Càn Long làm lễ bát tuần vạn thọ năm Canh Tuất. Ông lại nhắc rằng “Lê Duy Kỳ hèn lười, không tài, bỏ ấn trốn đi, chiểu theo pháp luật của Thiên triều phải tội nặng; rằng ông quyết an trí bọn chúng ở Quế Lâm, không bao giờ cho về nước nữa; rằng ông đã ra lệnh cho Phúc Khang An đưa phái đoàn Nguyễn Quang Hiển đến xem chỗ bọn Lê Duy Kỳ ở”. Nhưng vua Quang Trung viện cớ là mình chưa được phong vương, sợ có điều bất tiện khi gặp các vị quốc vương các nước ở Yên Kinh. Thế là Càn Long đành phải phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương để có điều kiện đến Yên Kinh triều cận một cách đàng hoàng.  Vua Càn Long qua Phúc Khang An lại ra điều kiện đòi triều Tây Sơn phải đúc người vàng đem cống như các triều đại trước. Ngô Thì Nhậm đã viết cho Phúc Khang An bức thư, trong đó có đoạn: “Quốc trưởng nước tôi vùng lên từ thủa áo vải, nhân thời biết việc, đối với vua Lê vốn không có danh phận vua tôi. Mất hay còn là do số trời; theo hay bỏ là do lòng người. Quốc trưởng tôi có ý cướp ngôi của nhà Lê đâu mà lại coi như kẻ thoán đoạt. Trước đây Tôn bộ đường đem quân đến, quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải đem quân ra ứng chiến, không hề có ý xâm phạm biên cảnh để mang tội. Nay đại nhân theo lệ cũ của Trần, Lê, Mạc bắt cống người vàng, như vậy chẳng hóa ra quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại mà lại bị coi như hạng ngụy Mạc hay sao? Như thế thì tấm lòng kính thuận sợ trời thờ nước lớn cũng bị coi như việc nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng hay sao? Mong đại nhân noi theo mệnh lớn, miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống” Nguyễn Huệ trong thư này đã nói rõ rằng các vua Việt Nam thời trước sở dĩ phải cống người vàng là để chuộc một tội lỗi nào đó đối với Thiên triều còn Nguyễn Huệ tự coi không có tội gì với nhà Lê và cũng không có tội gì với nhà Thanh nên Tây Sơn không thể đúc người vàng để tiến cống.Tháng 7 năm 1789, Càn Long ra chỉ dụ phong Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương.

Năm Canh Tuất (1790). Nguyễn Du 25 tuổi. Tháng 1 năm 1790, Hoàng đế Quang Trung giả (do Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu đóng) đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long. Đoàn sứ bộ Tây Sơn gồm 159 người có giả vương Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Thùy (mà vua Càn Long tưởng là hoàng thái tử của Nguyễn Huệ). Mục đích khác của đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến trường Đại Việt, đứng sau lưng đoàn sứ bộ, nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải Nguyễn Huệ, nhưng ngại gây hấn nên không nói ra. Sứ thần Tây Sơn đi đợt đó có Ngô Văn Sở,  Phan Huy Ích (thượng thư, nhà ngoại giao, quê Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh,  tiền bối của nhà sử học Phan Huy Lê, giáo sư nhà giáo nhân dân, là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam hiện đại, người có ảnh hưởng lớn đến chính sử hiện tại trong sự đánh giá nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn), Vũ Huy Tấn ( Thị lang bộ Công, tước , sau khi đi sứ về ông được phong làm Thượng thư bộ Công, tước Hạo Trạch hầu. Dưới triều Cảnh Thịnh, ông được đặc cách lên hàng Thượng trụ quốc, Thị trung đãi chiếu Thượng thư). Sứ đoàn Tây Sơn lần đó cũng có Nguyễn Nể là anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du và  Đoàn Nguyễn Tuấn là anh vợ Nguyễn Du. Dọc đường đi, đoàn sứ giả có gặp hành tung của một số người họ Nguyễn ở Quảng Tây và sau đó cùng đi lên Yên Kinh. Người đời sau ngờ rằng đó chính là Nguyễn Du và Hà Mỗ. Đoàn sứ thần Tây Sơn có giả vương Nguyễn Huệ làm thế nào để che mắt sứ đoàn vua Lê Chiêu Thống hiển nhiên có mặt ?. Phúc Khang An đã ngầm thông đồng mưu kế với Tây Sơn: “Tìm một người diện mạo giống quốc vương đi thay. Việc này chỉ có Công gia, Thang đại nhân, Vương đại nhân và ta là bốn người biết mà thôi. Nếu sợ Lê Duy Kỳ biết, ta bẩm ngay với Công gia đem 1000 người bọn ấy giữ kỹ không cho ra ngoài, còn ai biết được nữa”. (theo Bang giao tập, ngoại giao nhà Tây Sơn).

Mưu lược ngoại giao của nhà Tây Sơn mua chuộc Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp qua các chứng cứ của Phan Huy Ích và Bang giao tập, với tình thế nhà Thanh đang rất chú tâm đến Tây Tạng, Cam Túc và chuyển giao ngai vàng. Phúc Khang An đã nhanh chóng lập được đại công quản lý Lưỡng Quảng, vỗ yên Đại Việt, tránh được thế đối đầu Đó là có lý do ẩn ý riêng.(*) Bài viết Kho báu đỉnh Tuyết Sơn của Hoàng Kim đã viết rõ điều này.

BANG GIAO TẬP VIỆT TRUNG

Sách Bang giao tập viết: “Đại Hoàng đế sợ Duy Kỳ ở Quảng Tây còn có nhiều bầy tôi cũ gây ra việc, cho nên ngày 16 tháng giêng năm Canh Tuất đã cho đem gia quyến Lê Duy Kỳ lên Yên Kinh, đem 116 người tùy tùng đi an trí ở các tỉnh Triết Giang, Giang Nam, Tứ Xuyên, Hồ Quảng. Lê Quýnh bị đưa đi Ỷ Lệ cách Yên Kinh 4000 dặm”. Nhà Thanh sai phân tán các quan lại cũ của nhà Lê đi các nơi để tách biệt không liên lạc được với nhau và cô lập Lê Duy Kỳ.Bản thân Lê Duy Kỳ bị giam lỏng ở “Tây An Nam dinh” tại Yên Kinh . Nhà Tây Sơn chính thức nhận được sự công nhận của nhà Thanh.

Sách Cương mục viết: “Nhà vua (Lê Duy Kỳ) căm giận vì bị người Thanh lừa gạt, bèn cùng các bầy tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức mười người uống máu ăn thề, làm bài biểu định đưa lên vua Thanh để xin quân cứu viện, nếu không được thì xin được đất hai châu Tuyên Quang và Thái Nguyên để quay về giữ việc thờ cúng tổ tiên hay là cùng nhau lén về Gia Định, nương nhờ triều ta (triều Nguyễn) để dần dà toan tính việc khôi phục, chứ quyết không chịu sống thừa ở đất Bắc.”

NGUYỄN DU NIÊN BIỂU LUẬN

Nguyễn Du niên biểu luận đã đúc kết và đang bổ sung dữ liệu giải mã thông tin giai thoại chưa kiểm chứng rõ sự thật. Phạm Quý Thích (giai thoại là Lê Quý Thích của sách Cương mục và sách Lê Quý kỷ sự, người từng cắt máu ăn thề với vua Lê) bạn thân của Nguyễn Du, người được chính Nguyễn Du tiểu dẫn trong những trang đầu của Truyện Thúy Kiều, bài tựa số 1 của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân, “Ta lấy một thiên mực nhạt, xa viếng nàng Kiều, …” được sao lục tại Bài tựa Truyện Kiều trang 392-396 trong sách “200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều”, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Giấy phép xuất bản số 698/CXB ngày 12/5/2005. 1998 trang, năm 2005. Tổng vịnh Truyện Kiều của Phạm Quý Thích.. Cụ Phạm là một danh sĩ thời Lê mạt, giao du rất thân với cụ Nguyễn Du. Chẳng những hay thơ chữ, cụ cũng hay cả thơ Nôm, xem bản dịch của cụ đã nêu liền dưới bài thơ chữ, quả tài tình rất mực.

Tổng vịnh Truyện Kiều của Phạm Quý Thích, trang 397 (hình) trong sách “200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều”, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Sđd.

Sách Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều do Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo có in đầu sách hai bài tựa này là ẩn ngữ cần được soi tỏ sự thật mà các sách Truyện Kiều sau này ít thấy. Đó là bản in sát hơn hết với bản phường (gốc)Truyện Kiều. Y sao Toàn văn Tổng vịnh Truyện Kiều của Phạm Quý Thích (Bài Tựa số 2 đầu sách Truyện Kiều, Sđd trên tại trọn trang 397), chính cụ Phạm Quý Thích (2) lại tự dịch luôn ra Quốc âm:

Giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan
Phong ba chưa trắng nợ hồng nhan
Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng
Gót ngọc khôn đành giấc thủy quan
Nửa gối đoạn trường tan giấc điệp,
Một dây bạc mệnh dứt cầm loan
Cho hay những kẻ tài tình lắm,
Trời bắt làm gương để thế gian,

(Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim hiệu khảo, NXB Tân Việt, 1968; tr.52)

(1) Nghĩa tám câu này là: Nàng Kiều nếu không đến sông Tiền Đường (thì) cái nợ yên hoa nửa đời trả chưa xong? Cái tài sắc của nàng không đáng vùi xuống nước; tấm lòng trong sạch của nàng lúc nào cũng không thẹn với Kim Lang.(Nhưng ngẫm) trong giấc mộng đoạn trường thì đã hiểu rõ cái căn nguyên cả đời nàng, nghe tiếng đàn bạc mệnh tuy đã gảy hết khúc, mà nỗi oán hận vẫn còn dài. (Thế mới hay) Một mảnh tài tình là cái lụy chung muôn đời. (Vậy thì) quyển Tân thanh này cốt để thương xót ai?

(2) Cụ Phạm là một danh sĩ thời Lê mạt, giao du rất thân với cụ Nguyễn Du. Chẳng những hay thơ chữ, cụ cũng hay cả thơ Nôm, xem bản dịch của cụ đã nêu liền dưới bài thơ chữ, quả tài tình rất mực.

Sách Nguyễn Du Truyên Thúy Kiều do Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo là chỉ dẫn văn bản trong sách “200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều”, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Giấy phép xuất bản số 698/CXB ngày 12/5/2005. 1998 trang, năm 2005, trang 392-397.và tài liệu “Trung Liệt đền thờ cổ” là chỉ dẫn địa lý nơimà Nguyễn Du và em trai đã lập đền thờ cho những người Trung Liệt Nhà Hậu Lê ở 124 Thụy Khuê, Hà Nội khi Nguyễn Nể đi sứ cho nhà Tây Sơn được thành công trở về và dinh thự họ Nguyễn Tiên Điền ở Hà Nội được tu sửa khôi phục lại. Xin chép lại nguyên văn và trân trọng giới thiệu hồ sơ chuyên đề Nguyễn Du tư kiệu quý, mục tư liệu số 13 này có “Phát hiện mới nguồn gốc Truyện Kiều” “Thử giải mã lại Truyện Kiều” của Lê Nghị (Li Li Nghê) và bài viết Truyện Kiều có trước hay sau Kim Vân Kiều truyện? của PGS.TS Đoàn Lê Giang (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh),” Hồ sơ tham khảo chi tiết chúng tôi lưu về chung trang “Nguyễn Du tư liệu quý” |

Hoàng Kim
(Đọc lại và hiệu đính, bổ sung)

LÊ NGHỊ LUẬN TRUYỆN KIỀU

200 năm, hậu thế nhớ Tố Như – Kỳ cuối: Thử ‘giải mã’ lại Truyện Kiều
200 năm, hậu thế nhớ Tố Như – Kỳ 3: Người xưa thấp thoáng ngàn sau
200 năm, hậu thế nhớ Tố Như – Kỳ 2: Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày
200 năm, hậu thế nhớ Tố Như – Kỳ 1: Gìn vàng giữ ngọc cho hay…

TTO – ‘Dựa vào các văn bản, chúng tôi phát hiện ra rằng Truyện Kiều mới là gốc của Kim Vân Kiều truyện ở Việt Nam. Rồi từ Kim Vân Kiều truyện của Việt Nam người ta mới phóng tác Kim Vân Kiều truyện ở Trung Quốc’.

Nhà nghiên cứu Lê Nghị có một loạt tác phẩm nghiên cứu về Truyện Kiều trong thời gian gần đây rất đáng trân trọng và lưu ý: Luận về Kim Vân Kiều lục (bài 1 FB Li Li Nghệ Thứ Năm 15 tháng 10 , 2020 lúc 19;27); Ai soạn Kim Vân Kiều Truyện A 953? (bài 3 Kim Vân Kiều Truyện A953 kế thừa tác phẩm nào ở Đại Nam, FB Li Li Nghệ 12 tháng 10 lúc 18:15); Phản biện nhận định của giáo sư Dương Quảng Hàm về nguồn gốc Truyện Kiều ( hình chụp trang báo Tri Tân và bài viết của GS Dương Quảng Hàm; FB Li Li Nghệ 8 tháng 10 lúc 14:19) . Luận về Kim Vân Kiều Lục, bài 1: Thời gian xuất hiện và yếu tố xác định tác phẩm của người Việt FB Li Li Nghệ, Thứ Năm 15 tháng 10 , 2020 lúc 19;27 viết Biên khảo của chúng tôi là dọn một con đường thẳng đi từ Đoạn Trường Tân Thanh đến Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Ở các bài trước, chúng tôi đã chứng minh xong: Tác giả Kim Vân Kiều truyện là Duy Minh Thị. Ông tên thật là Trần Quang Quang, còn có bút danh khác là Gia Định Thành cư sĩ, sống ở Sài Gòn, hoạt động văn hóa mạnh nhất vào những năm 1870-1883. Việc chứng minh này trong loạt gồm 3 bài: Ai là người viết A953 đã đăng tuần trước.Nhưng việc phát quang, mở rộng con đường ắt sẽ có người khác và thế hệ sau. Học thuật không phải là độc quyền của riêng ai. Những gì chúng tôi vận dụng tại biên khảo này cũng từ bằng chứng người trước để lại, cho dù người trước đã đi con đường khác mà chúng tôi cho rằng đã lạc hướng.Sau khi cung cấp sơ đồ cơ bản, và chứng minh xong con đường vạch ra đã tới đích: thơ ĐTTT => Thơ KVK Truyện => tiểu thuyết KVK Lục => KVKT- Duy Minh Thị=> KVKT- Thanh Tâm Tài Tử => KVKT- Thanh Tâm Tài Nhân. Bài này đi sâu vào chi tiết Kim Vân Kiều Lục vì nó là tác phẩm quan trọng, ví như một trạm dừng chân lớn nhất giữa điểm khởi phát ĐTTT đi đến điểm cuối Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Thiễn nghĩ người tìm hiểu về truyện Kiều nhất thiết phải đọc Kim Vân Kiều Lục, mới hiểu sâu hơn về Truyện Kiều, và cuốn Kim Vân Kiều truyện, nên tôi viết loạt bài giới thiệu này cho những ai chưa đọc. “Thời gian sách xuất hiện:-Sách Kim Vân Kiều Lục theo Phạm Tú Châu năm 2015 đã cho rằng in lần đầu năm 1888, hiện còn bản lưu. Tôi e rằng năm 2015 tiến sĩ Phạm Tú Châu không biết thông tin: theo di lục của A.d.Michelle 1884 ghi là KVKL đã in năm1876 tại Hà Nội. Cũng như đa số nhầm lẫn, do không rõ vô tình hay cố ý, tôi cho rằng cố ý, trước tháng 5/2020 người ta đã dịch cuốn sách ông Abel des Michelle giữ tên Kim Vân Kiều Lục thành Kim Vân Kiều Truyện. Cũng như bao thế hệ học sinh có người chưa từng nghe tới Thanh Tâm Tài Tử mà chỉ biết Thanh Tâm Tài Nhân. Chính vì vậy đã đào tạo ra bao thế hệ chỉ biết tới Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, và mặc định tác giả và tác phẩm là của Trung Quốc. Người học và người đoc không hề biết tới các tác phẩm tiền thân của Kim Vân Kiều Truyện -Thanh Tâm Tài Nhân Việt Nam là cuốn Kim Vân Kiều Lục. Đây là một việc làm bẻ cong văn học sử, bẻ lái học thuật của một số được gọi là “ tín đồ Thanh Tâm Tài Nhân Trung Hoa” hiện nay.

200 năm, hậu thế nhớ Tố Như – Kỳ cuối: Thử ‘giải mã’ lại Truyện Kiều

Truyện Kiều có trước Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Tử Việt Nam, Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân Trung Quốc chỉ là sản phẩm ăn theo, tên tác giả cũng là tự đặt. (Nhà nghiên cứu LÊ NGHỊ viết)

Nhà nghiên cứu Lê Nghị mở đầu bản tham luận Nguồn gốc Truyện Kiều, tại Hội thảo Minh họa Kiều dưới góc nhìn minh triết Việt, do Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà Nội vừa tổ chức làm cả khán phòng ngỡ ngàng…

Truyện Kiều là gốc

Sách vở xưa nay, hầu hết đều cho rằng Nguyễn Du đã mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc để viết Truyện Kiều. Trong khi đó, nhà nghiên cứu Lê Nghị khẳng định: “Thanh Tâm Tài Tử hay Thanh Tâm Tài Nhân cũng đều ở Việt Nam cả”.

Theo ông, sau khi qua đời Nguyễn Du để lại Đoạn trường tân thanh, vì nhan đề nhạy cảm với vương triều nên Minh Mạng đổi thành Kim Vân Kiều truyện. 

Điều này thể hiện trên bản Kiều cổ ký hiệu B60 (đang lưu ở Thư viện Khoa học xã hội – thuộc Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Viện Viễn Đông bác cổ xưa): “Minh Mạng ngự lãm tứ cải danh Đoạn trường tân thanh (thành) Kim Vân Kiều truyện”. 

Đồng thời Minh Mạng chỉ đạo các văn thần, gọi tên chung là Thanh Tâm Tài Tử soạn một cuốn bình giảng thơ Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du. Cuốn bình giảng đầu tiên là Kim Vân Kiều lục.

Như vậy hai cụm từ Kim Vân Kiều truyện và Thanh Tâm Tài Tử có từ thời Minh Mạng 1830, tại văn bản Thanh Tâm Tài Tử cổ kim Minh lương đề tập biên. Thánh tổ Nhân hoàng đế (thường gọi vua Minh Mạng – NV) ngự chế tổng thuyết thường tập (ký hiệu VNv.240). 

Văn bản này giải quyết vấn đề mấu chốt rằng cụm từ Thanh Tâm Tài Tử, chữ “tử” không phải viết nhầm chữ “nhân” trong bút danh Thanh Tâm Tài Nhân xuất hiện sau năm 1902.

Nhà nghiên cứu Lâm Thanh Sơn cho rằng, Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du có nhiều nội dung phản ánh xã hội thối nát kèm nhiều điều không phù hợp với triều đình đương thời, kể cả tiêu đề. 

Nhưng văn chương hay quá, không thể bỏ qua nên nhà vua mới ra lệnh soạn sách giảng theo các hướng trung, hiếu và trinh. Nhóm Thanh Tâm Tài Tử đã “diễn” lại Đoạn trường tân thanh từ thể thơ lục bát chữ Nôm thành văn xuôi chữ Hán, đặt nhan đề Kim Vân Kiều lục. 

Những người đời sau đã dùng bản này kết hợp một số tác phẩm tuồng, chèo, viết nên Kim Vân Kiều truyện, lấy tác giả là Thanh Tâm Tài Tử, và in vài lần trong thế kỷ 19. 

Đến nay, ở Thư viện Khoa học xã hội thuộc Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Viện Viễn Đông bác cổ xưa) vẫn còn lưu bản chữ Hán chép tay Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Tử, số hiệu A953, niên đại được xác định từ 1910-1914.

Cũng trong nước năm 1924, sách Kim Vân Kiều truyện (1 quyển) của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân lần đầu xuất hiện. 

Theo nhà nghiên cứu Lê Nghị, tên tác giả mới này xuất phát từ năm 1898, cụ Đào Nguyên Phổ khi đang học Trường Quốc Tử Giám, được một người họ ngoại nhà vua đến bảo có “Truyện Thanh Tâm Tài Nhân”. 

Cụ Đào Nguyên Phổ chính là người giao một bản Kim Vân Kiều truyện cho Kiều Oánh Mậu để in ở Hà Nội năm 1902; trong sách in sau đó có xuất hiện cái tên Thanh Tâm Tài Nhân. 

Đến năm 1941, học giả Dương Quảng Hàm đã dùng Kim Vân Kiều truyện (4 quyển, quyển đầu mất 21 trang và quyển cuối chỉ còn 24 trang) làm nên Kim Vân Kiều truyện, cũng đặt tác giả Thanh Tâm Tài Nhân…

200 năm, hậu thế nhớ Tố Như - Kỳ cuối: Thử giải mã lại Truyện Kiều - Ảnh 3.

Tranh vẽ câu thơ “Trăm năm trong cõi người ta” trong bản Kiều cổ ở Anh – Ảnh NXH cung cấp

Thanh Tâm Tài Nhân mơ hồ ở Trung Quốc

Trong khi đó, ở Trung Quốc, cuốn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, bản Đại Liên, được in lần đầu vào tháng 10-1983, do Lý Trí Trung hiệu điểm. 

Còn trước đó, Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ được ghi trong danh mục sách Văn học Trung Hoa từ năm 1926, nhưng không thấy địa chỉ tiểu thuyết dẫn được. Còn tên gọi Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Quốc không thấy ghi trên một cuốn sách nào.

“Bút danh Thanh Tâm Tài Nhân này lần lượt gán cho nhiều tác giả thời Minh đến giữa Thanh nửa đầu thế kỷ XVI như Từ Vị, Kim Thánh Thán, Trương Chiêu, Trương Quân, Từ Chấn… Hiện nay gán cho một bút danh khác cũng không rõ nhân thân là Thiên Hoa tàng chủ nhân, nhưng không một bút tích ghi nhận, phê bình, bài thơ nào của ai khác nhắc tới bút danh mặc định 72 tuổi này” – nhà nghiên cứu Lê Nghị phân tích.

Nhà nghiên cứu Lâm Thanh Sơn cho biết ngay cả một số học giả Trung Quốc cũng xác nhận: từ trước những năm 1980, tất cả các bộ sách, giáo trình về lịch sử Trung Quốc, bao gồm cả Trung Quốc tiểu thuyết sử lược của Lỗ Tấn đều không đề cập đến Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. 

Theo ông: “Đến năm 1957, giáo sư từ Trung Quốc sang Viện Viễn Đông bác cổ Hà Nội giúp sắp xếp lại tư liệu, thấy bản Kim Vân Kiều truyện được giới thiệu cốt truyện có nguồn gốc từ Trung Quốc. 

Ông khẳng định là Trung Quốc không có tác giả Thanh Tâm Tài Nhân nào cả. Ngay cả Lý Trí Trung, người hiệu đính cuốn Kim Vân Kiều truyện – Thanh Tâm Tài Nhân năm 1983, cũng mơ hồ về nguồn gốc”.

Khi so sánh sách này với cuốn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Tử ở Việt Nam (bản A953), nhà nghiên cứu Lâm Thanh Sơn cho rằng nó giống nhau khoảng 99%. 

Chỉ có một vài khác biệt nhỏ, do bản người Việt dùng chữ Hán phồn thể theo lối văn ngôn. Còn bản Trung Quốc chữ Hán giản thể, theo lối tiểu thuyết chương hồi, văn phong bạch thoại.

Hiểu Kiều theo cách người Việt

Theo nhà nghiên cứu Lê Nghị, khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ mượn chất liệu Minh sử và vở kịch Hổ Phách Chủy để viết tổng cộng 187 câu, chiếm 5,7% so trong 3.254 câu; trong đó có 65 câu đúng theo chính sử, còn lại là nửa chính sử nửa hư cấu. Số 94,3% còn lại là do Nguyễn Du hư cấu và sáng tác nên. 

Nguyễn Du mượn 3 nhân vật trong vở kịch là Hồ Tôn Hiến, Từ Hải và Vương Thúy Kiều (Mã Kiều). Còn tất cả các nhân vật khác Nguyễn Du đều hư cấu nên để viết, và toàn bộ đều mang tâm hồn, tính cách của người Việt.

Từ những điều trên, theo nhà nghiên cứu Lê Nghị, sách giáo khoa cần rút định đề Truyện Kiều dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. 

Thay vào đó, cần thiết tăng cường bối cảnh lịch sử đương thời và tác giả tạo nên tác phẩm; phân tích tính cách, tâm hồn Việt của nhân vật với cách nhìn của người Việt đối với Thúy Kiều, đối với Hoạn Thư, đối với Từ Hải…

Do đó, cần dựa vào 3 tiêu chí: trung thực, dân tộc và nhân văn để chú giải Truyện Kiều theo tri thức và văn hóa của người Việt. Ông đơn cử: chữ trăm năm từng được chú giải bách niên theo tiếng Hán. 

Trong khi, trong Truyện Kiều nhiều trường hợp “trăm năm không dính líu đến bách niên”, mà là xưa nay (Trăm năm trong cõi người ta), hôn nhân (Trăm năm biết có duyên gì hay không), đời người (Trăm năm một nấm cỏ khô xanh rì)… 

Còn bể dâu từng chú giải kèm dẫn chứng Dĩ kiến Đông hải tam vi tang điền. Theo ông, nó vừa thừa, vừa lệch nghĩa: “đã từng thấy 3 lần biển Đông biến thành ruộng dâu là lối thậm xưng của người Trung Hoa”. 

Trong khi với người Việt gọi bể dâu là tang thương, là một sự biến đổi từ tốt đến xấu. “Lẽ ra nên dẫn câu rất hay: Phong trần đến cả sơn khê/ Tang thương đến cả hoa kia cỏ này trong Cung oán ngâm khúc để thêm kiến thức và khơi gợi sự tìm đọc tác phẩm có câu thơ hay. Phải làm sao cho học sinh hiểu, áp dụng được, mới có lợi cho dân tộc” – nhà nghiên cứu Lê Nghị chia sẻ.

Trước công trình nghiên cứu và quan điểm mới trên, một số nhà nghiên cứu như ông Trần Đình Sơn cho rằng đó cũng là một hướng nghiên cứu thú vị. 

Tất nhiên, sẽ còn cần thêm nhiều nghiên cứu khác về xuất phát Truyện Kiều để tường minh hơn về đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm đã đi vào lòng muôn đời người Việt…

“Kiến giải mới về nguồn gốc Truyện Kiều“ tác giả Hồng Hà đăng trên Báo điện tử Đại biểu Nhân dân 03/08/2020, và Phan Lan Hoa phản biện nguồn gốc Truyện Kiều đã cho thấy ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH SAU 200 NĂM ĐÃ ĐƯỢC TRẢ LẠI NGUỒN GỐC.Về tác giả của Kim Vân Kiều truyện, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều giả thuyết. Trong đó, bằng chứng khoa học là văn bản của vua Minh Mạng năm 1830, ra chỉ dụ cho nhóm văn thần Thanh Tâm Tài Tử ở Hàn lâm viện viết Kim Vân Kiều lục (bình giảng Truyện Kiều) bằng chữ Hán. Đó cũng là một trong những lý do trải qua hàng trăm năm sau, nhiều đồn đại cho rằng cuốn sách được xuất phát từ Trung Hoa nên Kim Vân Kiều lục được diễn giải lại bằng văn xuôi tiếng Việt, trở thành cuốn Kim Vân Kiều truyện. Những đồn đoán sai lầm đó của người Việt cũng là nguyên nhân để học giả người Trung Hoa nhận về mình cuốn sách này năm 1983, như đã trình bày ở trên.Các nhà nghiên cứu kết luận, cùng nguồn sử liệu nhà Minh, với các nhân vật Từ Hải – Kiều – Hồ Tôn Hiến, ở Trung Hoa và Việt Nam đi theo 2 hướng khác nhau. Ở Trung Hoa phóng tác thành các tiểu phẩm gồm truyện ngắn, kịch, tuồng độc lập, không tác phẩm nào kế thừa tác phẩm nào. Cũng không có tác phẩm nào mang cùng tên nhân vật và số phận nhân vật có cốt truyện, nội dung giống Đoạn trường Tân Thanh” ” Cụ Văn Hòe viết như này:- “Đoạn trường tân thanh” là do tác giả Nguyễn Du đặt khi viết xong tác phẩm (tức tên gốc nguyên thủy của Truyện Kiều).- Cụ Phạm Quý Thích đổi tên sang “Kim Vân Kiều tân truyện” khi xuất bản ấn phẩm chữ Nôm theo chỉ dụ của vua Minh Mạng.- Hai cụ Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim gọi là “Truyện Kiều”- Cụ Tản Đà gọi là “Vương Thúy Kiều”- Nhưng “Kim Túy tình từ chú thích” của cụ Phạm Kim Chi lại thể hiện tên do Nguyễn Du đề là “Kim Túy tình từ”. Còn “đoạn trường tân thanh” là bút tích vua Minh Mạng đề khi chỉ dụ cho xuất bản.- Cụ Trương Vĩnh Ký cho rằng chữ tân gây hệ lụy cho Truyện Kiều sau này, nên bỏ chữ “tân” gọi là “Kim Vân Kiều truyện” .- Hai cụ Lê Xuân Thủy, Huyền Mặc Đạo Nhân bớt từ “truyện”, lấy tên là “Kim Vân Kiều” (chắc là thấy chữ truyện thừa?).- Cư sĩ Trương Cam Vũ dịch ra thơ Hán lấy tên là “Hán dịch Kim Vân Kiều Nam âm thi tập”Các tác giả đều có trình bày nguyên do đặt tên của mình. Nội dung bên trong các cuốn sách này đều là thơ Kiều và luận giải, chú thích theo ý tác giả; hoặc là khảo luận ngôn ngữ thơ Kiều của Nguyễn Du. Khác chăng từ ngữ trong thơ có thay đổi đôi chút tiếng địa phương (chắc là cho phù hợp với sử dụng của vùng miền), còn thì nguyên bản.Từ đó có thể suy ra tên “Kim Vân Kiều truyện” KHÔNG PHẢI SÁCH TÀU. Đồng thời cũng không phải do người khác sáng tạo từ truyện Kiều, mà bắt đầu do cụ Phạm Quý Thích. Các tên khác do các thi nhân đời sau dịch chữ Nôm ra Quốc ngữ mỗi người một kiểu thôi ạ.Như vậy, ta có thể hiểu, những tác phẩm có lời thoại tựa như tuồng, hát bội, là do chỉ dụ của vua Minh Mạng biến thể “Đoạn trường tân thanh” sang thể ca kịch và các thể khác nhằm mục đích phát triển văn nghệ dân gian sâu rộng trong bá tính? Kính mong mọi người nghiên cứu thêm” .

Truyện Kiều có trước hay sau Kim Vân Kiều truyện?
PGS.TS Đoàn Lê Giang (Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP.HCM)

Bài đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 26/09/2020 10:49 GMT+7 giới thiệu Trang cuối cuốn 7 của Thông tục Kim Kiều truyện, dòng 3 từ trái qua ghi năm xuất bản: Bảo Lịch thứ 13, Quý Mùi, chính nguyệt (tháng Giêng 1763)- Ảnh: Đoàn Lê Giang.

:Ý tưởng chung của ông Lê Nghị được dẫn lại trong bài “Thử giải mã lại Truyện Kiều” là muốn chứng minh Truyện Kiều của Nguyễn Du không phải là sáng tác trên cơ sở cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc, mà ngược lại Truyện Kiều có trước, sau đó nhóm Thanh Tâm Tài Tử người Việt Nam diễn thành Kim Vân Kiều truyện, từ đó truyền sang Trung Quốc thành Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, lưu ở Thư viện Đại Liên (nơi vẫn coi là tìm ra một trong các bản cổ Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc), và người Trung Quốc nhận là sáng tác của họ.

Quan điểm này đi ngược lại những nghiên cứu lâu nay của các học giả Việt Nam và nước ngoài, từ Phạm Quỳnh, Lê Thước, Phan Sĩ Bàng, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Dương Quảng Hàm, Giản Chi và các học giả sau này.

Những ghi nhận của sách Hán Nôm cổ cùng với quá trình nghiên cứu của các học giả 100 năm nay cho thấy: Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc có trước, Truyện Kiều của Nguyễn Du được sáng tác trên cốt truyện ấy có sau nhưng trở thành kiệt tác của văn học thế giới.

Tuy nhiên, ông Lê Nghị đưa ra luận điểm rằng Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc lưu ở Thư viện Đại Liên là sách giả. Nói như vậy là không có cơ sở, nhưng để cho rõ ràng, tôi xin đi đường vòng, không dùng tư liệu Trung Quốc nữa mà dùng tư liệu Nhật Bản.

Truyện Kiều của Nguyễn Du đã được dịch ra tiếng Nhật từ khá sớm, người dịch là nhà văn nổi tiếng Komatsu Kiyoshi. Người Nhật đặc biệt yêu thích Truyện Kiều qua bản dịch này, trong vòng 6 năm nó được tái bản đến 3 lần (1942, 1943, 1948).

Nhờ thế các học giả Nhật Bản mới chú ý tìm xem có Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc truyền đến Nhật Bản không. Họ phát hiện ra ở Nhật có các bản dịch, phóng tác Kim Vân Kiều truyện khá phong phú.

Trong đó, sớm nhất có thể kể tới bản Kim Kiều truyện dịch sang tiếng Nhật thành Tú tượng Thông tục Kim Kiều truyện (Kim Kiều truyện thông tục có tranh minh họa) của Nishida Korenori được xuất bản vào năm Bảo Lịch 13 (1763).

Bản này được lưu giữ ở Thư viện Đại học Tenri, gồm 7 sách, 5 quyển, 20 hồi. Cuối sách 7 có ghi: “Tháng Giêng, năm Quý Mùi, Bảo Lịch thứ 13 (1763)”. Như vậy, bản dịch xuất hiện 3 năm trước khi thi hào Nguyễn Du ra đời vào năm 1766.

Năm 2003, tôi đến Thư viện Đại học Tenri (gần Nara) để nhìn tận mắt, sờ tận tay bản dịch Thông tục Kim Kiều truyện và xin sao chụp lại (318 trang, khổ 28 cm x 36 cm, 20 tranh minh họa). Tôi được biết GS Trần Đình Sử cũng có cuốn này từ năm 1996 khi ông đi Nhật.

Gần đây, nhà nghiên cứu Vương Trung Hiếu cũng đã tìm được những tư liệu mới nhất về Kim Vân Kiều truyện ở Nhật Bản.

Ông đã giới thiệu bài Ảnh hưởng của tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung Quốc – Trường hợp Bakin của GS Isobe Yūko (trích từ kỷ yếu của Đại học Takaoka, quyển thứ 18, xuất bản 2003 tại Nhật Bản). GS Isobe Yūko cho biết:

Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc du nhập vào Nhật Bản trong thời kỳ Edo (1603 – 1868), từ đó về sau có nhiều bản dịch truyện này sang tiếng Nhật.

Năm 1763, xuất hiện bản dịch Thông tục Kim Kiều truyện của Nishida Korenori, được xem là bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc sớm nhất”.

Với tư liệu như thế về năm xuất hiện bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Nhật Bản, vấn đề Kim Vân Kiều truyện có trước, Truyện Kiều sáng tạo lại, chuyển thể thành truyện thơ từ tác phẩm này là đã rõ.

ĐỀ NGHỊ BÁO TUỔI TRẺ THEO GƯƠNG GOOGLE GỠ BÀI “THỬ “GIẢI MÔ LẠI TRUYỆN KIỀU” RA KHỎI TRANG ONLINE ĐỂ TRÁNH LÀM HẠI HỌC THUẬT NƯỚC NHÀ!
Đoàn Lê Giang nguồn FB Đoàn Lê Giang 19 tháng 9

Facebooker Lê Nghị đã đưa ra một quan điểm giật gân: Không phải Truyện Kiều của Nguyễn Du sáng tạo lại từ “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, mà ngược lại “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân được sáng tác từ Truyện Kiều. Tức Truyện Kiều có trước, Kim Vân Kiều truyện có sau.

Ý kiến này được ông Lê Nghị đã đưa lên Facebook cách đây một năm. Để khỏi làm nhiễu thông tin tôi đã viết 3 status để vạch rõ cái vô lý của lập luận đó, trong đó có việc tôi trưng ra bản chụp quyển “Thông tục Kim Kiều truyện” là bản dịch “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân ra tiếng Nhật xuất bản năm 1763 – trước khi Nguyễn Du (1765-1820) sinh 2 năm.

Thực ra thông tin này tôi đã giới thiệu từ 25 năm trước trên “Kiến thức ngày nay” số Xuân 1996, sau đó chỉnh sửa bổ sung và công bố trên tạp chí “Nghiên cứu văn học” số 12 năm 1999 (bài “Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện ở Nhật Bản”): http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=277:truyn-kiu-va-kim-van-kiu-truyn-nht-bn-&catid=64:vn-hc-nc-ngoai-va-vn-hc-so-sanh&Itemid=108).

Người đầu tiên phát hiện ra bản dịch “Kim Vân Kiều truyện” ở Nhật Bản là GS.Hatakenaka Toshirô 畠中 敏郎 (ĐH Osaka- Nhật Bản) trong bài viết “Kim Vân Kiều và văn học thời Edo” 江戸文学 と 金 雲 翹 năm 1959, sau đó được in ở phần sau bản dịch “Kim Vân Kiều” của Takeuchi Yonosuke (Kodansha, 1975).

Năm 2003 tôi đã cùng GS.Kawaguchi Kenichi (ĐH Ngoại ngữ Tokyo) đi đến Nara để nhìn tận mắt, sờ tận tay bản dịch đó và xin sao chụp về, vì biết đây là tư liệu quý về người anh em của Truyện Kiều. Khi tôi chụp lên FB tư liệu trên thì GS.Trần Đình Sử cho biết ông cũng có và chụp đưa lên. https://www.facebook.com/photo?fbid=1471795693005591…

Ông Lê Nghị không chấp nhận sự thật đó, vẫn tiếp tục đi trình bày quan điểm ngược đời của mình trong cuộc trưng bày các minh họa về Truyện Kiều ở Trung tâm Văn hóa Pháp (Hà Nội) vào tháng 8/2020 vừa qua.

Ngày 17/9/2020 báo Tuổi trẻ đã giới thiệu bài viết của ông Lê Nghị lên báo giấy và online với nhan đề “Thử “giải mã” lại Truyện Kiều“. Bài viết gây xôn xao dư luận, sau đó Google lại đưa lên trang của mình, có lẽ đến hàng triệu người biết. Có rất nhiều giáo viên hoang mang, có cô giáo là học trò cũ hỏi tôi: Vậy SGK, giáo trình xưa nay sai hết à? Tôi phải mắng át đi: Tôi hỏi em, em ra đường gặp một người nói: Con bê đẻ ra con bò, thế rồi em cũng tin và bỏ hết niềm tin của mình trước nay à?

Rất may nhà nghiên cứu Vương Trung Hiếu đã cất công tìm những tư liệu nghiên cứu mới nhất của giới nghiên cứu Nhật Bản về “Kim Vân Kiều truyện” và giới thiệu bài nghiên cứu “Ảnh hưởng của tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung Quốc – Trường hợp Bakin (中国才子佳人小説の影響 – 馬琴の場合)” của GS.Isobe Yūko (磯部祐子), trích từ Kỷ yếu của Đại học quốc gia Takaoka (高岡短期大学紀要), quyển thứ 18, xuất bản năm 2003 tại Nhật Bản. GS.Isobe Yūko cho biết:

“Kim Vân Kiều truyện (金雲翹伝) của Trung Quốc du nhập vào Nhật Bản trong thời kỳ Edo (1603 – 1868), từ đó về sau có nhiều bản dịch truyện này sang tiếng Nhật. Năm 1763, xuất hiện bản dịch Thông tục Kim Kiều truyện (通俗金翹伝) của Nishida Isoku (西田維則/ Tây Điền Duy Tắc), được xem là bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc sớm nhất’, nghĩa là có trước khi Nguyễn Du chào đời 3 năm.” (Status “Nguồn gốc Truyện Kiều”-Fb Vương Trung Hiếu 18/9/2020). https://www.facebook.com/hieuvuongtrung

Với tư liệu rõ ràng như thế về năm xuất hiện bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Nhật Bản (1763 – Xem ảnh từ tư liệu Đoàn Lê Giang), vấn đề “Kim Vân Kiều truyện” có trước, Truyện Kiều sáng tạo lại, chuyển thể thành truyện thơ từ tác phẩm này coi như đã rõ, mọi bàn luận sau này chỉ là cãi cố, cãi lấy được, cãi vì tự ái, hoặc không có hiểu biết tối thiểu về nghiên cứu. Tôi sẽ không tranh luận gì nữa.

Xin nói về việc dùng bài của facebooker Lê Nghị. Báo “Tuổi trẻ” đã tin dùng một bài có quan điểm rất giật gân về tác phẩm hệ trọng nhất của văn hóa VN là Truyện Kiều. Facebooker Lê Nghị (biệt danh là Li Li Nghệ) và nhóm đã bác lại hết mọi thành tựu nghiên cứu của các học giả uyên thâm về Truyện Kiều từ trước tới nay như Phạm Quỳnh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Lê Thước, Phan Sĩ Bàng, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Dương Quảng Hàm… – những học giả rất giỏi Hán Nôm, tiếng Pháp và làm chủ các kho tư liệu Hán Nôm; trong khi đó ông Lê Nghị không biết Hán Nôm, không có một quá trình nghiên cứu nghiêm túc, không có tư liệu gốc, không từng đến các thư viện lớn ở Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc để khảo tư liệu. Lập luận của ông và nhóm rất ngược đời, rất vô lý, toàn là quy kết, suy diễn vô bằng, ai đưa ra tư liệu nào khác quan điểm của các ông, các ông đều chỉ có một cách bác bỏ duy nhất: bảo đó là tư liệu giả hoặc tung hỏa mù để mọi người nghĩ là tư liệu giả, dù là tư liệu cổ chụp từ Thư viện Đại Liên (TQ), hay Thư viện ở Đài Loan, Thư viện Đại học Ngoại ngữ Tokyo, Thư viện Đại học Tenri, Thư viện Quốc hội Nhật Bản….

Nếu các ông chỉ chơi Facebook thì muốn “chém gió”, muốn “nổ”, muốn chửi hết các học giả lớn, rồi chia sẻ với nhau trong nhóm thế nào cũng được – miễn là đừng phạm pháp. Tôi đã trình bày lý lẽ, chứng cứ rõ ràng một lần cho các ông biết rồi, các ông nghe hay không thì tùy, tôi không quan tâm các ông viết cái gì nữa. Nhưng bài các ông đưa lên báo Tuổi trẻ lại là một việc hệ trọng (dù đoạn kết báo có nói đưa để tham khảo), nên tôi thấy mình có trách nhiệm phải lên tiếng. Bây giờ trắng đen, đúng sai đã rõ, Google đã rút bài “Thử “giải mã” lại Truyện Kiều” ra khỏi trang tin của mình, thì báo Tuổi trẻ cũng nên mạnh dạn rút bài ấy. Điều ấy rất nên làm, nó thể hiện thái độ trọng sự thật, lòng dũng cảm và tinh thần trách nhiệm của người làm báo với bạn đọc – những phẩm chất mà tờ báo đã và đang theo đuổi, những phẩm chất mang đến sự tin tưởng và kính trọng của bạn đọc, trong đó có tôi đối với tờ báo. Nếu không rút cứ để đấy, nhiều người tưởng bài viết đúng tin theo, trích dẫn thì sẽ thành trò cười cho giới nghiên cứu, nhưng rất có hại cho học thuật, cho văn hóa nước nhà.

Kính trọng Nguyễn Du, nhớ đến ông nhân 200 năm ngày mất của ông thì đừng làm gì tổn thương đến ông – để ông có thể “ngậm cười chín suối”.

-Ảnh: Bìa và trang cuối của cuốn “Thông tục Kim Kiều truyện” của Nhật Bản, dòng 3 trái qua ghi rõ năm xuất bản: “Bảo Lịch 宝暦 thứ 13, Quý mùi, Chính nguyệt”. Bảo Lịch năm thứ nhất là 1751, thì Bảo Lịch thứ 13 là 1763, cụ thể là tháng Giêng.” (Tư liệu Đoàn Lê Giang)

*

Nguyễn Du tư liệu quý do Hoàng Kim thu thập đúc kết nhằm góp phần giải mã Nguyễn Du và Truyện Kiều gồm: 1) Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều (bản Phường do Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim hiệu đính); 2) Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du, 3) “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô Gia Văn Phái, 4) Đại Việt thông sử, còn gọi Lê triều thông sử của Lê Quý Đôn; 5) “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim, 6) “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều” 1989 trang của Lê Xuân Lít, 7) “Nguyễn Du” 416 trang của Nguyễn Thế Quang, 8) “Thả một bè lau”, Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán, 471 trang của Nhất Hạnh 9) Hoàng Việt hưng long chí của Ngô Giáp Đậu, người dịch Ngô Đức Thọ, Mai Xuân Hải, Nguyễn Văn Nguyên; 10) Phạm Trọng Chánh đọc sách Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi, cùng với hệ thống các bài nghiên cứu dịch thuật của Phạm Trọng Chánh về Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm; 11) “Đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa Nguyển Du kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du” (Kỷ yếu hội thảo khoa học) NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 2015, 997 trang của Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; 12) Nguyễn Du một niên biểu của Hoàng Kim với các hồ sơ điền dã gồm Linh Nhạc Phật Ý Phước Tường TP Hồ Chí Minh, đền cổ Trung Liệt Hà Nội và tư liệu Bang giao tập (bí mật ngoại giao nhà Tây Sơn); 13) Phát hiện mới nguồn gốc Truyện Kiều “Thử giải mã lại Truyện Kiều” (Lê Nghị luận Truyện Kiều; Phan Lan Hoa phản biện nguồn gốc truyện Kiều, và bài viết “Truyện Kiều có trước hay sau Kim Vân Kiều truyện?” của PGS.TS Đoàn Lê Giang (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) chứng minh ngược lại là Kim Vân Kiều truyện có trước.Thông tin lưu tại Nguyễn Du tư liệu quý CNM365 Chào ngày mới 16 tháng 10 http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-10/..

Cảm ơn nữ sĩ Phan Lan Hoa phản biện nguồn gốc Truyện Kiều với chủ đề chính Đoạn trường Tân thanh sau 200 năm đã được trả lại nguồn gốc và nhà nghiên cứu Lê Nghị với loạt tác phẩm đúc kết tại Lê Nghị luận Truyện Kiều đã tỏ ý nghi ngờ“Kim Vân Kiều truyện” và Truyện Kiều có uẩn khúc lịch sử chưa được giải mã đầy đủ. Cảm ơn PGS. TS Đoàn Lê Giang (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) với tác phẩm Truyện Kiều có trước hay sau Kim Vân Kiều truyện? của .. Đây là những cố gắng mới, phát hiện mới rất quý, cùng với thông tin Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du trăng huyền thoại của TS Hoàng Kim, Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh góp phần sưu tầm, đúc kết minh chứng sự thật sáng tỏ khối thông tin Nguyễn Du tư liệu quý để bảo tồn và phát triển di sản lịch sử văn hóa Việt Nguyễn Du và Truyện Kiều.

xem tiếp:

PHAN LAN HOA PHẢN BIỆN NGUỒN GỐC TRUYỆN KIỀU
Nguồn: FB Phan Lan Hoa
Thứ Ba 13 tháng 10, 2020

Bản Truyện Kiều do Công Thiện Đường in vào mùa Đông năm Mậu Tuất (1898), thời vua Thành Thái (Nguồn: Kiến giải mớ1 về nguồn gốc Truyện Kiều; Hồng Hà; Báo điện tử Đại biểu Nhân dân 03/08/2020)

ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH SAU 200 NĂM ĐÃ ĐƯỢC TRẢ LẠI NGUỒN GỐC.Về tác giả của Kim Vân Kiều truyện, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều giả thuyết. Trong đó, bằng chứng khoa học là văn bản của vua Minh Mạng năm 1830, ra chỉ dụ cho nhóm văn thần Thanh Tâm Tài Tử ở Hàn lâm viện viết Kim Vân Kiều lục (bình giảng Truyện Kiều) bằng chữ Hán. Đó cũng là một trong những lý do trải qua hàng trăm năm sau, nhiều đồn đại cho rằng cuốn sách được xuất phát từ Trung Hoa nên Kim Vân Kiều lục được diễn giải lại bằng văn xuôi tiếng Việt, trở thành cuốn Kim Vân Kiều truyện. Những đồn đoán sai lầm đó của người Việt cũng là nguyên nhân để học giả người Trung Hoa nhận về mình cuốn sách này năm 1983, như đã trình bày ở trên.Các nhà nghiên cứu kết luận, cùng nguồn sử liệu nhà Minh, với các nhân vật Từ Hải – Kiều – Hồ Tôn Hiến, ở Trung Hoa và Việt Nam đi theo 2 hướng khác nhau. Ở Trung Hoa phóng tác thành các tiểu phẩm gồm truyện ngắn, kịch, tuồng độc lập, không tác phẩm nào kế thừa tác phẩm nào. Cũng không có tác phẩm nào mang cùng tên nhân vật và số phận nhân vật có cốt truyện, nội dung giống Đoạn trường Tân Thanh.

Thứ Tư 14 tháng 10, 2020

Gửi các Nhà Kiều học. Cả sách giấy, lẫn sách điện tử, tui có khoảng gần 30 cuốn xung quanh nàng Kiều và chàng Nguyễn Du. Trong đó có nhận định của cụ Văn Hòe như này:- “Đoạn trường tân thanh” là do tác giả Nguyễn Du đặt khi viết xong tác phẩm (tức tên gốc nguyên thủy của Truyện Kiều).- Cụ Phạm Quý Thích đổi tên sang “Kim Vân Kiều tân truyện” khi xuất bản ấn phẩm chữ Nôm theo chỉ dụ của vua Minh Mạng.- Hai cụ Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim gọi là “Truyện Kiều”- Cụ Tản Đà gọi là “Vương Thúy Kiều”Ngoài ra trong các cuốn sách khác:- Cụ Phạm Kim Chi đặt là “Kim túy tình từ”- Cụ Trương Vĩnh Ký bỏ chữ “tân” gọi là “Kim Vân Kiều truyện” theo cụ Phạm Quý Thích- Hai cụ Lê Xuân Thủy, Huyền Mặc Đạo Nhân bớt từ “truyện”, lấy tên là “Kim Vân Kiều”- Cư sĩ Trương Cam Vũ dịch ra thơ Hán lấy tên là “Hán dịch Kim Vân Kiều Nam âm thi tập”Các tác giả đều có trình bày nguyên do đặt tên của mình. Nội dung bên trong các cuốn sách này đều là thơ Kiều và luận giải, chú thích theo ý tác giả; hoặc là khảo luận ngôn ngữ thơ Kiều của Nguyễn Du. Khác chăng từ ngữ trong thơ có thay đổi đôi chút tiếng địa phương (chắc là cho phù hợp với sử dụng của vùng miền), còn thì nguyên bản. Từ đó có thể suy ra tên “Kim Vân Kiều truyện” KHÔNG PHẢI SÁCH TÀU. Đồng thời cũng không phải do người khác sáng tạo từ truyện Kiều, mà bắt đầu do cụ Phạm Quý Thích. Các tên khác do các thi nhân đời sau dịch chữ Nôm ra Quốc ngữ mỗi người một kiểu thôi ạ.Như vậy, ta có thể hiểu, những tác phẩm có lời thoại tựa như tuồng, hát bội, là do chỉ dụ của vua Minh Mạng biến thể “Đoạn trường tân thanh” sang thể ca kịch và các thể khác nhằm mục đích phát triển văn nghệ dân gian sâu rộng trong bá tính? Kính mong mọi người nghiên cứu thêm.

LÊ NGHỊ LUẬN TRUYỆN KIỀU

Nhà nghiên cứu Lê Nghị có một loạt tác phẩm nghiên cứu về Truyện Kiều trong thời gian gần đây rất đáng trân trọng và lưu ý: Luận về Kim Vân Kiều lục (bài 1 FB Li Li Nghệ Thứ Năm 15 tháng 10 , 2020 lúc 19;27) ; Ai soạn Kim Vân Kiều Truyện A953? (bài 3 Kim Vân Kiều Truyện A953 kế thừa tác phẩm nào ở Đại Nam, FB Li Li Nghệ 12 tháng 10 lúc 18:15); Phản biện nhận định của giáo sư Dương Quảng Hàm về nguồn gốc Truyện Kiều ( hình chụp trang báo Tri Tân và bài viết của GS Dương Quảng Hàm; FB Li Li Nghệ 8 tháng 10 lúc 14:19) . Xin chép lại nguyên văn và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc trong hồ sơ chuyên đề NGUYỄN DU TƯ LIỆU QUÝ.

LUẬN VỀ KIM VÂN KIỀU LỤC
Bài 1: Thời gian xuất hiện và yếu tố xác định tác phẩm của người Việt
FB Li Li Nghệ, Thứ Năm 15 tháng 10 , 2020 lúc 19;27

Biên khảo của chúng tôi là dọn một con đường thẳng đi từ ĐTTT đến KVKT của Thanh Tâm Tài Nhân. Ở các bài trước, chúng tôi đã chứng minh xong: Tác giả Kim Vân Kiều truyện là Duy Minh Thị. Ông tên thật là Trần Quang Quang, còn có bút danh khác là Gia Định Thành cư sĩ, sống ở Sài Gòn, hoạt động văn hóa mạnh nhất vào những năm 1870-1883. Việc chứng minh này trong loạt gồm 3 bài: Ai là người viết A953 đã đăng tuần trước.

Nhưng việc phát quang, mở rộng con đường ắt sẽ có người khác và thế hệ sau. Học thuật không phải là độc quyền của riêng ai. Những gì chúng tôi vận dụng tại biên khảo này cũng từ bằng chứng người trước để lại, cho dù người trước đã đi con đường khác mà chúng tôi cho rằng đã lạc hướng.

Sau khi cung cấp sơ đồ cơ bản, và chứng minh xong con đường vạch ra đã tới đích: thơ ĐTTT => Thơ KVK Truyện => tiểu thuyết KVK Lục => KVKT- Duy Minh Thị=> KVKT- Thanh Tâm Tài Tử => KVKT- Thanh Tâm Tài Nhân. Bài này đi sâu vào chi tiết Kim Vân Kiều Lục vì nó là tác phẩm quan trọng, ví như một trạm dừng chân lớn nhất giữa điểm khởi phát ĐTTT đi đến điểm cuối Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Thiễn nghĩ người tìm hiểu về truyện Kiều nhất thiết phải đọc Kim Vân Kiều Lục, mới hiểu sâu hơn về Truyện Kiều, và cuốn Kim Vân Kiều truyện, nên tôi viết loạt bài giới thiệu này cho những ai chưa đọc.

1.Thời gian sách xuất hiện:

-Sách Kim Vân Kiều Lục theo Phạm Tú Châu năm 2015 đã cho rằng in lần đầu năm 1888, hiện còn bản lưu. Tôi e rằng năm 2015 tiến sĩ Phạm Tú Châu không biết thông tin: theo di lục của A.d.Michelle 1884 ghi là KVKL đã in năm1876 tại Hà Nội. Cũng như đa số nhầm lẫn, do không rõ vô tình hay cố ý, tôi cho rằng cố ý, trước tháng 5/2020 người ta đã dịch cuốn sách ông Abel des Michelle giữ tên Kim Vân Kiều Lục thành Kim Vân Kiều Truyện. Cũng như bao thế hệ học sinh có người chưa từng nghe tới Thanh Tâm Tài Tử mà chỉ biết Thanh Tâm Tài Nhân. Chính vì vậy đã đào tạo ra bao thế hệ chỉ biết tới Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, và mặc định tác giả và tác phẩm là của Trung Quốc. Người học và người đoc không hề biết tới các tác phẩm tiền thân của Kim Vân Kiều Truyện -Thanh Tâm Tài Nhân Việt Nam là cuốn Kim Vân Kiều Lục. Đây là một việc làm bẻ cong văn học sử, bẻ lái học thuật của một số được gọi là “ tín đồ Thanh Tâm Tài Nhân Trung Hoa” hiện nay.(1)

Do vậy, khi mở đầu xét lại hồ sơ vụ án đánh tráo bằng chứng về nguồn gốc Đoạn Trường Tân Thanh phải bắt đầu từ 2 cặp từ Tử- Nhân và Lục-Truyện. Cứ đi sâu khai thác 2 cặp từ này từ trong văn bản của Việt nam thì sẽ thông, chứ không cần tìm đâu xa xôi và mơ hồ.

Nhắc lại, giáo sư Dương Quảng Hàm 1941, đã so sánh 3 cuốn: Kim Vân Kiều Lục khuyết danh – cuốn chép tay A953 Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Tử -cuốn in KVKT của Thanh Tâm Tài Nhân. Ông đã kết luận KVK Lục là cuốn tóm tắt thơ Truyện Kiều, mặc dù ông không giải thích vì sao, ngày nay thẩm định chuẩn xác là tác phẩm của Việt Nam. Nói rằng tóm tắt thơ Truyện Kiều tức hàm ý ra đời sau Truyện Kiều Nguyễn Du. Trần Ích Nguyên năm 2003 đánh giá cao tác phẩm cả về mặt văn chương lẫn văn học sử. Nhưng mãi đến 2015 Phạm Tú Châu mới dịch bản này, không thấy ai quan tâm nhận xét vì sao Trần Ích Nguyên đánh giá là quốc bảo.

Như trên đã nói, di lục của Michelle đánh dấu thời điểm sách được in là 1876, khuyết danh, nhưng ta hiểu rằng trước khi in là phải sáng tác, nhưng không rõ sáng tác từ năm nào.

Truy tìm xa hơn, tôi lưu ý nhận xét của Maspero rằng KVK Lục là của Phạm Quý Thích và Thanh Tâm là bút hiệu khác của Hoa Đường Phạm Quý Thích. Ông không nói rõ vì sao. Mới đây một người bạn đưa tôi thông tin từ câu đối của Vũ Thì Mẫn (1795-1866)

Bạc Mệnh trầm nhân giai tác do ư giai sự
Kỳ tài diệu bút Thanh Hiên viễn quá Thanh Tâm.
(Mệnh bạc thân chìm, tác phẩm do từ sự tích
Tài cao diệu bút, Thanh Hiên hơn hẳn Thanh Tâm)

Nếu câu đối này đích thực là của Vũ Thì Mẫn thì có giá trị truy cứu. Hai câu đối đó phản ánh rằng Vũ Thì Mẫn đang so sánh hai tác phẩm của hai tác giả, viết cùng một sự tích nhưng bút danh Thanh Hiên (tức Nguyễn Du) hơn hẳn bút danh Thanh Tâm. Phối hợp với Maspero đã đọc hai chữ Thanh Tâm trên bản Kim Vân Kiều Lục nào đó mà ông cho là bút danh của Phạm Quý Thích, thì Kim Vân Kiều Lục phải có trước 1866, trước khi xuất hiện bút tích Duy Minh Thị 1872 ít nhất 6 năm. Tuy nhiên chúng tôi chưa xác minh được tính chân thực tác giả câu đối này. (2)

Cũng có thể đi xa hơn từ di lục lời đề từ Kim Vân Kiều Án của Nguyễn Văn Thắng (1931- 1932). Trong đó ông nhắc tới thơ Nguyễn Du là “Kim Vân kiều truyện quốc ngữ’. Sau đó ông nói Bắc bản “ thực lục” do nhà Ngũ Vân Lâu in đã bán khắp nơi. Có người dựa vào chữ “thực lục” hiểu rằng cuốn ông nói là Kim Vân Kiều Lục. Nói cách khác thời Minh Mạng đã có Kim Vân Kiều Lục Việt Nam được in ở nhà Ngũ Vân Lâu bên Tàu. Tuy nhiên chúng tôi nghi ngờ tác giả lời đề từ không phải của Nguyễn Văn Thắng mà là của đời sau, viết không chính xác. (3)

Vì vậy phối hợp thông tin đa số nêu trên, cộng với thông tin về Mộng Liên Đường tôi dẫn chứng phần sau, thì KVKL có trước 1825, năm Phạm Quý Thích mất. Tuy nhiên đó là suy luận tổng hợp, không mâu thuẫn chứ chưa phải bằng chứng. Đặc biệt là Nguyễn Văn Thắng văn bản còn đáng ngờ, Vũ Thì Mẫn tôi chưa có điều kiện đọc toàn văn để xét.

Do đó đến nay phải tạm chấp nhận bằng chứng di lục hiện có của Abel des Michelle: KVK Lục có trước 1876 mà không rõ thời điểm sáng tác và không rõ tác giả. Nhưng dù gì đi nữa, về di lục và sách thực chứng Kim Vân Kiều Lục vẫn xuất hiện trước Kim Vân Kiều truyện ít nhất 30 năm, và tác giả là người Việt.

2. Xác định tác phẩm của người Việt:

Trừ ông Abel des Michelle 1884 hiểu lầm KVKL là sách Trung Hoa. Các tác giả Maspero, Dương Quảng Hàm, Phạm Tú Châu, Trần Ích Nguyên ( học giả Đài Loan qua viện Hán Nôm khảo sát 2003) đều thừa nhận là tác phẩm của người Việt. Chỉ khác nhau về nhận định thời điểm. Nhắc lại theo Maspero tác giả là Phạm Quý Thích, tức trước 1825. Dương Quảng Hàm không biết, Phạm Tú Châu và Trần Ích Nguyên sau 1850.

Phần tôi, tôi cho rằng ông Trương Minh Ký không cải chính sự hiểu lầm của ông Michelle là một đáng ngờ về vai trò tiếp tay nhóm Duy Minh Thị ở Sài Gòn. Vì ngay cả tôi, hậu sinh xa lắc, đọc qua vài trang Kim Vân Kiều Lục thì đã thấy Kim Vân Kiều Lục đã trích thơ Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn:

Ví dụ:

Chinh phụ ngâm: (CPN)

Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương
hề thùy tạo nhân

(Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này)
(Đoàn Thị Điểm dịch)

Kim Vân Kiều Lục (KVKL):

Du du bỉ thương thùy tạo nhân
Hồng nhan hà tự cánh đa truân.

-CPN:
Tu du trung hề đối diện
Khoảnh khắc lý hề đăng trình.………
Tương cố bất tương kiến,

-KVKL lặp lại y hệt:
Tu du hề đối diện
Khoảnh khắc hề đăng trình
Tương cố bất tương kiến

– Hoặc CPN:
Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp
Vọng sơn khứ hề thiếp tư lang

-KVKL:
Vân khứ hề lang biệt thiếp
Vân quy hề thiếp tư lang

Có thể nói còn cả chục dẫn chứng nữa, song bấy nhiêu cũng đủ chắc chắc rằng Kim Vân Kiều lục tác giả là người Việt, vận dụng thơ Việt. Vậy mà từ rất lâu người ta đồn đây là cuốn sách của người Hoa, cả ông Abel des Michelle cũng lầm.(Còn tiếp bài 2: đặc điểm của Kim Vân Kiều Lục, tầm ảnh hưởng đến các tác phẩm khá.c

Chú thích:

(1).Tín đồ Thanh Tâm Tài Nhân Trung Hoa: Chỉ những người mặc định bút danh Thanh Tâm Tài Nhân, không có nhân thân, lại biết quốc tịch Trung Hoa và năm sinh tử, lần lượt theo các học giả Trung Hoa. ( 1536 -1707= 131 tuổi)

(2) dẫn theo: Non Nước Hồng Lam, địa chí văn hóa Hà Tĩnh, tập 2, xb 2010)

(3) Sẽ có bài riêng luận về bài giới thiệu Kim Vân Kiều Án sắp đăng sau loạt bài về Kim Vân Kiều Lục.

AI SOẠN KIM VÂN KIỀU TRUYỆN A953?
Lê Nghị
12 tháng 10 lúc 18:15  ·

Bài 3: KIM VÂN KIỀU TRUYỆN A953 ĐÃ KẾ THỪA TÁC PHẨM NÀO Ở ĐẠI NAM

Nhắc lại ở bài 1 chúng tôi đã chỉ ra Duy Minh Thị 1872 là người nhắc tới nội dung A953 đầu tiên. Nếu ép ngay Duy Minh Thị là người khởi thảo chứ không phải là người đọc một cuốn Kim Vân Kiều có trước thì chưa thể vững chắc. Cho nên ở bài 2 chúng tôi đã chỉ ra diễn tiến từ khi Kiều Oánh Mậu và các vị tòa soạn báo Đồng Văn có trong tay ruột của cuốn A953, và sau đó chỉnh sửa dần để bán cho Viễn Đông Bác Cổ. Cũng như sau khi bỏ Nho học thì nó được nhanh chóng dịch ra quốc ngữ để bán cho công chúng.Việc bổ sung bài 2 nhằm chứng minh rằng: một khi tác phẩm nào đó xuất hiện thì nó sẽ được nhiều người biết tới. Ngay cả bài thơ “ con cóc” vô danh, vẫn được nhiều người biết tới. Trong những năm 1902-1905, người trong tòa soạn báo Đồng Văn nhắc tới cuốn Thanh Tâm Tài Nhân Truyện hoặc Thanh Tâm Tài Nhân Lục chính là nội dung chứa trong A953. Nhưng bên ngoài thì người ta chỉ biết đến Kim Vân Kiều Lục đã có từ lâu và phổ biến rộng trong công chúng. Dù vậy,A953 chưa hoặc hoàn thiện xong, luôn có sự nhắc tới của người đương thời, là di lục nhắc tới. Trước Duy Minh Thị không một ai trích, nhắc tới nội dung cuốn A953 nghĩa là nó không tồn tại trước đó. Chỉ có Duy Minh Thị biết nên sách đó do ông viết, chứ không phải do ông đọc.Để củng cố thêm suy luận đó, ta phải xét thêm A953 có chứa nội dung sách nào trước khi nó ra đời và có, khi Duy Minh Thị còn sống không? Tôi khảo sát 2 tác phẩm có trước A953 và đương thời với Duy Minh Thị ở Đại Nam. Đó là 2 cuốn: Kim Vân Kiều Lục và Tuồng Túy Kiều của Ngụy Khắc Đản.1.A953 kế thừa Kim Vân Kiều Lục:Tình tiết Truyện Kiều Mã giám sinh mua Kiều:Cò kè bớt một thêm haiHồi lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm -KVKL: 500 xâu bạc xanh (tự phóng tác )-KVKT: 500 xâu bạc xanh (KVKT chép lại KVKL)-Thúc Sinh chuộc Kiều:Rõ ràng của dẫn tay traoHoàn lương một thiếp thân vào cửa công -KVKL: 500 xâu bạc xanh( tự phóng tác) -KVKT: 500 xâu bạc xanh (chép lại KVK Lục)Kiều viết một bài tuyệt mệnh trước khi trầm mình: sông Tiền Đường:Dưới đèn sẳn bức tiên hoaMột thiên tuyệt bút gọi là để sau KVKL( bản AC521):Thập ngũ niên tiền hữu ướcKim triêu chi đáo Tiền Đường Bách thế quang âm hỏa thướcNhất sinh sự nghiệp hoàn lươngTriều tín thôi nhân khứ dãĐẳng gian khước liễu đoạn trường.(tự phóng tác) -KVKTThập ngũ niên tiền hữu ướcKim triêu phương đáo Tiền ĐườngBách thế quang âm hỏa thướcNhất sinh thân sự hoàn lươngTriều tín thôi nhân khứ dãĐẳng nhàn liễu khước đoạn trường.(chép lại KVK Lục)Đó là những bằng chứng không thể chối cãi rằng A953 có kế thừa nội dung của Kim Vân Kiều Lục. Trước hết là đi theo bố cục như Kim Vân Kiều Lục, bắt chước Kim Vân Kiều lục là chen vào các bài thơ, thay đổi vài chi tiết. Sáng tạo là đưa thêm trên chục nhân vật phụ, miêu tả thêm hành động cho sinh động, giống với một tiểu thuyết chương hồi. Nhưng lời thoại lại lấy chất liệu tại vở tuồng dưới đây.2. A953 kế thừa Tuồng Túy Kiều của Ngụy Khắc Đản (?-1872). Ngụy Khắc Đản là vị quan có tiếng thời Tự Đức. Ông là Phó chánh sứ trong đoàn sứ của Phan Thanh Giản đi Pháp điều đình, ông mất năm 1872, năm Duy Minh Thị in bản Kiều Nôm. Sau năm 1883 mới mất dấu Duy Minh Thị. Triều Nguyễn chuộng diễn tuồng, và xem đó là truyền thông giáo dục tư tưởng cho dân chúng. Chúng tôi dẫn từ bản chuyển nôm của Trương Minh Ký, xuất bản lần đầu 1897 ( Phạm Đan Quế, Truyện Kiều và các nhà nho thế Kỷ 19), đoạn tuồng Hoạn Thư hành hạ Thúy Kiều và Thúc sinh. Lời thoại trong Kịch giống hệt trong Kim Vân Kiều truyện.Tuồng Túy Kiều có trước 1872 ( trích hồi đánh ghen):Hoạn Thư viết:Thưa phu quân:Con hầu đó giỏi giang bao việcMẹ thiếp cho giúp đỡ sớm khuyaÂm nhạc đã lành nghềHồ cầm thêm đủ ngónHựu viết: Ủa này có chi phiền muộnChẳng đặng hân hoanThời:Gần một năm mới được đoàn viênSánh đôi mặt cớ sao sầu thảmThúc sanh viết:Số là: trời xa ngàn dặmTrời cách hai phươngTrông mây thôi phát nhớ huyên đườngNên: tuôn mưa khó ngăn cầm được lụy chớ!Hoạn Thư viết: Phải điều tình lý, hẳn thiệt hiếu thân!KVK Truyện: -Chàng Thúc sinh quay mặt lại hỏi Hoạn Thư: người con gái này từ đâu mới đến?Tiểu thư rằng: Đó là gia gia ở Bắc Kinh mua nó đem về để sang đây hầu thiếp. Con thị tì nó lại đủ tài hoa đã hát được tân thanh lại giỏi ngón Hồ cầm nữa đó!( tiếp một đoạn Thúc sinh nhận ra Thúy Kiều, suy nghĩ bị mắc mưu…xúc động khiến nước mắt tuôn tràn trề)-Tiểu thư thấy thế tra hỏi rằng:Cớ sao tướng công lại quá cảm động như vậy?Sinh rằng: Vì sắp hết tang, nhớ thân mẫu ngày trước, nên chi lệ mới trào ra!Tiểu thư rằng: Quả thật những giọt nước mắt của chàng vì thương thân mẫu nên trào ra, thực cũng đáng khen là bậc hiếu tử vậy.Đây là trích mở đầu một hồi của tuồng, diễn đạt minh họa đoạn Hoạn Thư hành hạ Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh, từ lúc Thúc Sinh về nhà đến lúc lén gặp Kiều tại am và xúi nàng đi trốn. Đem so với A953, lời thoại toàn bộ của kịch hệt trong Kim Vân Kiều truyện, cũng đủ chứng minh Duy Minh Thị đã lấy chất liệu lời thoại Tuồng Túy Kiều đưa vào A953. Ngụy Khắc Đản mất 1872, nghĩa là vở kịch này công diễn trước đó nhiều năm. Lúc này Chiêm Vân Thị khởi thảo cuốn A953 ít nhất cũng tới đoạn Thúc Thủ gặp Kiều, ông đã sửa câu Kiều trong bản 1872 đã nói ở bài 1.Như vậy có thể nói, Truyện Kiều, Kim Vân Kiều Lục và Tuồng Thúy Kiều là chất liệu chủ yếu phóng tác ra A953. Giá như A953 đừng viết những cảnh dâm ô như Kim Bình Mai, và đoạn Kiều trả thù tàn nhẫn, trên 50 bài thơ tuy không phải là tác phẩm hay, nhưng cũng không kém, cũng đừng vội vàng ráp bài Tống Ngọc khóc Khuất nguyên thay cho Kim Trọng khóc Thúy Kiều, mà tự sáng tác thay Kim Trọng, thì tác phẩm cũng có nét đẹp và sáng tạo riêng.Ngoài ra, vì văn cảnh lấy từ truyện Kiều là tác phẩm gốc, nên lời văn rất nhiều chỗ giống như lấy lời thơ Kiều chuyển ngữ. Lời thoại lại lấy từ tuồng nên câu văn quá nhiều chỗ biền ngẫu như lời vở tuồng. Bạn đọc kịch Ngụy Khắc Đản và cuốn dịch của Nguyễn Duy Ngung thì thấy rõ. So với bản Hán văn, không phải Nguyễn Duy Ngung dịch dối, mà các bản dịch của Tô Nam và Nguyễn Khắc Hanh chuyển theo lối hành văn hiện đại. Lý Trí Trung dựa vào cuốn Tô Nam ở miền Nam, cuốn Hoàng Dật Cầu 1957, trau chuốt lại dĩ nhiên là cho hợp với ngôn ngữ người Hoa hiện đại, nên hiện nay giới trẻ say mê, trong đó có một phần nhờ tả sex.Một nhược khác nữa là A953 trong kết cấu từng hồi lại có đoạn vừa dẫn chuyện trước, cuối hồi lại bình, thậm chí tự khen văn chương do chính mình viết. Kết cấu rất sát với ý chỉ đạo của Minh Mạng về một cuốn bình giảng, thậm chí có đoạn lập lại ý Minh Mạng là hình thức không cần thiết. Mở rộng cốt truyện Kim Vân Kiều Lục thêm hành vi và lời thoại từ kịch là đủ và tự nhiên. Tổng thể tác phẩm biên soạn có vẻ mang tính giải trí, thương mại hơn là một tác phẩm văn chương. So với Kim Vân Kiều Lục do những lỗi kể trên, kém về nhất quán thể loại tiểu thuyết, tuy dài hơn nhưng ít cảm xúc hơn. Đáng tiếc! Tuy nhiên, bản phóng tác A953 có kém và vài chỗ bệnh hoạn, nó vẫn đáp ứng sở thích của giới bình dân, nên tái bản liên tục trong 5 năm liền khi chuyển quốc ngữ. Như vậy chúng tôi chứng đã chứng minh Tác giả Kim Vân Kiều Truyện là người Việt Nam Duy Minh Thị từ trong tác phẩm trung gian là cuốn Kiều 1872. Duy Minh Thị là người có nhân thân hoạt động văn học, đồng thời gốc Minh hương và giỏi Hán học. Cùng hoạt động đương thời với Trương Minh Ký, Abel des Michelle. Tuy không biết rõ ngày ông mất, nhưng sau 1883 không còn thấy ông ra sách. Người thế hệ tiếp theo có danh tính, nhân thân, có di lục nhắc tới nội dung cuốn A953. Sự xuất hiện cuốn sách là có người nhắc tới ngay. Khi bỏ thi Nho học thì có người chuyển quốc ngữ ngay. So với các tác phẩm có trước A953 thì thấy nó kế thừa tác phẩm trước nó: trùng tên nhân vật, số phận nhân vật. Thanh Tâm Tài Tử và Thanh Tâm Tài Nhân là bút hiệu người đời sau sao chép gắn vào, vì đạo thư để bán nên không dám đưa tên thật.Tổng kết: Diễn biến từ Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du đến Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân theo từng bước như sau:A. Đoạn Trường Tân Thanh:Được sáng tác từ mượn nhân vật và cảm hứng của một đoạn sử nhà Minh ( Từ Hải- Mã Kiều- Hồ Tôn Hiến) và phong tình lục gồm vở kịch Hổ phách Trủy ( Thúc Sinh, Tú bà) và Thu Hổ Khâu ( mượn chuyện Chân Nương đổi thành Đạm Tiên). Nguyễn Du đã trình bày nguồn gốc: “Cảo thơm lần giở trước đèn. Phong tình có lục còn truyền sử xanh.”.B. Diễn biến:1.Đoạn Trường Tân Thanh Nguyễn Du. =>2.Thơ Kim Vân Kiều Truyện Nguyễn Du => 3. Kim Vân Kiều Lục khuyết danh => 4. Thanh Tâm Tài Nhân truyện (Duy Minh Thị ẩn danh) => 5. Kim Vân Kiều Truyện Thanh Tâm Tài Tử *( giả danh) => 6. Kim Vân Kiều Truyện Thanh Tâm Tài Nhân ( giả danh) **.Đã có bằng chứng trình tự thời gian diễn biến, chứng minh tác giả Việt Nam viết, xác định được thời điểm khởi thảo, tên tác giả, xác định được nội dung kế thừa các tác phẩm khác ở Việt Nam thì khỏi tìm ở nước khác mất công! Đó cũng là lý do đừng vội nói chúng tôi cuồng ngôn, làm loạn học thuật. Chúng tôi đang chờ sự tán đồng, góp ý cũng như lắng nghe những bằng chứng phản biện khoa học. Nếu không ai phản biện vững chắc, thì kiến nghị đầu tiên là rút chú thích : “ Viết Truyện Kiều Nguyễn Du có dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ( Trung quốc)” ra khỏi sách giáo khoa ngữ văn lớp 9, cũng như các bài tham khảo, bài tập ngữ văn từ lớp 9-11 có trích đoạn Kim Vân Kiều truyện. Nếu có trích thì trích Kim Vân Kiều Lục. Kết thúc 3 bài ngắn: Ai là người viết Kim Vân Kiều Truyện. Nhân 200 năm ngày giỗ cụ Tố Như, ta cùng ôn lại câu đối của ai đó viếng tang, khi Minh Mạng viếng nhà ông thấy:Nhứt đợi tài ba, vi sứ vi khanh, sinh bất thiểmBách niên sự nghiệp, tại gia tại quốc, tử dư vinhPhóng dịch:Một thuở tài ba, vai sứ vai khanh, sanh chẳng thẹnTrăm năm sự nghiệp, trọn nhà trọn nước, tử thừa vinh.Lê Nghị 12-10-20.*******Chú thích:-1: Nhan ĐTTT xuất hiện từ sau 1814- 1821 (1821 Phạm Quý Thích giảng đầu tiên bản Phường tại Hà Nội, phản ánh trong bài thơ của Châu Doãn Trí, học trò Phạm Quý Thích: Một khúc Tân Thanh truyền nhạc phủ. Đến nay ca xướng khắp Tràng An)-Từ 1=> 2: việc chuyển nhan vào thời Minh Mạng, chưa rõ năm cụ thể , chậm nhất là 1830- Nguyễn văn Thắng Kim Vân Kiều Án. (chúng tôi đoán sớm nhất ngay sau tháng 9/1821, Minh Mạng gặp Phạm Quý Thích hỏi về cổ thư tại Hà Nội ).-Từ 2=> 3: di lục 1884 của Abel des Michel nói in tại Hà Nội 1876. Khuyết danh, nên không định rõ năm. 3 ứng viên sáng giá là: Nguyễn Tứ, Phạm Quý Thích, Mộng Liên Đường. Cá nhân tôi thiên về Phạm Quý Thích, các nhà nghiên cứu tìm tòi thêm. – Từ 3=> 4: 1872-1905 Duy Minh Thị ( phóng tác từ Truyện Kiều + Kim Vân Kiều Lục + Tuồng Túy Kiều + kiến thức khác)-Từ 4=> 5: 1906-1910: xuất hiện tại Viễn Đông Bác Cổ.* Cụm từ Thanh Tâm Tài Tử xuất hiện năm 1830. Ông Maspero nói: Kim Vân Kiều Lục cũng lấy bút hiệu Thanh Tâm Tài Tử, Thanh Tâm là hiệu Phạm Quý Thích, nhưng chưa thấy chứng cứ, ghi lại mong học giả truy tìm.- Từ 5 => 6:1924: Ông Lê Thước nhắc tới đầu tiên năm 1924.**Thanh Tâm Tài Nhân: học giả Đào Duy Anh và Giáo sư Dương Quảng Hàm tự cho là tác giả Trung Hoa năm 1943.

PHẢN BIỆN NHẬN ĐỊNH NGUỒN GỐC TRUYỆN KIỀU
CỦA GIÁO SƯ DƯƠNG QUẢNG HÀM

Lê Nghị Li Li Nghệ 8 tháng 10 lúc 14:19  Theo đề nghị của một số bạn đọc ,Xin công bố tư liệu khảo chứng của gs Dương Quảng Hàm. Bài tuy dài nhưng nếu bạn đọc chịu khó đọc kỹ, hoặc lưu khi rãnh đọc sẽ hiểu rõ ngọn nguồn.TRÍCH: Từ Truyện Kiều đến Kim Vân Kiều truyện

I.Thanh Tâm Tài Tử và Thanh Tâm Tài Nhân.

Các nhà Kiều học Việt Nam không phải tự dưng mặc định cuốn sách Kim Vân Kiều Truyện là của một bút danh Thanh Tâm Tài Nhân, người Hoa. Sự mặc định này có nguồn gốc chính thức từ nhận định của giáo sư Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu ấn hành năm 1943. Từ đó đến nay không ai phản biện quan điểm cụ Dương, ngược lại chỉ tìm cách hỗ trợ thêm. Những tên tuổi lớn có thể nói đến: Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn. Còn học giả đàn em và học trò như Nguyễn Thạch Giang, Trần Nghĩa, Ngô Đức Thọ….thì vô số.

Trong bài viết trên báo Tri Tân số 4 tháng 6-1941, cụ Dương đã so sánh 2 cuốn Kim Vân Kiều truyện. Một cuốn chép tay bút danh Thanh Tâm Tài Tử phát hiện trước, để tại Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội và cuốn in có bút danh Thanh Tâm Tài Nhân phát hiện sau. Cả hai cuốn nói trên, phát hiện đầu tiên ở Việt Nam cũng là đầu tiên trên thế giới. Theo Cụ Dương: cuốn chép tay chép chữ ‘ nhân’ bị nhầm thành ‘tử’. Bản in giấy sản xuất ở Tàu, kèm với Thánh Thán và Hoa Đường là một nhà phê bình người Hoa nổi tiếng. Vì vậy kết luận: Kim Vân Kiều truyện là tiểu thuyết người Hoa, Thanh Tâm Tài Nhân là tác giả, Kim Thánh Thán bình luận. Nguyễn Du dựa vào cốt truyện này dịch sang thơ nôm: Truyện Kiều. Nội dung này được đưa vào cuốn Việt Nam Văn Học sử yếu năm 1943, cuốn sách được xem là nền tảng sách giáo khoa cổ văn tại miền Nam sau 1954.

Để khách quan chúng tôi xem như một phiên tòa xem xét quyền sở hữu trí tuệ. Lý do để chấp nhận thụ lý hồ sơ là:-Cả 2 bản chép tay và bản in đều không ghi niên đại, nên tự chúng không thể chứng minh cuốn nào có trước.-Trước năm 1919, Việt Nam dùng chữ Hán, nên sách chữ Hán trước đó tại Việt Nam không nhất thiết là của người Hoa.-Trước năm 1919 nhiều sách Việt nam in tại Tàu, nên không thể nói giấy in và nhà in của Tàu phải là sách Tàu.Để giải quyết tranh chấp quyền tác giả của hai nước, trước hết phải xem hai bút danh này có phải là một không? Hiện nay không có bằng chứng tại Trung Hoa có bút danh Thanh Tâm Tài Tử. Tại Việt nam thì có cả 2 bút danh trước năm 1898. Cũng không có cơ sở nào để khẳng định 2 bút danh là một.Như vậy trước hết là xét tại Việt Nam rồi mới đến Trung Hoa về 2 bút danh này.Việc xem xét dựa vào bằng chứng chứ không có việc mặc nhiên thừa nhận.

1.Bản văn.

-Cuốn Kim Vân Kiều Truyện bản chép tay thấy công khai đầu tiên trước 1910 ( Maspero thấy tại Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội) gồm 4 quyển ghi ở bìa chung: Thanh Tâm Tài Tử. Trong đầu mỗi quyển đều ghi như như nhau: Quán Hoa đường bình luận, Thánh Thán ngoại thư. Thanh Tâm Tài Tử biên thứ. Cuốn này được lưu tại thư viện văn học Việt Nam ký hiệu A953, còn 2 cuốn như vậy lưu tại Thư Viện quốc gia Anh và Đại học Yale ở Mỹ. Viễn Đông Bác Cổ chuyển ra Hà Nội năm 1902, cuốn sách có mặt từ năm nào không rõ, nhưng trong một bài viết năm 1914, Maspero đã nhắc tới (dẫn theo Durand, trong tập Kỷ yếu 150 năm ngày sinh Nguyễn Du. Lê Thước năm 1924 cũng đã nhắc tới cuốn này có ở VĐBC khi ông so sánh với 1 quyển in ông sưu tầm.)

-Cuốn Kim Vân Kiều Truyện bản in Lê Thước phát hiện năm 1924 chỉ một quyển, Đào Duy Anh nói thêm là nhà Hoài Thanh cũng có một quyển, cả 2 không thấy nói rõ là quyển thứ mấy. Thấy đủ 4 quyển in công khai là bản Hoàng Xuân Hãn, sưu tập từ vài người, do cụ Dương Quảng Hàm mượn khảo sát năm 1941. Quyển 1 mất 21 trang đầu nên không kể. Quyển 4 mất 21 trang cuối nhưng phần đầu còn do đó xét được. Ba quyển 2,3,4 trang đầu ghi: Thanh Tâm Tài Nhân Biên Thứ. Tuy nhiên lại ghi khác nhau về hình thức đăng ký giữa 3 quyển, cụ thể:

Quyển 2 ghi: Quán Hoa Đường bình luận Kim Vân Kiều truyện- Thánh Hâm (Thánh Hâm chứ không phải Thánh Thán ngoại thư). Quyển 3 ghi: Quán Hoa Đường bình luận Kim vân Kiều truyện – Thánh Thán ngoại thư.( giống bản chép tay A953) Quyển 4 lại ghi: Ngũ Vân lâu bình luận Kim Vân Kiều truyện ( Ngũ Vân Lâu chứ không phải Quán Hoa Đường) – Thánh Thán ngoại thư.

Giáo sư Dương Quảng Hàm mô tả đầy đủ và trung thực, nhưng ông đã suy luận một chiều. Cũng như một bức tranh người nhìn ra bà phù thủy người khác lại ra nàng công chúa vậy.Giáo sư cũng đã nhận xét: Bản in rất nhiều lỗi. Nhưng ông lại bỏ qua chuyện nhiều lỗi in khi nhận định, chỉ chú trọng từ ngữ không theo quy ước kỵ húy thời Nguyễn để kết luận bản in có trước thời Nguyễn và là sách Tàu. Sao giáo sư không nghĩ nếu sách người Tàu viết chữ Tàu mà thợ in Tàu lại khắc sai nhiều chữ? Cuốn A953 viết kỵ húy nhà Nguyễn thì rõ ràng viết thời nhà Nguyễn nên không sai. Còn người cố ý sửa chữ cho khỏi kỵ húy nước Nam, thợ in Tàu nhìn không hiểu nên mới khắc sai.

Dễ thấy rằng bản in các quyển không được in cùng lúc. Việc đăng ký hình thức bản quyền tùy tiện, chúng đã được sửa chửa từ bản chép tay để đem in, và mỗi cuốn là một người khác biên soạn sửa chửa, do đó nội dung đăng ký bản quyền chụp giựt, mỗi quyển in một khác. Như vậy cuốn viết tay A953 là bản thảo gốc không in, được biên tập bởi 1 người. Trong khi đó, các quyển của Hoàng Xuân Hãn sưu tầm do nhiều người khác sao lại cuốn A953, sửa một số từ đem in, khiến thợ người Tàu khắc sai rất nhiều từ ngữ.

Có thể đặt vấn đề ngược lại: 4 quyển in khác nhau có trước bản chép tay không? Đặt vấn đề thì được, nhưng không có gì chứng minh có trước. Trong khi bản A953 phát hiện trước, tên tác giả lại có di lục 1830 chuyên bàn về nội dung, danh chính ngôn thuận phần thắng đã thuộc về A953. Đó là những bằng chứng trực tiếp, không bị mâu thuẫn. Trong một phiên tòa bên nào có bằng chứng trực tiếp thì thắng, bên kia dù có biện luận bởi ngàn bằng chứng gián tiếp cũng vô ích. Nói cách khác có oan cũng đành chịu, huống chi là không bị oan. Cho nên sách giáo khoa là đại diện cho kiến thức xã hội chấp nhận, phải như một công bố quyết định của tòa, không được nói trái lại. Kêu oan thì có quyền, quyền đó xem như nằm trong biên khảo cá nhân để người khác tham khảo thêm.

Phụ vào bằng 2 chứng trực tiếp, bên thắng kiện có thể lý giải thêm: một người sưu tập được 4 quyển in khác nhau đã khó, lại thêm mỗi quyển lại mất nhiều trang. Như bản của Hoàng Xuân Hãn sưu tập từ 1936-1941 quyển 1 mất 21 trang đầu, quyển 4 không biết bao nhiêu tờ, chỉ còn 21 tờ đầu, vậy thì làm sao chép lại đủ câu truyện như cuốn A953? Trong khi một người sao lại từ một bản thảo nguyên vẹn A953 dễ dàng hơn, đem in từng quyển mới đủ đầu đuôi câu chuyện, thời gian sau có quyển bị xé mất các trang là chuyện bình thường.

2. Nhân thân 2 bút danh và di lục:

a. Thanh Tâm Tài Tử và Thanh Tâm Tài Nhân ở Việt Nam.

-1830 Minh Mạng có văn bản còn lưu: Thanh Tâm Tài Tử cổ kim minh lương đề tập biên: Theo nội dung văn bản, Thanh Tâm Tài Tử gồm các quan Hàn Lâm và các nhà nho tài tử. Minh mạng xem như nhóm tao đàn ngày nay. Tao đàn phải gồm nhiều người, đối với Minh Mạng là một nhóm bình giảng Truyện Kiều, gần với dạng “ Kiều học” ngày nay. Nội dung chỉ đạo của văn bản này được thể hiện trong KVKT của Thanh Tâm Tài Tử. Các bài thơ, phú về Kiều của Phạm Quý Thích, Minh Mạng, Hà Tôn Quyền, Tự Đức, Nguyễn Khuyến… đều được xếp chung vào tập này. Như vậy bút danh Thanh Tâm Tài Tử được nhiều người biết rất lâu, nên không có chuyện do chép lại sách mà nhầm chữ nhân thành tử như giáo sư Dương đoán.

– Cuốn tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện được dịch sang quốc ngữ đầu tiên bởi 2 tác giả Nguyễn Duy Ngung và Nguyễn Đỗ Mục, lại có thêm ông chủ nhà in Tân dân hiệu đính, không nói rõ dịch từ cuốn nào, cũng ghi rõ bút danh Thanh Tâm Tài Tử. Vậy bút danh này được nhiều người trước 1924 cùng biết tới trước.

Ở đây xin nói thêm rằng:-Cụm từ “nhà nho tài tử “ xuất hiện phổ biến triều Nguyễn. Trước đó ít nhắc tới cụm từ này. Cao Bá Quát thời Tự Đức có Tài Tử Đa Cùng Phú. Nam bộ có “ đờn ca tài tử “, ngày nay còn sử dụng. Tài tử là những người ham vui, phóng khoáng, yêu văn nghệ. Nhiều bài viết thời Nguyễn kể cả các học giả Tây Phương thường nhắc tới cụm từ nhà nho tài tử.

Cần nhắc thêm rằng các nhà Trung Hoa học của Pháp từ 1914 đến 1930 như Maspero, Coerdier, Durand chỉ nhắc tới bút danh Thanh Tâm Tài Tử. Năm 1941 gs Dương Quảng Hàm đã tận mắt so sánh bản in với bản A953, Thanh Tâm Tài Tử ( đã nói trên) kèm cuốn in Kim Vân Kiều Lục chữ Hán khuyết danh. Giáo Sư kết luận cuốn Kim Vân Kiều Lục khuyết danh là của Việt Nam tóm tắt truyện Kiều, tuy không nói rõ vì sao. Nhưng ngày nay thẩm tra là có căn cứ vững chắc sẽ trình bày sau. Nhưng cụ cho Thánh Thán là Kim Thánh Thán; Thanh Tâm Tài Nhân là người Hoa, Thanh Tâm Tài Tử và Thanh Tâm Tài Nhân là một, chữ Tử 子 là do chép nhầm chữ nhân人là một loạt suy diễn và gán ghép không bằng chứng.

-Bút danh Thanh Tâm Tài Nhân tại Việt Nam di lục sớm nhất nhắc tới là Đào Nguyên Phổ 1898. Sau đó là Kiều Oánh Mậu, Bùi Khánh Diễn 1902 cùng gọi là: sách Thanh Tâm Tài Nhân ( nhan đề chứ không phải bút danh). Rất mơ hồ.

2. Thanh Tâm Tài Nhân Tại Trung Hoa:

-Không có tác phẩm, hoặc di lục nào ghi bút danh Thanh Tâm Tài Tử tại Trung Hoa.

-Cổ thực tự nhận bút danh Thanh Tâm Tài Nhân về Trung Hoa năm 1926 thời hiện đại, sau khi cuốn sách đã dịch ra tại Việt Nam. Trước đó không có di lục nào ghi nhận tác giả và tác phẩm tại Trung Hoa. Học giả Trung Hoa đến nay hoàn toàn không tìm ra nhân thân tác giả đã đành, cũng không thấy ai nhắc tới, nhưng lại biết năm sinh- tử. Tự đặt năm sinh tử (1636-1707) và quốc tịch Trung Hoa là nhận bừa. Hơn nữa bút danh Thanh Tâm Tài Nhân này lần lượt gán cho nhiều tác giả thời Minh đến Thanh (1521-1707): Từ Vị, Kim Thánh Thán, Trương Chiêu, Trương Quân, Thiên tàng chủ nhân, Từ Chấn,Tề Kế Xương đều không thành. Nếu TTTN là có thật thì các học giả Trung Hoa không khó gì để tìm ra, thống nhất ngay từ đầu.Trong khi tại Việt Nam xác định Thanh Tâm Tài Tử là bút danh thực có từ thời Minh Mạng1830. Bút danh Thanh Tâm Tài Nhân xuất hiện 68 năm sau đó là bút danh ăn theo. Cho nên in vào sách giáo khoa Thanh Tâm Tài Nhân người Hoa, 1 là tác giả Kim Vân Kiều truyện đồng thời là nguồn gốc Truyện Kiều là việc làm tùy tiện.

Như vậy xét rằng:

Về bằng chứng trực tiếp:

Tại Việt nam bút danh Thanh Tâm Tài Tử xuất hiện trước bút danh Thanh Tâm Tài Nhân 68 năm.Thanh Tâm Tài Tử có di lục liên quan đến nội dung cuốn sách, có nhiều người làm chứng: Minh Mạng viết và các Hàn Lâm thừa chỉ ghi chép, có văn bản chứng minh. Do đó không thể là bút danh bị chép nhầm. Ngược lại Thanh Tâm Tài Nhân là bút danh chỉ nghe Đào Nguyên Phổ nói 68 năm sau khi bút danh Thanh Tâm Tài Tử được xác nhận. Sách có in tên Thanh Tâm Tài Nhân nghe Lê Thước nói 96 năm sau bút danh Thanh Tâm Tài Tử được ghi nhận.

Phần sách thực chứng, cuốn in thấy được sau cuốn viết tay A953 ít nhất 27 năm, đủ thời gian sao chép lại, biên tập cuốn viết tay đem in. Bên cho tác giả Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân không chứng minh được bút danh này có trước Thanh tâm Tài Tử, không chứng minh được sách thực chứng có trước, do đó phải thua kiện như đã nói trên.

Tại Trung Hoa ghi nhận tác giả và tác phẩm năm 1926 mà không có di lục xác định nhân thân tác giả và tác phẩm trước đó, đến nay vẫn không tìm ra di lục.

Nhận định của cụ Dương là lập thuyết cảm tính chứ không phải là kết luận dựa trên bằng chứng. Thứ nhất, cụ không nhắc tới văn bản Minh Mạng đã ghi TT Tài Tử từ 1830. Nói cách khác nhân thân, hoàn cảnh của người chép tên Thanh Tâm Tài Tử được biết, văn bản còn lưu. Thứ hai: giữa bản chép tay và bản in không thể quả quyết bản in có trước. Thứ ba: chữ 子 tử và 人 nhân âm đọc và nét khác nhau. Thứ tư: từ bìa đến đầu mỗi trang A953 đều nhất quán ghi Tử. Vả lại có thể nhầm một từ trong trang văn bản, không thể nhầm tên tác giả ở bìa và mỗi đầu trang 4 quyển được. Sự khác nhau giữa tử và nhân là cố ý. Trước khi in phải có bản viết tay. Người đem in sửa lại bản thảo trước khi in chứ không hề in nhầm. Bản in cải tên tác giả và một số câu cú, từ ngữ trong văn bản một cách vội vàng, dẫn tới thợ khắc chữ để in bị lỗi nhiều chỗ trong sách. Kết luận: bản in là bản đạo thư, nhằm mục đích thương mại hoặc mục đích khác.

II. Phần nói thêm.

3. Tại Nhật:

Không nói đến việc học giả Việt Nam suy diễn mà xem như chân lý bao nhiêu năm: Thanh Tâm Tài Nhân là Từ Vị ( theo giả thuyết của Lý Văn Hùng, một ký giả người Hoa Chợ Lớn), Kim Thánh Thán là người phê bình từ cụ Dương đến Hoàng Xuân Hãn bị chính người Hoa và các học giả Tây phương bác bỏ. Hiện nay, điểm duy nhất trường phái cho Thanh Tâm Tài Nhân người Hoa, Kim Vân Kiều truyện có trước truyện Kiều chỉ còn bám víu vào bằng chứng ở nước nước thứ 3 là Nhật Bản. Vì vậy chúng tôi xem xét kỹ.

Từ năm 1980 đến nay học giả Tàu Đổng Văn Thành viện dẫn: Bách tải thư mục tại Nhât năm 1754 có ghi: Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Năm 1763 dịch ra cuốn Tú Tượng Thông Tục Kim Kiều Truyện ( truyện tranh) không được quan tâm, bản gốc chữ Hán nay đã thất lạc. Cuốn dịch này được phóng tác thành Phong tục Kim Ngư Nữ năm 1829, bởi dịch giả nổi tiếng thời đó: Bakin nhưng đến nay cũng không mấy ai biết.

Trước hết phải khẳng định đây là một thông tin lập thuyết từ suy diễn gán ghép chứ chưa phải bằng chứng. Thông tin từ Đổng Văn Thành tung ra từ năm 1980 lại càng đáng nghi ngờ. Đoàn Lê Giang, Trần Ích Nguyên cũng dẫn theo Đổng Văn Thành mà thôi.

Thứ nhất, đến khi người viết bài này, chưa ai trình ra được cuốn Bách tải thư mục, chỉ nghe theo Đổng Văn Thành giải thích rằng đó là cuốn kiểm kê hàng hóa của hàng trăm chuyến tàu nhập vào Nhật Bản. Cần hiểu thêm, những chuyến hàng ở nước ngoài nhập vào Nhật có món hàng là bí mật quốc gia, nó thể cướp hoặc đánh cắp của nước khác, không dễ gì người ngoài được xem.

Thứ hai, thông tin cuốn Hán văn nhập đã bị mất, chỉ còn bản dịch mâu thuẫn với sự thật. Thực tế thì tại Nhật vẫn có 2 bản in Hán Văn, một bản vì mất đầu đuôi nên không có niên đại. Nhưng một bản có quyển cuối có niên đại, in tại nhà in Văn Uyên Nhật năm 1938.( Benoit, Diễn biến câu truyện Vương Thúy Kiều, từ sự kiện lịch sử Trung Hoa đến kiệt tác văn chương Việt Nam, trang 319)

Không một lời giới thiệu vì sao in một bản chữ Hán vào thời điểm người Nhật không còn dùng chữ Hán. Cho thấy đây là dấu tích người Hoa hoặc người Việt thuê in lại cuốn ở Việt Nam tại Nhật, có thể làm mất đầu đuôi để hợp thức hóa cổ vật. Tám quyển của 2 bản tại Nhật đều mất trang đầu và nhiều trang khác. Rủi thay lại còn một quyển 4 ở Nhật có năm in 1938.

Cuốn Kim Ngư Nữ ( truyện con cá vàng) lại là truyện độc lập. Chữ Kim không dính líu gì tới tên nhân vật Kim Trọng mà nhằm chỉ màu vàng, ngư nữ: con cá cái thì chẳng liên quan gì tới Thúy Kiều. Bối cảnh lịch sử tại Nhật trong truyện trước đời Minh 500 năm, nhân vật và nội dung không trùng hợp. Chỉ là sự áp đặt mơ hồ. ( Đoàn Lê Giang và Nguyễn Đỗ An Nhiên, kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du trang 807-822)

Trước đó, Tôn Khải Đệ 1931 trong bài viết “ Đông Kinh Nhật Bản sở kiến tiểu thuyết thư mục ” có nhắc tới một bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân tại Nhật, ông mô tả mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 20 chữ. Thực tế không có cuốn nào như thế. Cuốn lưu tại Nhật in năm 1938 mỗi trang 10 dòng, mỗi dòng 25 chữ, hệt bản của Lê Thước thấy năm 1924. ( Charles Benoit, Diễn biến câu truyện Vương thúy Kiều….trang 318). Rõ ràng năm 1931 Tôn Khải Đệ chưa hề tận mắt thấy cuốn Kim Vân Kiều truyện tại thư viện Hoàng gia, bịa chuyện đã đếm. Đó là chưa kể, Hoa coi Nhật là kẻ thù vì tô giới Thượng Hải. Năm 1931 Nhật chiếm Mãn Châu của Trung Hoa, không dễ gì một người Hoa vào được thư viện hoàng gia Nhật nghiên cứu.

Cũng trong bài viết này ông có nói sách chữ Hán đầu tiên dịch sang tiếng Nhật là cuốn Song Kỳ Mộng. (sách Tôn Khải Đệ đã dẫn, Trung Quốc thông sử, trang 135) Ông đã xếp cuốn Song Kỳ Mộng cho Từ Vị, nghĩa là ông không đồng nhất Song Kỳ Mộng với cuốn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là một. Vì Kim Vân Kiều truyện theo ông đã đọc và đếm từng trang tại Nhật. (mặc dù sách ông đếm không thấy ở đâu!? ).

Tề Như Sơn năm 1937 soạn Tiểu thuyết Tam Thập Bộ, ông đã đưa 33 tiểu thuyết lấy tên là Tiểu thuyết Câu Trần, trong đó có cuốn Song Kỳ Mộng chép tay lại từ nhà in Đàm Tích Hiên nên ông cho xuất bản thời Minh. Ông không hề nói cuốn đó là Kim Vân Kiều truyện. ( Trần Ích Nguyên, Nghiên cứu câu truyện Vương Thúy Kiều, trang 256).

Trần Ích Nguyên, cũng như Đổng Văn Thành cho rằng Song Kỳ Mộng là bản giản của Kim Vân Kiều truyện. Theo Trần Ích Nguyên: Tề Như Sơn không chú ý những “tình tiết sóng gió, quanh co rất nhiều” của nhân vật trong Song Kỳ Mộng chính là cuộc đời Vương Thúy Kiều. Theo cách nói đó thì bản Song Kỳ Mộng không hề giống như cuốn Kim Vân Kiều truyện rồi! Tức là chẳng những không trùng nhan đề, không trùng tên nhân vật, mà còn không trùng hoàn toàn cốt truyện. Cũng là một kiểu có chút tình tiết giống nhau đem gán ghép. Cũng như ai đó muốn gán thì nói chị Dậu trong Tắt Đèn của Ngô Tất Tố là phóng tác từ hình ảnh nàng Kiều! Cuối cùng thì Trần Ích Nguyên cho Tôn Khải Đệ 1931 và Tề Như Sơn 1937 là 2 người đầu tiên may mắn nhìn thấy Song Kỳ Mộng mà cả hai không biết nó là Kim Vân Kiều truyện!? Cả hai không hề biết nó đã đổi tên thành Kim Vân Kiều vào nửa cuối đời Thanh? Xác quyết của Trần Ích Ngyên rất kỳ quặc, vô căn cứ. Chẳng có di lục nào bảo cuối đời Thanh đổi tên cuốn Song Kỳ Mộng thành Kim Vân Kiều truyện cả.

Benoit thừa nhận cuốn Song Kỳ Mộng khuyết danh là cuốn sách chữ Hán đầu tiên dịch ra tiếng Nhật. Cuốn này còn một bản ở thư viện của Havard Yenching, khuyết danh. Đồng thời cũng so bản chép tay từ bản in nhà Đàm Tích Hiên mà Trần Ích Nguyên nói. Xem kỹ nội dung với cuốn Tiểu Thuyết Câu Trần, Benoit “chắc chắn rằng” Song Kỳ Mộng là lược bản toàn tập Tiểu Thuyết Câu Trần, không ăn nhập gì với nhân vật và cốt truyện của Kim Vân Kiều Truyện cả.

Vài dẫn chứng đơn giản nhất, cũng là quan trọng nhất để thấy thông tin Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Nhân nhập vào Nhật năm 1756 là chưa có bằng chứng và mâu thuẫn với sự thật. Một sự cố ngụy tạo và ngụy biện của Đổng Văn Thành, cũng như từng gán ghép vô tội vạ của hàng trăm tiểu phẩm cho rằng trích ra từ Kim Vân Kiều truyện, thậm chí nhân vật Hồng Hy Phượng trong Hồng Lâu Mộng là ảnh hưởng Hoạn Thư trong Kim Vân Kiều truyện! Xâm lược lãnh thổ, lãnh hải Tàu còn bịa ra bản đồ cổ, sách cổ được, nói chi đến việc xâm lược văn hóa.

( còn tiếp: Kim Vân Kiều Lục là sách gì? Quá trình đi từ Kim Vân Kiều Lục của Thanh Tâm Tài Tử đến Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử tại Việt Nam) ảnh: Tri Tân bài viết khảo chứng của gs Dương Quảng Hàm.

CẦN LÀM SÁNG TỎ MỘT NGHI ÁN VĂN HỌC: “THANH TÂM TÀI NHÂN” LÀ AI ?
Nguyễn Cẩm Xuyên

Nguồn FB Nguyễn Cẩm Xuyên 13 tháng 10 lúc 12:27

Mươi ngày qua, những người quan tâm đến Văn học đã sôi nổi luận bàn về buổi thuyết trình Truyện Kiều ở Trung tâm Văn hóa Pháp ở Hà Nội và bài viết Thử giải mã lại Truyện Kiều của ông Lê Nghị đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 17/9/2020. Đã có những tranh cãi gay gắt xoay quanh một vấn đề rất xưa cũ là “nguồn gốc của Truyện Kiều” – tức là Nguyễn Du đã căn cứ vào đâu để viết nên Truyện Kiều?

Từ xưa đến nay hầu hết mọi người đều cho rằng Nguyễn Du đã dựa vào một cuốn tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Hoa mà viết nên Truyện Kiều – Nay Lê Nghị cùng nhóm các nhà nghiên cứu đã nói ngược lại, cho rằng Thanh Tâm Tài Nhân không phải là một tác gia của Trung Quốc mà chính là một nhóm văn thần triều Nguyễn. Họ đã viết Kim Vân Kiều truyện từ Truyện Kiều nôm của Nguyễn Du – Thời gian sau, nhóm Thanh Tâm Tài Nhân này mới theo lệnh vua Minh Mạng mà viết nên Kim Vân Kiều lục. Vậy là Kim Vân Kiều truyện và Thanh Tâm Tài Nhân đều là của Việt Nam.

Ngày 26/9/2020, PGS.TS. Đoàn Lê Giang đã phản bác Lê Nghị với chứng cứ : …Ở Nhật Bản, dựa vào Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc, tác gia Nishida Korenori đã viết truyện Tú tượng Thông tục Kim Kiều, xuất bản vào năm Bảo Lịch 13 (1763), tức là truyện đã có trước khi thi hào Nguyễn Du ra đời 3 năm (có nghĩa là Kim Vân Kiều truyện phải có trước Nguyễn Du từ nhiều năm trước nữa) (1)

Phát hiện của Đoàn Lê Giang là đáng quý song chắc không thể thuyết phục được Lê Nghị bởi dựa vào một số lí lẽ chứng cứ có phần hợp lí đã không công nhận Kim Vân Kiều truyện là tác phẩm có ở Trung Quốc đời Minh – Kim Vân Kiều truyện ban đầu đã do các văn thần triều Nguyễn biên soạn thời Minh Mạng (sau năm 1820). Có thể Nishida Korenori đã dựa vào một truyện khác chứ không phải truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để viết sách Kim Kiều truyện thông tục (2).

Những năm gần đây, do truyền thông, giao tiếp phát triển, các nhà nghiên cứu có điều kiện thâm nhập kho tàng văn học nước ngoài đã biết rõ ngọn nguồn truyện Vương Thuý Kiều đời Minh được phổ biến rộng rãi với nhiều tiểu thuyết, kịch, tuồng. Trước hết là bộ sách Trù Hải Đồ Biên do quan Tổng đốc đời Minh-Hồ Tôn Hiến soạn gồm 13 quyển; ở quyển 9 có bài Kỷ tiễu Từ Hải bản mạt (3) (ghi chép ngọn ngành việc đánh dẹp Từ Hải) kể lại chuyện quân Minh đánh nhau với quân Oa (4) vào năm Bính Thìn (1556) đời Gia Tĩnh. Lúc này Từ Hải, một tướng cướp biển, mang hơn 1 vạn quân từ sào huyệt ở Sạ Phố xuống Hàng Châu càn quét các vùng Tô Châu, Hồ Châu, uy hiếp Kim Lăng. Thế giặc mạnh, Hồ Tôn Hiến phải dùng mưu dụ hàng rồi trở ngược lại đánh bằng hỏa công. Từ Hải thua trận nhảy xuống sông. Quân Hồ Tôn Hiến bắt được 2 thị nữ, một người tên Vương Thuý Kiều, một người tên Lục Châu, vốn xuất thân từ ca kỹ. Hai thị nữ khóc và chỉ chỗ Hải trầm mình; quân sĩ vớt Từ Hải lên chém lấy thủ cấp mang về…

Dựa vào Minh sử, về sau nhiều tác phẩm nữa kể chuyện Vương Thúy Kiều là Hồ Thiếu Bảo bình Oa chiến công của Chu Tiếp, Vương Thúy Kiều truyện của Dư Hoài, Lý Thúy Kiều truyện của Đới Sĩ Lâm, Sinh báo Hoa Ngạc ân, tử tạ Từ Hải nghĩa của Mộng Giác Đạo Nhân (5), Vương Thúy Kiều truyện của Hồ Khoáng… Các truyện càng về sau càng hư cấu thêm nhiều nhân vật, nhiều tình tiết, biến chuyện có thật của lịch sử thành tiểu thuyết kì tình; riêng truyện của Mộng Giác Đạo Nhân và Dư Hoài (6) đã là tiểu thuyết luận đề, tập trung vào chủ đề tư tưởng rất hợp khẩu vị của giới bình dân: người phụ nữ rất đỗi tầm thường trong xã hội mà lại trung nghĩa, khí tiết hơn hẳn các bậc trượng phu, hơn cả những đại nhân, quan lại như Hồ Tôn Hiến. Mở đầu truyện, mặc dù Mộng Giác Đạo Nhân đã nêu gương Muội Hỉ, Đát Kỉ, Bao Tự, Trương Lệ Hoa, Dương Quý Phi… làm “hoang khí chính sự, chí táng quốc gia” trước khi kể chuyện Vương Thúy Kiều nhưng tựu trung lại tô điểm cho nhân vật này nhiều hào quang khiến hình ảnh người phụ nữ trong xã hội được đề cao: Vương Thúy Kiều không chỉ đẹp về hình vóc mà còn đẹp cả về tư cách, phẩm hạnh, là người trung hiếu vẹn toàn lại rất nghĩa khí: sẵn sàng liều mình khi ân nhân tử nạn.

Ngoài tiểu thuyết, Trung Quốc xưa cũng đã có các vở kịch, tuồng sáng tác từ câu chuyện của Vương Thúy Kiều như Tứ Thanh Viên của Từ Văn Trường (7) Hổ phách thi của Diệp Trĩ Phỉ, Song Thúy viên của Hạ Bỉnh Hoành… Như vậy chuyện kể về cuộc đời chìm nổi của Vương Thuý Kiều là nội dung của nhiều sách. Trong tất cả các sách viết về Vương Thúy Kiều của Trung Hoa thì Sinh báo Hoa Ngạc ân, tử tạ Từ Hải nghĩa của Mộng Giác Đạo Nhân và Vương Thúy Kiều truyện của Dư Hoài là đã bắt đầu đậm chất tiểu thuyết và đã kể về cuộc đời Kiều khá tỉ mỉ: Vương Thúy Kiều là người Lâm Tri, thuở nhỏ bị bán vào kĩ viện, lấy họ Mã, thường gọi là Mã Kiều nhi. Tuy còn nhỏ nhưng đẹp và thông minh, lại hát hay, đàn giỏi, thổi sáo cũng hay nên được nhiều người mến chuộng; vậy nhưng tính tình nhã đạm, không thích trang sức và cũng không thích nghề chiều chuộng khách nên giả mẫu lấy thế làm giận, thường chửi đánh. May có được một chàng thiếu niên giàu có chuộc ra, thuê nhà cho ở, đổi tên là Vương Thúy Kiều. Về sau lại gặp La Long Văn, một hào phú có cảm tình thường chu cấp, đi lại với Kiều và nuôi thêm cho một hầu gái là Lục Châu. Lúc này có một tướng cướp là Từ Hải, gặp lúc quẫn bách lẻn trốn vào ở nhờ nhà Thúy Kiều. Từ Hải nguyên là Minh Sơn Hòa Thượng, tu tại chùa Hổ Bào ở Hàng Châu. Long Văn gặp Từ Hải, đánh giá Hải là tráng sĩ nên cùng giao tiếp, lại đem cho Lục Châu làm hầu gái. Sống cùng La Long Văn một thời gian, Từ Hải từ biệt lên đường quyết lập chí dựng cơ đồ, chiêu tập bọn thảo khấu quay về xâm chiếm Giang Nam, vây đánh Tuần phủ Nguyễn Ngạc. Thật bất ngờ, trong một trận đánh, quân sĩ lại bắt được Thúy Kiều và Lục Châu. Mừng lắm, Từ Hải lập Thúy Kiều làm phu nhân, thường cùng cho dự bàn quân cơ. Lúc này thế lực Từ Hải đã mạnh; triều đình phải cử Tổng đốc Hồ Tôn Hiến ở Triết Giang đánh dẹp. Hồ Tôn Hiến nhiều mưu lược, thấy thế lực của Từ mạnh bèn cho Hoa lão nhân đến dụ hàng. Từ Hải nổi giận bắt trói Hoa lão nhân. May cho Hoa là lúc này tuy Kiều hết sức được yêu chiều nhưng vẫn canh cánh nỗi nhớ cố hương, mong sớm được đoàn viên bèn bàn với Từ tha chết cho Hoa. Hoa trở về báo với Tôn Hiến là thế giặc đang mạnh, chưa thể đánh nhưng xem ra Vương phu nhân có vẻ có ngoại tâm, ta có thể nhân đây mà thắng giặc. Tôn Hiến có biết La Long Văn là ân nhân cũ của Từ Hải và Thúy Kiều bèn dùng Văn để dụ hàng. Long Văn đến dinh, được Từ Hải ân cần tiếp đãi lại cho gọi phu nhân cùng Lục Châu ra chào. Trở về, Long Văn bàn với Hồ Tôn Hiến dùng kế đem châu báu lo lót Thúy Kiều, vận động Từ quy hàng. Đúng như ý nguyện, Kiều ra sức khuyên Từ Hải quy phục triều đình. Nghe lời Thúy Kiều, Từ Hải ước hàng cùng Tôn Hiến, không phòng bị gì. Tôn Hiến dùng hỏa công đánh giặc tan tác. Từ Hải nhảy xuống sông bị quan quân vớt lên chém đầu. Trong tiệc khao binh, Tôn Hiến bắt Thúy Kiều hát và chuốc rượu. Lúc quá chén, Tôn Hiến cũng giở trò đùa cợt. Hôm sau tỉnh rượu, sợ mất thể diện trọng thần, Tôn Hiến đem Thúy Kiều gả cho tù trưởng Vĩnh Thuận. Lúc sang sông, Kiều khóc lớn rồi đâm đầu xuống nước tự trầm…

Đến đây ta khẳng định một điều là để viết truyện Vương Thuý Kiều thì dù ở Việt Nam hay Nhật, Triều tiên, Mãn Châu…người ta có thể vận dụng nhiều nguồn: nhiều tiểu thuyết, kịch tuồng đời Minh Thanh nêu trên. Tất cả có tên trong Văn học sử Trung Quốc, riêng chỉ có Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài nhân là không.

“THANH TÂM TÀI NHÂN” MỘT TÁC GIA KHÔNG THỂ XÁC ĐỊNH.

Đọc Kiều, ngay đoạn mở đầu, ta gặp 2 câu:“Cảo thơm lần giở trước đèn’Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh…”Vậy nhưng “cảo thơm” (cuốn sách hay), chép lại một câu chuyện phong tình trong sử sách mà Nguyễn Du đã đọc là sách nào thì nay chưa ai biết.Trước đây, từ lâu lắm người ta đã khẳng định Truyện Kiều xuất phát từ truyện của Thanh Tâm tài nhân. Trên Nam Phong tạp chí năm 1919, Phạm Quỳnh đã khẳng định Truyện Kiều có xuất xứ từ Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc mặc dù không xác định được Thanh Tâm Tài Nhân là ai và Kim Vân Kiều truyện được viết khi nào. Riêng Dương Quảng Hàm thì cho rằng: “Tuy là không biết tác giả tên thực là gì và sống về đời nào nhưng các việc kể trong tiểu thuyết đều thuộc về đời Gia tĩnh nhà Minh tức là tự năm 1522 đến năm 1566”. Bulletin général de l’ Instruction publique số tháng 6-8 năm 1941 có đăng bài Les sources du Kim Vân Kiều, célèbre poème de Nguyễn Du (Nguồn gốc truyện Kiều, tác phẩm thơ nổi tiếng của Nguyễn Du). Bài này về sau đã được dịch ra quốc ngữ đăng lại trên tạp chí Tri Tân, số 4, ngày 4/6/1941, với tựa đề: “Nguồn gốc truyện Kiều của cụ Nguyễn Du” cũng có quan điểm tương tự

Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Lê Thước, Phan Sĩ Bàng, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Dương Quảng Hàm… và gần đây là Nguyễn Quảng Tuân… cùng tất cả các tác giả biên soạn sách giáo khoa, các giáo trình văn học từ trung đến đại học đều cho rằng Truyện Kiều xuất phát từ truyện của Thanh Tâm Tài Nhân – vậy nhưng vẫn tồn tại một ngờ vực là cuốn tiểu thuyết của Trung Quốc dở tệ mà sao Nguyễn Du lại chọn? Trần Nghĩa, trên tạp chí Hán Nôm số 2/1998 đã viết: “… Khi luận giải về mối quan hệ giữa Kim Vân Kiều tân truyện của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một số người băn khoăn không rõ vì sao Nguyễn Du lại chọn một tác phẩm vô danh tiểu tốt của Trung Quốc để cải biên …”. Đây là một điểm rất đáng ngờ. Ngoài ra một điểm đáng ngờ nữa là: Dù cho rằng Nguyễn Du đã dựa vào truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng lại chẳng ai biết Thanh Tâm Tài Nhân là ai (!).

Học giả Phạm Quỳnh đã viết trên báo Nam Phong số 30, tháng 12 năm 1919: “…Nguyên bộ tiểu thuyết Tàu mà cụ (Nguyễn Du) phỏng theo để đặt ra truyện Kiều, đề là “Thanh Tâm Tài Nhân lục”, không biết rõ tác giả là ai, soạn vào đời nào, nhưng truyện với lời văn cũng tầm thường, ngoài mấy bài từ điệu có vẻ thanh tao lưu loát, không có đặc sắc gì…”. Học giả Phạm Quỳnh, chủ bút báo Nam Phong, người tinh thông cả Pháp văn lẫn Hán văn cũng đã chê Kim Vân Kiều truyện cả về nội dung lẫn nghệ thuật và khẳng định là không biết rõ tác giả là ai, soạn vào đời nào. Ở Trung Quốc cũng vậy, chẳng ai biết Thanh Tâm Tài Nhân. Ngay Đổng Văn Thành, Giáo sư Văn học Trường đại học Liêu Ninh cũng thú nhận: “…Những năm 60, hồi học khoa Trung văn trường đại học, qua giáo trình văn học nước ngoài, tôi được biết ở Việt Nam có một truyện thơ nổi tiếng thế giới gọi là truyện Kim Vân Kiều […] Vì truyện thơ đó có quan hệ máu thịt với văn học của tổ quốc cho nên tôi rất hứng thú […] Từ lâu tôi đã mong có ngày nhìn thấy truyện “Kim Vân Kiều”, cuốn tiểu thuyết Trung Quốc nghe nói đã thất truyền ở trong nước. Năm 1981, bất ngờ phát hiện ra cuốn sách đó ở thư viện Đại Liên, nỗi vui mừng của tôi thật không sao hình dung nổi. Tôi đọc một hơi hết cả cuốn sách […] Cuốn sách của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân bị vùi lấp hàng mấy thế kỷ trong văn học sử Trung Quốc; từ cuối đời Thanh cho tới những năm 50 của thế kỷ XX, cuốn tiểu thuyết ấy hầu như được ít người biết đến. Trong tất cả các sách về lịch sử tiểu thuyết, lịch sử văn học, kể từ cuốn Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc của Lỗ Tấn đến nay, đều không có đến nửa chữ giới thiệu về nó…”Trung Quốc có cả một nền văn học đồ sộ với bao nhiêu học giả, nhà phê bình mà qua bao nhiêu thế kỉ không hề nêu tên Thanh Tâm Tài Nhân vào văn học sử thì kể cũng lạ.

KIM VÂN KIÊU TRUYỆN TÌM ĐƯỢC Ở THƯ VIỆN ĐẠI LIÊN TRUNG QUỐC CÓ THỂ LÀ MẠO TÁC.

Năm 1981, GS. Đổng Văn Thành, Trung Quốc tuyên bố là đã tìm được bản chép tay Kim Vân Kiều truyện trong thư viện Đại Liên. Một điểm rất đáng ngờ là bản chép tay Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc ngay đầu mỗi quyển đều có ghi: “Quán Hoa Đường bình luận, Kim Vân Kiều quyển chi… Thánh Thán ngoại thư”. Kim Thánh Thán mất năm 1661, đời nhà Thanh; vậy Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc phải được sáng tác trước đó vì Quán Hoa đường là thư viện riêng của Kim Thánh Thán. Nếu đã được xếp vào hàng “Quán Hoa Đường bình luận – Thánh Thán ngoại thư” có nghĩa là sách thuộc vào loại có giá trị nên đã được nhà phê bình kiệt xuất Kim Thánh Thán để ý xem xét, bình luận. Ta nên biết rằng: Trung Quốc chỉ có 6 tác phẩm được Kim Thánh Thán xếp vào danh hiệu “Tài tử thư” (lục Tài tử), gồm có: Nam Hoa kinh của Trang Tử, Ly Tao của Khuất Nguyên, Sử kí của Tư Mã Thiên, Thơ luật của Đỗ Phủ, Thủy Hử của Thi Nại Am và Tây sương kí của Vương Thực Phủ. Một số sách khác tuy được Kim Thánh Thán lưu vào thư viện “Quán Hoa Đường” song chỉ thuộc hàng “Thánh Thán ngoại thư”.

Khẳng định Kim Vân Kiều truyện là Thánh Thán ngoại thư. Điều này khiến ta hết sức băn khoăn. Có thể đây là tác phẩm mạo tác chăng?. Thật vậy, vào thời mà việc lưu truyền, phổ biến tác phẩm chủ yếu chỉ nhờ vào chép tay thì dòng chữ “Quán Hoa đường bình luận – Thánh Thán ngoại thư” ghi ở đầu truyện: ai cũng có thể ghi được; ngoài ra là nếu cho là “Kim Vân Kiều truyện” là “Tài tử thư” thì sao lại không một ai biết đến – như chính Đổng Văn Thành đã công nhận: “…Trong tất cả các sách về lịch sử tiểu thuyết, lịch sử văn học, kể từ cuốn Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc của Lỗ Tấn đến nay, đều không có đến nửa chữ giới thiệu về nó…

”NHỮNG NGỜ VỰC ĐÃ TẠO NÊN QUAN ĐIỂM CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU LÊ NGHỊ

Chính những vấn nạn chưa thể giải quyết ở trên là căn cứ để nhóm Lê Nghị khẳng định lại nguồn gốc Truyện Kiều. Lê Nghị cho rằng: “… nghiêm túc so sánh các văn bản, chúng tôi phát hiện ra rằng Truyện Kiều là gốc của Kim Vân Kiều truyện ở Việt Nam, rồi từ đó người ta phóng tác Kim Vân Kiều truyện ở Trung Quốc”. Quan điểm này cũng là quan điểm chung của nhóm nghiên cứu gồm Lê Nghị, Lâm Thanh Sơn, Nguyễn Tuấn Sơn… Quan điểm khá táo bạo. Thoạt tiên người yêu văn học cảm thấy như mình bị xúc phạm bởi những gì học hỏi được bấy lâu – nay bỗng nhiên bị phủ nhận. Vậy nhưng đọc kĩ lí luận này hồi lâu rồi bình tĩnh suy xét ta có thể thấy quyết đoán của nhóm Lê Nghị cũng có những điểm có lí:

1/ Những tiểu phẩm phóng tác ở Trung Hoa gồm truyện ngắn, kịch, tuồng… đều độc lập, không tác phẩm nào kế thừa tác phẩm nào. Cũng không có tác phẩm nào mang cùng tên nhân vật và số phận nhân vật có cốt truyện, nội dung giống Đoạn trường Tân Thanh.2/ Kim Vân Kiều truyện ở Trung Hoa xưa không có độc giả, không có nhà phê bình nào đoái hoài, lại cũng không có sách nào ghi nhận về tác giả Thanh Tâm tài nhân.3/ Cùng nhóm với Lê Nghị, Lâm Thanh Sơn khẳng định: “… Nguyễn Du đã lấy chất liệu từ sử nhà Minh, xây dựng các nhân vật Từ Hải, Kiều, Hồ Tôn Hiến làm đỉnh điểm cho tiểu thuyết trường thi của mình. Đồng thời, tự đặt tên các nhân vật còn lại như: Kim Trọng, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, Thúc Sinh, Đạm Tiên, cùng những nhân khác…”Vương Thuý Kiều là câu chuyện diễm tình có sức lan toả mạnh mẽ, đã truyền ra nhiều nước Đông Á. Không riêng gì Nhật Bản mà cả Triều Tiên và Mãn Châu thời xưa cũng đã có các tác phẩm văn học mô phỏng hoặc cải biên truyện kể về Vương Thuý Kiều của Trung Quốc(8). Vấn đề cần làm rõ ở đây là câu chuyện này truyền sang các nước bằng tác phẩm nào? Có thể không phải là tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân mà là của các tác giả khác có tên tuổi trong Văn học sử Trung Quốc.Ý kiến của Đoàn Lê Giang tuy phủ nhận quan điểm của Lê Nghị vậy nhưng vẫn chưa giải quyết được vấn đề tại sao tác gia Thanh Tâm Tài Nhân lại không hề xuất hiện trong Văn học sử Trung Quốc trước 1981.

Một nghi án văn học cũng như một vụ án hình sự với nhiều chứng cứ chưa rõ rệt thường rất khó đoán định. Trong thực tế ở nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới đã có nhiều vụ án sau khi trải qua nhiều lần nghị án vởi đủ mọi thủ tục để Toà xác định thủ phạm – rồi thi hành án giam tù hoặc tử hình. Vậy nhưng án thi hành xong, qua nhiều năm mới phát hiện là nhầm, hung thủ lại là một người khác…! Văn chương cũng vậy, dù bao nhiêu học giả tầm cỡ đã khẳng định Truyện Kiều bắt nguồn từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng vẫn còn nhiều điểm nghi ngờ chưa thể lí giải nên ý kiến của Lê Nghị vẫn cần được xem xét. Biết đâu Nguyễn Du cũng như các tác gia của Nhật, Triều Tiên, Mãn Châu lại chỉ dựa vào Minh sử và một cuốn tiểu thuyết nào đó viết về Truyện Kiều như Sinh báo Hoa Ngạc ân, tử tạ Từ Hải nghĩa của Mộng Giác Đạo Nhân hay Vương Thúy Kiều truyện của Dư Hoài chẳng hạn để tạo nên tác phẩm của mình. Còn Thanh Tâm Tài Nhân thì rõ là không có tên trong Văn học sử Trung Hoa. Vậy thì Thanh Tâm Tài Nhân là ai? Phải chăng là một nhóm văn thần đời Minh Mạng đã vâng lệnh vua mà soạn nên Kim Vân Kiều truyện? còn Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc mà GS.Đổng Văn Thành thông báo đã tìm được ở Thư viện Đại Liên năm 1981 biết đâu lại chỉ là mạo tác nhằm bảo vệ luận thuyết in trong Minh Thanh Tiểu Thuyết Giám Thường từ điển (9), cho rằng Truyện Kiều chẳng qua chỉ là dùng thể thơ lục bát của Việt Nam để dịch lại một cuốn tiểu thuyết của Trung Quốc; cũng như trong bài “So sánh truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam” trên “Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng”, GS. Thành cũng cho rằng: “Nguyễn Du chẳng những chỉ mượn đề tài của tiểu thuyết Trung Quốc mà dường như bê nguyên xi […] Nguyễn Du không có bất kỳ một sáng tạo mới nào, chỉ chuyển thuật khá trung thực nội dung tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân…”(10).

Chê Nguyễn Du hết lời, Đổng Văn Thành lại tâng bốc Thanh Tâm Tài Nhân lên tận mây xanh: “…Đối với Kim Vân Kiều truyện: “…chữ nào cũng là đá ngũ sắc vá trời cả, công của tác giả chẳng hề kém Nữ Oa” (11). Đánh giá Kim Vân Kiều truyện ghê gớm như thế mà lại khẳng định là: “trong tất cả các sách về lịch sử tiểu thuyết, lịch sử văn học, kể từ cuốn Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc của Lỗ Tấn đến nay: đều không có đến nửa chữ giới thiệu về nó….thì quả là một sự mâu thuẫn đáng ngờ.

Trước một nghi án văn học phức tạp như trên, ta cần cẩn trọng với những định kiến cũ dù rằng nó đã khởi phát từ những khẳng định của những vị mũ cao áo dài. Biết đâu những định kiến này đã thoát ra từ một luận thuyết mơ hồ trong quá khứ. Ngoài ra ta cũng nên lắng nghe, trân trọng những ý kiến mới, những tư tưởng sáng tạo để rộng đường xem xét.

CHÚ THÍCH:

(1) “Truyện Kiều có trước hay sau Kim Vân Kiều truyện?” https://tuoitre.vn/truyen-kieu-co-truoc-hay-sau-kim-van…

(2) Theo Lê Nghị (https://www.facebook.com/linghe.li.7): Đoàn Lê Giang có cho biết trong phần giới thiệu của sách: Nishida Korenori đã phóng tác từ từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Chi tiết này nay vẫn chưa được chứng thực

(3) TRÙ HẢI ĐỒ BIÊN 籌海圖編 là bộ sách do Hồ Tôn Hiến soạn, gồm họa đồ vẽ các vùng biển thường bị quân hải khấu Nhật xâm phạm và các kế hoạch trù định nhằm giữ gìn an ninh vùng biển. Bài Kỷ tiễu Từ Hải bản mạt 纪剿徐海本末 chép ở quyển 9 của bộ sách này là do Phó sứ Mao Khôn, thuộc cấp theo lệnh Hồ Tôn Hiến ghi chép, đã kể lại khá tỉ mỉ cuộc đánh dẹp Từ Hải. (Hồ Tôn Hiến – Trù Hải Đồ Biên, Cảnh Ấn Văn Uyên Các, Tứ Khố Toàn Thư, sách thứ 343. Đài Bắc, Đài Loan; Thương Vụ ấn thư quán, 1983)

(4) Oa 倭 : lùn. Người Nhật bản xưa thấp bé nên người Trung Hoa gọi là Oa nhân 倭 人(người lùn), nước Nhật là Oa quốc 倭国 , cướp biển từ Nhật sang gọi là Oa khấu 倭寇 (giặc lùn). Chữ Oa cũng hay đọc là Nụy .

(5) Mộng Giác Đạo Nhân梦觉道人; tác giả truyện 三刻拍案惊奇 Tam Khắc Phách Án Kinh Kì đời Minh.

(6) Dư Hoài 余怀(1617—?)tự là Đạm Tâm, học giả, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng đất Giang Nam đời Minh mạt-Thanh sơ.

(7) Từ Văn Trường (Từ Vị), một nhà văn đời Minh, có nhiều bút danh: Thiện Tri, Thanh đằng, Điền Thủy Nguyệt, là mặc khách của Hồ Tôn Hiến.

(8) Thông báo Hán Nôm học 2001, tr.397: “Lời tựa sách Trung Quốc tiểu thuyết hội mô bản có nhắc tới Vương Thuý Kiều truyện của Hàn quốc; trong sách Trung Quốc cổ đại tiểu thuyết đông truyền Hàn quốc cập kỳ ảnh hưởng của Trần Tường Hoa cũng đề cập đến truyện Vương Thuý Kiều truyện du nhập Triều Tiên…

9) MINH THANH TIỂU THUYẾT GIÁM THƯỜNG TỪ ĐIỂN; Hà Mãn Tử – Lý Thời Nhân, Chiết Giang Cổ Tịch xuất bản xã xuất bản năm 1992(

10) Phạm Tú Châu “So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam”; 200 năm nghiên cứu bàn luận “Truyện Kiều”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội 2005.

(11) Nguyễn Khắc Phi; Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái nhìn văn học so sánh, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr.178 – 189.

ĐỌC SÁCH “NGUYỄN DU TRÊN ĐƯỜNG GIÓ BỤI” CỦA HOÀNG KHÔI 
Phạm Trọng Chánh 

Nguồn Văn hóa Nghệ An thứ bảy, 09 tháng 11 2013 06:12

Có gì vui hơn, khi những thành quả nghiên cứu văn học của mình được bè bạn Hội Kiều Học trong nước hưởng ứng viết thành tiểu thuyết.  Nhận được sách anh Hoàng Khôi: Nguyễn Du trên đường gió bụi với lời đề tặng : “Thân tặng anh Phạm Trọng Chánh. Cám ơn anh vì những bài viết của anh đã gợi ý nhiều và tạo cảm hứng cho tôi hoàn thiện cuốn sách này “. Người viết vội vàng viết bài về quyển sách anh gửi tặng, giúp anh “nhặt sạn” những sơ sót trong lúc say sưa viết. Tiếc là không được đọc bản thảo lúc sách chưa ra đời để công trình anh được hoàn hảo hơn, thôi thì góp ý kiến để lần tái bản anh xem xét lại. Bài viết cũng trả lời các thắc mắc nhiều bạn khi thấy dàn bài sách anh Hoàng Khôi trùng hợp với tên tựa các bài tôi đã viết đăng trên nhiều site trong nước và hải ngoại, gửi email hỏi tôi, mong rằng bài viết này giải toả các nghi ngờ về sách anh Hoàng Khôi.

Người nghiên cứu văn học sau bao năm tìm kiếm giải quyết những thắc mắc của  các học giả đi trước :  Tại sao Nguyễn Du có những bài thơ làm ở Trường An, Hàng Châu không nằm trên đường đi sứ năm 1813 ? Tại sao trong Thanh Hiên thi tập có các địa danh : Liễu Cao Lâm, Trường An, Giang Hán, Giang Bắc, Giang Nam, Nam Đài, Long Thủy, những địa danh ấy ở đâu ? Những người đi trước không nghĩ tới chỉ dịch phớt qua hay bỏ quên !   Nhân vật Nguyễn Đại Lang trong Thanh Hiên thi tập là ai ? Nguyễn Du trong thơ tiễn biệt có nói đã cùng kết nghĩa sinh tử, cùng tồn vong, chia tay tại đâu mà hẹn gặp lại tại Trung Châu ? Trung Châu là Hà Nội hay ở Trung Quốc. Nguyễn Du từ năm 1783 làm Chánh Thủ Hiệu Quân Hùng Hậu hiệu tại Thái Nguyên. Sách sử các tài liệu rãi rác : Nguyễn Khản làm Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa, Hoàng Lê Nhất Thống Chí có nói đến Cai Gia, tay giặc già, thuộc hạ của Nguyễn Khản nắm binh quyền tại Thái Nguyên. Lê Quý Kỷ Sự của Nguyễn Thu có nói đến cuộc khởi nghĩa tại Tư Nông của cựu Trấn Thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến, tước Quản Vũ Hầu, bị tướng Tây Sơn bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm, Nhậm trọng khí khái dụ hàng, lại tha bổng cho phép muốn đi đâu thì đi. Gom lại các tài liệu, tôi tìm được một nhân vật, vừa là thầy, là anh kết nghĩa Nguyễn Du và cũng là Từ Hải, mở cách cửa  Nguyễn Du đã vào bước đường đi giang hồ khắp Trung Quốc thời thanh niên.Những chi tiết rành rành trong Thanh Hiên thi tập có những bài tả cảnh tuyết, núi non trùng điệp, lá vàng, trưởng giả ăn mặc còn theo nhà Hán (không theo nhà Thanh để tóc bính đuôi sam, áo quần Mãn Châu), dân chúng theo lịch nhà Tần, xử dụng nhạc cụ “tù và” ? Nguyễn Du có hư cấu, ở Quỳnh Hải, Hồng Lĩnh theo sách vở mà tưởng tượng làm thơ, hay thơ chữ Hán Nguyễn Du là những trang nhật ký ?Tại sao Nguyễn Du có những câu thơ kỳ lạ : Tôi đọc kinh Kim Cương nghìn lượt ?. Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế? Giang Bắc, Giang Nam cái túi không? Nguyễn Du làm gì mà đọc kinh Kim Cương trong ba năm, đội mũ vàng nhà sư đi muôn dậm (khoảng 5000 km), làm gì không tiền mà đi hết các sông phía bắc đến sông phía nam Dương Tử Giang ? Nguyễn Du ở đâu mà cách Trường An ngàn dậm về phía Nam ?Theo Nguyễn Hành, cháu Nguyễn Du, có viết ông có một cuộc đời giang hồ như cuộc đời làm quan : Giang hồ long miếu hai điều đủ, Thi họa cầm thư bốn nghệ tinh.Theo gia phả từ năm 1786 đến 1796 Nguyễn Du về quê vợ tại Quỳnh Hải, Thái Bình hợp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn khởi nghĩa chống Tây Sơn.  Nhưng điều này không đúng vì từ năm 1788 Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan Tây Sơn và đi sứ trong đoàn 158 người năm 1790. Đoàn Nguyễn Tuấn có hai bài thơ viết tặng một văn nhân họ Nguyễn, gặp tại Hoàng Châu, Trung Quốc  vào mùa thu bàn luận về văn chương sôi nổi chuyện gì ?, Đoàn Nguyễn Tuấn phải lên Nhiệt Hà nơi vua Càn Long đang nghỉ mát ? Văn nhân họNguyễn đi xe song mã về Nam và hẹn gặp lại tại nước nhà vào mùa xuân. Trên đường đi cớ gì mà Đoàn lại viết một bài thơ Vô Đề về hồng nhan đa truân khi gặp một ca nhi hát cho sứ đoàn tại bến sông Hán?.Mang những thắc  mắc bao nhiêu năm, năm 2009, tôi đi Trung Quốc qua những thành phố Nguyễn Du đi sứ và các địa danh trong thơ, tôi nghiên cứu, tham khảo sách vở từng con sông, từng hồ, từng thắng cảnh Nguyễn Du đã đi qua, tôi dịch lại toàn bộ thơ chữ Hán Nguyễn Du, do không nghĩ đến Nguyễn Du có một thời gian đi giang hồ tại Trung Quốc thời trẻ, những địa danh bị người đi trước không hiểu nên bỏ qua hay dịch sai và tôi hoàn thành quyển Nguyễn Du mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Khuê Văn Paris Xb 2011. Và gần đây tôi viết thành nhiều bài nhỏ để phổ biến trên các báo điện tử.

Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà  người đi sau nối tiếp người trước , làm giải quyết những nghi vấn còn tồn động, làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ. Điều may mắn trong nghiên cứu về Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương tôi có dịp gặp gỡ bàn bạc với Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn.

Những thắc mắc về Nguyễn Du tôi đã từng bàn với Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, từ những năm 1980 thuở còn thanh niên trong những lần tôi về nghỉ hè hàng tháng trời tại dã thự Cam Tuyền, tại Trouville bờ biển Normandie, Giáo sư khuyến khích, chỉ dẫn tôi những điều giáo sư nghi ngờ và chưa tìm ra câu giải đáp. Tôi mang nặng những lời hướng dẫn của giáo sư suốt mấy mươi năm, nên đọc lại, dịch lại từng câu từng chữ thơ chữ Hán, chữ Nôm Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du. Ở Paris mà nghiên cứu Văn Học Việt Nam quả thật là chuyện gàn, vì ban ngày nói tiếng Pháp, làm ăn sinh sống bằng tiếng Pháp, mà ban đêm cứ thao thức ngồi viết bằng tiếng Việt, dịch thơ tiếng Việt chữ Hán, chữ Nôm. Được tiếp xúc với kho tàng văn hóa Hán Nôm lưu trữ tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Paris, di sản cha ông mình nhiều quá, mà người nghiên cứu lác đác như lá mùa thu, vì việc làm chẳng ai trả lương, chỉ để tiêu khiển. Ngày xưa, tôi tò mò hỏi giáo sư Hoàng Xuân Hãn : Vì sao Bác tốt nghiệp trường Bách Khoa Paris, tốt nghiệp Kỹ sư Hầm Mỏ, Thạc Sĩ Toán mà lại dành cả đời đi nghiên cứu văn chương Việt Nam ? Bác trả lời :  “Việc ấy các anh em trẻ có nhiều sẽ làm giỏi hơn bác, nhưng kho tàng văn học Việt Nam nếu không ai làm, di sản tổ tiên sẽ mất đi rất nhiều“. Rồi từ lúc, ngồi trên ghế trường Bách Khoa Paris, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã viết tự điển danh từ Khoa Học bằng tiếng Việt, đặt nền tảng cho việc giảng dạy tiếng Việt, chỉ một năm làm Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục và Mỹ Thuật, giáo sư đã đặt nền tảng cho chương trình giảng dạy bằng tiếng Việt còn tồn tại cho đến ngày nay. Trong tiếng súng chiến tranh Pháp Việt, giáo sư Dương Quảng Hàm lao vào cứu thư viện của mình và bị chết cháy. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn vẫn tiếp tục đi mua hàng gánh sách vở các đại gia bị con cháu đem bán làm giấy bổi, rồi mang nó ra xa nơi chiến tranh ngồi tiếp tục nghiên cứu, chẳng màng đến danh lợi. Bác Hãn viết sách cả đời, công sức như cả một Viện Văn Học nhưng không hề hưởng được một đồng nào do sách vở mang lại. Với địa vị, bằng cấp tại Pháp, Bác Hãn có thể trở nên giàu có, nhưng Bác biết dừng lại khi đã có đầy đủ và dành thì giờ nghiên cứu di sản tổ tiên.

Tôi vốn nặng nợ với nghiệp văn chương, thuở học trung học đã làm thơ viết báo, nhiều khi tự nhủ lòng : Trang Tích xưa khi bệnh mới rên bằng tiếng Việt, chứ tôi đi du học từ năm 19 tuổi, mà cứ rên bằng tiếng Việt suốt hơn 43 năm. Thôi thì như Tú Xương : Một chè, một rượu, một đàn bà.. mình thì chẳng rượu chè, cờ bạc chỉ mê có cô Hồ Xuân Hương và cô Kiều.

Công trình Nguyễn Du, mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương sau khi hoàn thành từ Paris năm 2011, tôi gửi sang Moscou tặng Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn trong những ngày cuối đời, giáo sư cho biết bị phong thấp tê liệt cả nửa người, chỉ còn một tay gõ chữ, bao ngày tháng trông đợi, thường xuyên viết Email hỏi thăm khuyến khích, không có quyển Hoàng Lê Nhất Thống Chí tại Moscou, Giáo sư nhờ môn sinh từ trong nước gửi qua, cầm quyển sách trong tay, giáo sư đánh Email hỏi gấp : Cai Gia ở trang mấy, anh nói gấp cho tôi biết,  giáo sư rất vui khi đọc được những khám phá mới của tôi về Nguyễn Du, nhất là về Cai Gia Nguyễn Đại Lang sẽ mở ra cánh cửa về cuộc đời giang hồ của Nguyễn Du và Giáo sư vui vẻ nói rằng khám phá này rằng “sẽ làm mưa làm gió”… không ngờ đây  là quyển sách cuối cùng Giáo sư đọc trước khi nhắm mắt lìa đời.

Được Giáo Sư Nguyễn Văn Hoàn, vốn đã quen biết từng sang chơi Paris hơn 30 năm, nay là Chủ Tịch Hội Kiều Học, mời tham gia Hội Kiều Học vừa mới thành lập, nay được anh Vũ Ngọc Khôi, một hội viên Kiều Học viết chuyện Mười năm gió bụi của Nguyễn Du thành tiểu thuyết còn gì vui hơn. Hy vọng có một đạo diễn tài ba, một nhà sản xuất phim, một nhà viết kịch bản phim… sẽ có cảm hứng làm phim truyện nhiều tập về Nguyễn Du – Hồ Xuân Hương chắc chắn sẽ ăn đứt các bộ phim Trung Quốc – Hàn Quốc, sẽ phục hưng văn hóa Việt đánh bạt được các ảnh hưởng văn hóa tình cảm lẫm cẩm, giúp cho giới trẻ Việt Nam biết lịch sử Việt Nam nhiều hơn là sử Trung Quốc,  Hàn Quốc. Hàn Quốc đã làm được bộ phim Xuân Hương, một truyện thơ hàng đầu của Triều Tiên, còn Việt Nam chờ đến bao giờ ?

Mơ ước nhiều, nhưng trước tiên đề nghị với anh Hoàng Khôi, xây dựng lại quyển tiếu thuyết hoàn hảo hơn,  và mắc các sự kiện trên chiếc đinh lịch sử vững chắc.

Trước tiên, để đóng những chiếc đinh sự kiện vào lịch sử, cần tóm lược các sai lầm năm tháng trong Thanh Hiên thi tập, và mười năm gió bụi. Thời gian các tài liệu cũ dựa theo gia phả cho rằng Nguyễn Du theo vua Lê Chiêu Thống không kịp về ẩn lánh quê vợ ở Quỳnh Hải, hợp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn chống Tây Sơn 1786-1796 và từ 1796-1802 là thời kỳ dưới chân núi Hồng, Vợ chết năm 1796, Nguyễn Du cõng con Nguyễn Tứ về Hà Tĩnh, làm Hồng Sơn Liệp Hộ. Năm 1802 Nguyễn Du đón đường vua Gia Long tại Hà Tĩnh dâng sớ và được đưa ra Bắc phong làm Tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam.

Cách chia này không đúng vì có các mâu thuẫn : Ngược lại Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan Tây Sơn. Bài thơ Quỳnh Hải Nguyên tiêu :  Nguyễn Du hạnh phúc bên vợ : Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên, Trăng sáng đầu xuân tỏa ngập tràn, và mình đã trải qua chân trời góc biển đến 30 tuổi. Các tài liệu cũ không biết vợ Nguyễn Du tên gì, không biết năm sinh, làm sao biết năm mất ? Tại Hồng Lĩnh, Nguyễn Du bị tù, Trấn thủ Nguyễn Văn Thận giữ vững Hà Tĩnh cho đến năm 1802, Nguyễn Du không thể chiêu tập thủ hạ và không thể có lương thực, bò, ngựa để dâng vua Gia Long. Người đã làm quan được mời ra (cùng Nguyễn Thiếp) năm 1802 và đi theo vua Gia Long từ Phú Xuân ra Bắc là Nguyễn Nể chứ không phải Nguyễn Du. Bài thơ Chí Hiên tặng của Nguyễn Du lưu trong Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương, có hai câu : Ra Bắc phen này mong nổi việc, Vào Nam ngẩm trước cũng hoài công. Chứng tỏ Nguyễn Du không tìm được ai ủng hộ mình tại Hà Tĩnh  (Tụ đầu nan đắc thường thanh mụcHọp bạn khó tìm người mắt biếc) Hà Tĩnh trải qua cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, làng Tiên Điền bị làm cỏ, không ai còn muốn phiêu lưu chống Tây Sơn, (Tiếu đề tuẫn tục can qua tế – Khóc cười thời loạn theo trần thế. Tạp thi II). Nguyễn Du không thể ở lại dạy học vì người bạn thân là Thực  Đình dạy học cũng không sống nổi. Cái tên Thực Đình tự cười mình, nói lên số phận chỉ ăn no khi có đám tiệc ở đình làng. Nguyễn Du thất bại, bị tù tại Hà Tĩnh, mới ra trở lại Thăng Long, thì Hồ Xuân Hương đã đi lấy chồng thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du về Quỳnh Hải cưới vợ Đoàn Nguyễn Thị Huệ, do hai ông anh Nguyễn Nể , Đoàn Nguyễn Tuấn thu xếp, năm ấy Nguyễn Du 30 tuổi. Tại Quỳnh Hải, Nguyễn Du dạy học văn võ, chiêu tập thủ hạ, hoàn tất Truyện Kiều, làm ăn khấm khá mới có bò ngựa lương thực dâng vua Gia Long. Từ Quỳnh Hải, Nguyễn Du dẫn thủ hạ đi không xa đến Phù Dung cùng trấn Sơn Nam, thì gặp vua Gia Long, vua phong ngay làm Tri huyện tại đây cho nên có danh hiệu là Phi Tử.  Nguyễn Nể cũng được vua Gia Long để lại Bắc Hà giúp  Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành các nghi lễ cho sứ đoàn do Binh Bộ Thượng thư Lê Quang Định làm Chánh sứ xin nhà Thanh phong vương và đổi quốc hiệu là Nam Việt, nhưng không giữ chức vụ gì. Nguyễn Nể không bị Đặng Trần Thường đem ra Văn Miếu đánh đòn như Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Nguyễn An Lịch.. nhưng năm 1805 về Hà Tĩnh thì bị tri phủ Trần Văn Chiêu tuy bức, ông uất ức mà chết.  Nguyễn Du vợ mất năm 1804 để lại một con Nguyễn Tứ.

NIÊN BIỂU NGUYỄN DU

1766. Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tính ra dương lịch là ngày 3-1-1766, mới đúng. (Các tài liệu cũ đều lầm lẫn khi viết Nguyễn Du sinh năm 1765).

1771  Cha là Nguyễn Nghiễm xin về hưu trí sĩ, được gia thăng chức Đại Tư Đồ. Chúa Trịnh cấp cho xe bồ, ngựa tứ và thuyền hãi mã đưa về làng. Nguyễn Du theo cha về. Nguyễn Nghiễm lại được gọi ra làm quan Tham Tụng.

1774. Nguyễn Nghiễm được sung chức Tả Tướng cùng Hoàng Ngũ Phúc đánh Chúa Nguyễn ở Đàng Trong.

1776 Nguyễn Nghiễm bị nhiễm bệnh dịch cùng hàng ngàn quân sĩ, đưa về quê dưỡng bệnh và mất tại Hà Tĩnh 7 tháng 11 Ất Mùi (7-1-1976). Được truy tặng tước Huân dụ Đô hiến đại vương, Thượng đẳng phúc thần.

1778 Bà Trần thị Tần (1740-1778) mẹ Nguyễn Du qua đời ngày 20-7-1978.

1780 Trong vụ án Canh Tý. Anh cả Nguyễn Khản (1734-1786) thầy dạy Trịnh Tông bị khép tội mưu loạn cùng Trịnh Tông, được tha chết nhưng bãi chức, giam ở nhà Châu Quận công. Nguyễn Du về Tiên Điền học với chú Nguyễn Trọng.

1782. Chúa Trịnh Sâm mất, Trịnh Tông nối ngôi Chúa, cử Nguyễn Khản làm Thượng Thư bộ Lại, tước Toản Quận công.

1783 Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, Nam Định đậu tam trường. Nguyễn Khản thăng Thiếu Bảo, cuối năm thăng Tham Tụng kiêm trấn thủ Hưng Hóa, Thái Nguyên. Cử Nguyễn Du làm Chánh Thủ Hiệu quân Hùng Hậu Hiệu cai quản đội quân tinh nhuệ nhất Thái Nguyên. Cai Gia Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu vốn là tay giặc già, phản Thanh phục Minh Trung Quốc, gốc người Việt Đông, là tân khách (thủ hạ) dưới trướng, thầy dạy võ cho Nguyễn Du và các anh em được giao quyền Trấn thủ Thái Nguyên, nơi có nhiều người Trung Quốc sang khai mỏ bạc. Nguyễn Nể(1761-1805) đỗ tứ trường trường thi Hương Phụng Thiên, Hà Nội, Nguyễn Khản phong làm Cai quản đội quân Phấn Nhất trong phủ Chúa.

1784 Nhân vụ 7 kiêu binh bị nhà chúa giết vì bữa tiệc vua Lê đãi kiêu binh có công phò Hoàng Tự Tôn Lê Duy Kỳ từ trong tù ra, kiêu binh nổi loạn đốt phá dinh thự Bích Câu. Nguyễn Khản chạy trốn lên Sơn Tây với em Nguyễn Điều (1745-1786), trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Nể phụ tá làm Hiệp tán Nhung vụ,họ toan hợp quân các trấn về đánh kiêu binh, nhưng kiêu binh giữ chặt chúa Trịnh Tông nên âm mưu bất thành. Kiêu binh áp lực bãi chức Nguyễn Khản và giáng chức Nguyễn Điều, hai người về Hà Tĩnh. Nguyễn Điều về huyện Thanh Chương lập nhà ở đấy, khi nghe nhà Trịnh mất, ông uất ức mà chết năm 1786.

1786 Tây Sơn ra Bắc,  Nguyễn Khản từ Hà Tỉnh  theo ghe mành ra Bắc  giúp chúa Trịnh chủ trương đóng quân theo lối vẩy sộp (theo Lê Quý Kỷ sự) , nhưng kiêu binh vu cáo ông rước giặc Tây Sơn về. Nguyễn Khản phải bỏ chạy, ông mất trong hoàn cảnh đó, thi hài được đưa về an táng tại Hà Tĩnh.

1787 Nguyễn Du, Nguyễn Quýnh cùng Cai Gia Nguyễn Đăng Tiến, quyền trấn thủ Thái Nguyên khởi nghĩa tại Tư Nông thất bại, bị bắt và cùng được Vũ Văn Nhậm tha chết. Họ đi sang Vân Nam. Nguyễn Quýnh quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi,  dinh thự và làng Tiên Điền bị đốt sạch.

1787. Đến Vân Nam, Nguyễn Du bị bệnh ba tháng mùa xuân. Hết bệnh, họ đi Liễu Châu và chia tay, Nguyễn Đại Lang về thăm quê nhà vùng Quế Lâm, cao sơn lưu thủy. Nguyễn Du đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc trong áo mũ nhà sư mang danh Chí Hiên, từ Quảng Tây theo thuyền đi dọc sông và Hồ Động Đình đến Hán Khẩu, rồi theo sông Hán rồi lên Trường An viết bài Dương Quý Phi, Bùi Tấn Công mộ, Phân Kinh thạch đài, rồi lại theo kinh Đại Vận Hà đến Hàng Châu .

1790 Tại Hàng Châu Nguyễn Du cư ngụ tại chùa Hổ Pháo bên Tây Hồ, nơi Từ Hải tức Minh Sơn Hoà thượng từng tu hành, trước khi đi giang hồ thành cướp biển. Tại đây Nguyễn Du có được bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Gặp lại Nguyễn Đại Lang tại miếu Nhạc Phi cũng bên cạnh Tây Hồ, (nơi đây Nguyễn Du viết 5 bài thơ, một bài Nhạc Phi, hai bài Tần Cối và hai bài Vương Thị), sau đó hai người đi Yên Kinh (gặp vua Lê Chiêu Thống), trở về Hoàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn sứ đoàn Tây Sơn tại một lữ quán, gặp bạn văn chương, Nguyễn Du bàn chuyện sôi nổi về Hồng nhan đa truân. Đoàn Nguyễn Tuấn viết hai bài thơ tặng văn nhân họ Nguyễn. Nguyễn Du về Long Châu và trở về Thăng Long.

1790-1793. Nguyễn Du về ở với anh Nguyễn Nể, đang làm quan Tây Sơn tại Bắc Thành giữ chức Hàn Lâm thị thư, sung chức Phó sứ tuế công, năm 1791 đi sứ về, đã xây dựng lại một phần dinh thự Bích Câu, tại đây Nguyễn Du nghe cô Cầm, người nhạc nữ cũ cung vua Lê đánh đàn. Nhưng Nguyễn Du thường ở gác tía, nơi câu cá anh Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân. Tại đây Nguyễn Du quen biết Xuân Hương Hồ Phi Mai, mối tình ba năm.

1794. Nguyễn Nể được triệu về Phú Xuân thăng chức Đông Các Đại Học Sĩ, gia tăng Thái Sử Tả Nghị Lang, chức vụ thầy dạy vua Cảnh Thịnh. Nguyễn Nể giao phó cho hai em Nguyễn Du và Nguyễn Ức tiền bạc để về Tiên Điền xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền. Về Phú Xuân, quyền hành nhà Tây Sơn trong tay Thái sư Bùi Đắc Tuyên, cậu vua Cảnh Thịnh, Thái sư đày Quân sư Trần Văn Kỷ ra Hoàng Giang làm lính thú. 1795  Nguyễn Nể xin ra Quy Nhơn vừa mới lấy được từ vua Trung Ương  Nguyễn Nhạc, trấn đóng để tránh xa xung đột triều đình, cuối năm được cử làm Chánh Sứ (Hành Khánh Sứ) lễ bộ mừng lễ truyền ngôi vua Càn Long cho vua Gia Khánh.

1794-1796. Nguyễn Du về Tiên Điền, bị bệnh ba tháng cuối năm. Ở nhà cạnh  Giang Đình bến sông để tiếp nhận  mua gỗ đá, vật liệu chở bằng thuyền.  Nguyễn Ức vẽ kiểu và chỉ huy thợ xây cất. Nguyễn Du trao đổi thơ với Hồ Xuân Hương. Nguyễn Du đi săn làm Hồng Sơn liệp hộ. Nguyễn Du có vào Phú Xuân thăm anh và nhận một món tiền khác.

1796. Công việc xây dựng tạm xong. Nguyễn Du làm Nam Hải Điếu đồ, người đi câu biển Nam Hải toan theo thuyền về Nam. Lúc này chúa Nguyễn Ánh đã đánh chiếm đến thành Diên Khánh (Nha Trang). Nguyễn Du bị quận công Nguyễn Văn Thận trấn thủ Hà Tĩnh bắt giam mười tuần. Nguyễn Du trở ra Thăng Long thì hay tin Hồ Xuân Hương đã đi lấy chồng thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du viết hai bài thơ ký tên Chí Hiên oán trách nàng tệ bạc. Hồ Xuân Hương vẫn trân trọng chép trong Lưu Hương Ký. Nguyễn Du sang nhà Đoàn Nguyễn Tuấn, anh Nguyễn Nể  cũng vừa đi sứ về được thăng chức Hữu Trung Thư, chức vụ quân sư cho vua Cảnh Thịnh, trước biến loạn triều đình Nguyễn Nể xin ra xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An thay Trần Quang Diệu.

1797-1801  Nguyễn Nể cùng Đoàn Nguyễn Tuấn tác thành hôn nhân cho Nguyễn Du cùng Đoàn Nguyễn Thị Huệ và giao cho gia trang ở Quỳnh Hải. Từ đây Nguyễn Du có vợ con sống hạnh phúc chấm dứt cuộc đời gió bụi. Nguyễn Du hoàn tất Truyện Kiều, dạy văn, dạy võ chiêu tập thủ hạ tại Quỳnh Hải.

1801 Nguyễn Nể được lệnh vua Cảnh Thịnh đưa La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp vào chầu, còn ở Phú Xuân thì kinh đô thất thủ. Nguyễn Nể và La Sơn Phu Tử được vua Gia Long gọi ra. Nguyễn Nể dâng sớ được trọng dụng khen thưởng và cho theo xe vua ra Bắc chỉ dẫn nghi lễ cho sứ đoàn ngoại giao Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức đi sứ. Nguyễn Thiếp được cho về quê quán.

1802. Vua Gia Long ra Bắc truy lùng vua Tây Sơn Cảnh Thịnh. Nguyễn Du dẫn học trò, tráng đinh mang lương thực, bò, ngựa từ Quỳnh Hải đón đường đi gặp vua Gia Long, đến huyện Phù Dung thì gặp vua, vua phong ngay làm tri huyện Phù Dung. Việc này tương tự với Phi Tử đời Chiến Quốc  dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương được chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử, Nguyễn Hành bài Đi Săn có nhắc đến danh hiệu này.

1803. Làm Tri huyện được mấy tháng nhờ tài nói lưu loát ngôn ngữ Trung Quốc trong thời gian đi giang hồ và tài năng ứng đối thi ca. Nguyễn Du được thăng Tri phủ Thường Tín lên Lạng Sơn đặc trách tiếp sứ sang phong vương cho vua Gia Long cùng Tri phủ Thượng Hồng Trần Quý Chuyên. Tri phủ Thiên Trường Ngô Nguyên Viễn, Tri phủ Tiên Hưng Trần Lưu. Thơ tống tiễn do Nguyễn Du viết.

1804. Xong việc ngoại giao tiếp sứ, Nguyễn Du trở về Thường Tín, vợ mất để lại một con Nguyễn Tứ. Nguyễn Du cáo bệnh xin nghĩ một tháng về quê. Nguyễn Du tìm về Cổ Nguyệt Đường mong nối lại duyên xưa thì Hồ Xuân Hương đang làm lẽ Cai Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa ở Vĩnh Yên, nàng đau ốm tâm sự như nàng Tiểu Thanh. Bên song cửa Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh Ký gửi Hồ Xuân Hương và tự hỏi : Ba trăm năm lẽ nữa ai khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh. Đó là lý do bài Độc Tiểu Thanh Ký nằm cuối Thanh Hiên thi tập, và hai chữ tố như chỉ có nghĩa là người phẩm hạnh cao quý như thế (như nàng Tiểu Thanh).

1805 Nguyễn Du được thăng Đông Các học sĩ, hàm ngũ phẩm, tước Du Đức hầu vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Chức vụ dâng sách cho vua Gia Long đọc mỗi ngày. Nguyễn Nể về quê bị Tri phủ Trần Văn Chiêu truy bức ông uất ức mà chết.

1807 Làm giám khảo trường thi Hương, Hải Dương.

1808 Mùa thu, xin về quê nghỉ.

1809 Đầu năm được bổ làm Quan Cai Bạ (Trấn thủ) doanh Quảng Bình, một trong bốn doanh đất kinh kỳ,  hàm tứ phẩm.

1812 Cuối năm Nguyễn Du xin về quê xây mộ cho anh Nguyễn Nể, được hai tháng thì có chiếu chỉ triệu vào kinh.

1813 Thăng Cần Chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc. viết Bắc Hành tạp lục.

1815 Thăng Hữu Tham tri Bộ Lễ hàm Tam phẩm.

1816 Kết thúc vụ án Nguyễn Văn Thuyên. Trung Quân thống lĩnh toàn quân đội Nguyễn Văn Thành tự tử. Anh rễ Nguyễn Du, Tiến sĩ Vũ Trinh thầy dạy Nguyễn Thuyên bị giam hậu và đày đi Quảng Nam 12 năm. Vụ án Binh bộ Thượng Thư Đặng Trần Thường, vụ án Trần Phúc Hiển chồng Hồ Xuân Hương.

1818. Trần Phúc Hiển bị xử tử,  Hiệp trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán, thi tướng Tao Đàn Cổ Nguyệt Đường chết, có lẽ tự tử.

1819 Được cử làm Đề Điệu Trường Thi Quảng Nam, Nguyễn Du dâng biểu cố từ được vua chuẩn y.

1820. Gia Long mất, Minh Mệnh lên ngôi cử Nguyễn Du làm Chánh sứ đi báo tang và xin thụ phong; Chưa kịp đi thì bị bệnh dịch mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức ngày 16-9-1820. Ngô Thời Vị làm Chánh sứ thay thế.  Thi hài  Nguyễn Du được an táng đồng Bầu Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền Thừa Thiên. Năm 1924 con là Nguyễn Ngũ cải táng đưa về làng Tiên Điền.

ĐÍNH CHÁNH NHỮNG SƠ SÓT

Đọc sách anh Hoàng Khôi, tôi xin nhặt ra những sơ sót, và bổ túc thêm những chi tiết, mong rằng anh sẽ chữa lại, mài dũa thêm viên ngọc quý để trở thành một tác phẩm hoàn hảo tuyệt tác, nếu có thì giờ viết thành kịch bản truyện phim cũng nên.

Trang 14, Trấn Sơn Nam thời Lê, đến đời Gia Long được chia làm Sơn Nam Thượng đặt trị sở tại Châu Cầu. Sơn Nam Hạ đặt trị sở tại Nam Định.  Sang năm 1831 đời Minh Mạng  chia Sơn Nam Thượng gồm hai tỉnh Hà Nội và tỉnh Hưng Yên. Sơn Nam Hạ chia làm hai  tỉnh Nam Định và Thái Bình.

Đời Gia Long, Bắc Thành có 11 trấn : gồm 5 nội trấn là Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ. 6 ngoại trấn là : Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hưng Hóa, Yên Quảng. Ngoài ra có hai đạo Thanh Bình (Ninh Bình) và Hoà Bình và phủ Hoài Đức gồm Thăng Long và vùng phụ cận. Do đó Ninh Bình và Thăng Long đời Gia Long về trước, không thuộc về Sơn Nam.

Trang 18. Bà Đặng Thị Thuyết (không phải Tuyết) sinh mẫu Nguyễn Điều, em bà chánh thất Đặng thị Dương. Bà Nguyễn Thị Xuân quê Bắc Ninh, sinh mẫu NguyễnTrứ, Nguyễn Nghi  thay vì bà Hồ Thị Ngạn ( là sinh mẫu Nguyễn Nhưng, thay vì Nguyễn Nhung).

Mẹ Nguyễn Du là Trần Thị Tần, con người thuộc hạ làm chức Câu kế lo việc kế toán, quản gia cho cụ Nguyễn Nghiễm, quê làng Hoa Thiều họ này có hai người đỗ Tiến Sĩ, bà Tần là vợ thứ ba có con đông nhất (Nguyễn Trụ, Nguyễn Nể, Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du, Nguyễn Ức) . Do đó tôi nghĩ mẹ Nguyễn Du là người có thế lực trong gia đình, chứ không phải là mối tình qua đường, số phận người hầu, con mọn như anh Hoàng Khôi viết ? Theo phong tục ngày xưa bà chánh thất thường do cha mẹ hỏi cưới để làm dâu phụng thờ cha mẹ, cai quản gia trang nguyên quán, bà thứ hai do bà cả cưới cho chồng, thường là em hay họ hàng của mình để “làm bạn” cho mình. Bà ba là người được chồng lựa chọn, theo chồng đi khắp các nơi trấn nhậm và được chồng yêu thương nhất, có nhiều quyền hành nhất và có con đông nhất. Cụ Nguyễn Nghiễm có tám bà vợ và 21 người con.  Thường các gia đình quan lớn ngày xưa, bà chánh thất giữ sổ sách kế toán và tiền bạc cho một gia trang khoảng 50 người, vừa các bà, con cái người hầu, người bảo vệ, tân khách, thầy dạy văn, dạy võ…. Trong trường hợp bà cả quê mùa không biết tính toán mới có người làm câu kế.

Trang 30. Nguyễn Du không thể về  Hải An, Quỳnh Hải học với cha vợ là Đoàn Nguyễn Thục năm 1782, năm Nguyễn Du 16 tuổi vì ông Đoàn Nguyễn Thục sinh năm 1718 và mất năm 1775. Thời gian 1780- 1782 Nguyễn Khản bị phải vụ án Trịnh Tông, nên bị giam lỏng, chúa nghĩ tình bạn cũ tha không giết, do đó Nguyễn Khản không thể cưới vợ cho em, người trụ cột trong gia đình như thế, thì còn vui gì mà lấy vợ. Nguyễn Du về Hồng Lĩnh học với chú là Nguyễn Trọng. Trong bài thơ Tặng Thực Đình năm 1794 có câu : La Thành nhất biệt thập niên thâm. Một biệt La Thành đã chục năm. Nguyễn Du có bạn ở thành Nghệ An trước năm 1783, sau đó Nguyễn Du ra thi Hương trường Sơn Nam, Nam Định, đỗ Tam Trường (đỗ trường  thi, phú, chiếu biểu và hỏng kỳ tứ trường thi văn sách). Năm 1783 Nguyễn Du không thể vừa trấn đóng Thái Nguyên, vừa ở quê vợ Quỳnh Hải ?

Trang 98 bài biệt Nguyễn Đại Lang  hai câu Tống quân quy cố khâu, Ngã diệc phù Giang Hán (Tiễn anh về quê cũ, Tôi sang sông Hán đây) Nguyễn Du tiễn Nguyễn Đại Lang về quê cũ vùng Quế Lâm nơi cao sơn lưu thủy, vùng Việt Đông nơi quê hương người Choáng, (Tráng) người Việt cổ thời Việt Vương Câu Tiễn và Triệu Đà, ngày nay còn 15 triệu người vẫn còn giữ tiếng nói. Và cho biết mình sẽ sang sông Hán để đi Trường An. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi dịch thành Tiễn anh về núi cũ, tôi cũng trẩy sang sông, bỏ sót mất địa danh Giang Hán.

Hai câu : Sinh tử giao tình tại, Tồn vong thổ tiết đồng cho biết Nguyễn Du có kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Đại Lang, cùng khởi nghĩa bị bắt và được tha.

Trang 109, 114,115 hai bài Sơn Thôn và Sơn Cư Mạn Hứng tả cảnh Vân Nam nơi non sâu lớp lớp, Trưởng giả còn ăn mặc theo nhà Hán, ở trong núi (lịch theo Tây Tạng) không theo lịch nhà Tần. Phạm Tú Châu dịch áo mũ người già và lịch năm trong túi không đúng.  Ông Quách Tấn dịch  câu Nam khứ Trường An thiên lý dư (Phía Nam ngàn dậm cách Trường An), thành Ngoảnh lại trời Nam khuất Đế thành không đúng. Vì ông không nghĩ Vân Nam cách Trường An ngàn dậm. Nếu Trường An là Thăng Long hay Phú Xuân thì Nguyễn Du không thể ở cách hơn ngàn dậm phía Nam. Bài Thu Chí câu Tuyết ám cùng thôn hiểu giác ai (Tuyết xuống làng xa não tiếng tù) ông Phạm Khắc Khoan, Lê Thước dịch Cõi sớm làng xa tuyết phủ đầy, thiếu tiếng tù nghe ai oán, não ruột và tù và là một nhạc khí thường dùng ở Vân Nam. Cảnh tuyết này không thể ở vùng Quảng Tây được.

Trang 105, 106 bài Thôn dạ Nguyễn Du viết ở Hồng Lĩnh câu Niên niên kết đắc ngư tiều lữ – Ngư tiều là bạn quanh năm đó, Nguyễn Du đang đi giang hồ không thể kết bạn với ngư tiều quanh năm, bài Giang đầu tản bộ viết ở Quảng Bình câu Bất tài đa khủng tốc quan phi – Bất tài quan vẫn sợ đơn sai, không hợp với thời đi giang hồ, chưa làm quan.

Trang 111, 112 bài Pháo Đài: Nam Bắc xa thư khánh đại đồng – Nam Bắc mừng nay cuộc đại đồng, thống nhất Nam Bắc sau Trịnh, Nguyễn phân tranh,  trong Nam Trung Tạp ngâm, Nguyễn Du làm lúc làm quan Cai Bạ (Trấn Thủ) ở doanh Quảng Bình, chép vào cảnh lúc Nguyễn Du đi giang hồ ở Trung Quốc không đúng.

Trang 116 bài , Thu dạ II Nguyễn Du trả lời họa bài Thu Vũ của Hồ Xuân Hương, Xuân Hương khóc khi nghe tin Nguyễn Du bị bệnh ba tháng cuối năm ở Hồng Lĩnh (Xem Phạm Trọng Chánh. Đi tìm Cổ Nguyệt Đường và mối tình Nguyễn Du & Hồ Xuân Hương (trang Văn hóa Nghệ An).

Trang 123 Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương nghìn lượt (Bài Phân Kinh Thạch đài), vì thời bấy giờ, Lê Quý Đôn có viết quyển Kinh Kim Cương chú giải, được trí thức Bắc Hà yêu chuộng, được nhà chùa Thăng Long khắc bản in. Lê Quý Đôn nhà bác học, là một thần tượng thời bấy giờ, khi mất được chúa Trịnh để tang bãi chầu ba ngày, việc hiếm có. Nguyễn Du tất có bên mình quyển Kinh của Lê Quý Đôn chú giải. Trên bước đường giang hồ đi Trung Quốc, Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương nghìn lượt, tức là ba năm, ngày đi du lịch tối về một ngôi chùa trên đường đi tụng kinh làm công quả, nhà chùa thết đãi món chay rau đậu. Đây là một chi tiết khá thú vị.

Trang 163, năm 1790, Nguyễn Du đọc Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở Hàng Châu, lúc đó Nguyễn Du mới 24 tuổi, chưa đến tuổi “tam thập nhi lập”.

Trang 170, Nguyễn Nể có hai lần đi sứ. Lần thứ nhất năm 1789 sứ bộ đầu tiên của Tây Sơn, Vũ Huy Tấn Chánh sứ, Nguyễn Nể làm Phó sứ. Vũ Huy Tấn đi sứ lần thứ nhất trở về, lại ở trong sứ đoàn đi sứ lần thứ hai năm 1790. Theo học giả Thái Văn Kiểm, Nguyễn Nể đi sứ đến năm 1791 mới về, (trong bài Nguyễn Du đi sứ, Việt Nam Gấm Hoa, Làng Văn Canada xb 1797 tr 101). Khi sứ thần nhà Thanh sang Thăng Long phong vương cùng năm, có cả Nguyễn Nể và Đoàn Nguyễn Tuấn tiếp rước, Đoàn giới thiệu với các sứ thần nhà Thanh: Quế Hiên Nguyễn Nể là đỉnh cao thi trận nước Nam. Lần thứ hai năm 1795 làm Chánh Sứ (Hành Khánh sứ) sang mừng lễ vua Càn Long truyền ngôi cho con là Gia Khánh. Có thể Nguyễn Nể có trong sứ bộ năm 1790 do Phan Huy Ích làm Chánh sứ, có Đoàn Nguyễn Tuấn, đoàn có 158 người, có ông vua Quang Trung giả do Phạm Công Trị đóng vai và hoàng tử Quang Thùy. Như thế Nguyễn Nể đi sứ ba lần chăng?

Nguyễn Công con Nguyễn Khản và Nguyễn Thiện con Nguyễn Điều có tham gia Sùng Chính Viện của Nguyễn Thiếp. Nguyễn Nhưng, đậu Tứ Trường đời Lê, đời Tây Sơn có ra làm Trấn Thủ Sơn Tây  thay thế Nguyễn Công Tấn thân phụ Nguyễn Công Trứ năm 1801. Nhà Nguyễn lên ông ở ẩn làm nghề thuốc.

Trang 171 Hai bài thơ Đoàn Nguyễn Tuấn tựa : Chí Hoàng Châu thích Nguyễn khế văn tự Yên Kinh hồi tẩu bút tặng chi. Đến Hoàng Châu thì vừa vặn gặp người bạn văn chương họ Nguyễn từ Yên Kinh trở về bèn phóng bút làm thơ tặng. Bài tựa chứng tỏ Nguyễn Du đã lên Yên Kinh và trở về. Sự kiện vua Lê Chiêu Thống và các quan lại đi theo muốn nhà Thanh làm áp lực để xin đất Thái Nguyên, Tuyên Quang mà không xin đất Cao Bằng như nhà Mạc, chứng tỏ đã gặp cựu trấn thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến.

Trang 178, Bài Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang, đặt Nguyễn Du chia tay cùng Nguyễn Đại Lang tại Hoàng Châu không đúng vì có địa danh Liễu Cao Lâm. Liễu Châu ở vùng rừng cao nguyên, nơi sản xuất gỗ nam mộc đóng hòm rất tốt, giữ thi thể rất lâu (Trung Quốc có câu : sống ở Hàng Châu, cưới vợ Tô Châu, ăn ở Quảng Châu và chết ở Liễu Châu). Từ Vân Nam vùng núi, về đến Liễu Châu vùng cao nguyên, đến Quế Lâm là đồng bằng. Trong thơ Nguyễn Du, Tây phong thường ám chỉ quân Tây Sơn:  Vì quân Tây Sơn ra Bắc cho nên chúng ta lưu lạc nơi chốn rừng cao nguyên Liễu Châu, Tây phong qui tụ Liễu rừng cao. Ông Trương Chính trong Thơ  Chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn Học 1965, vì không nghĩ đó là địa danh, nên cho rằng câu thơ không đúng cú pháp, ông chữa thành :Tây phong tiêu táp phất cao lâm, Gió Tây thổi qua ống tay áo phơ phất cành liễu. Ông Đào Duy Anh giữ nguyên nhưng dịch thành Rừng liễu ra về buổi gió Tây. Chữ ra về ngược lại với nghĩa chữ qui tụ.

Trang 181, Đoàn Nguyễn Thục mất năm 1775, 57 tuổi, năm 1790 Đoàn Nguyễn Thị Huệ 16 tuổi, mồ cô cha lúc một tuổi, có thể con thứ thiếp, được anh cả Đoàn Nguyễn Tuấn nuôi dưỡng và kết hôn cùng Nguyễn Du năm 1796,  21 tuổi.

Trang 214, cụ Đồ Diễn đã mất năm 1786, thọ 83 tuổi. Do đó năm 1790 -1793, ba năm mối tình Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, thì cụ Đồ Diễn không còn nữa. Hồ Xuân Hương nếu sinh năm 1772 lúc đó đã 18 – 21 tuổi với tài hay chữ có thể đã dạy trẻ học vỡ lòng. Văn bản Landes, Lê Quý chép thường tả Hồ Xuân Hương đi đâu cũng có 5, 7 đứa hầu gái, có lẽ là học trò. Làng Nghi Tàm sau khi cụ Đồ Diễn có Tử Minh tức Cả Tân học trò cụ Đồ Diễn dạy học, Tử Minh mất 40 tuổi năm 1811, Hồ Xuân Hương sau mười năm phong trần : Thập tải phong trần quán nhỉ linh, mười năm phong trần như ăn trộm bịt tai đi trộm chuông (lấy lẽ Cai Tổng Cóc, trở về mở hiệu sách, rồi đi buôn, vì tình bất an vùng Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ do loạn Đặng Trần Siêu, Võ Đình Lục thường chặn đường cướp bóc các thương nhân, nàng thôi đi buôn). Làng Nghi Tàm mời Xuân Hương  thay Tử Minh dạy học. Học trò các lớp thi Hương sang học với ông nghè Phạm Quý Thích. Nguyễn Thị Hinh tức Bà Huyện Thanh Quan, sinh sống cùng làng Nghi Tàm, học với Hồ Xuân Hương sau đó học với Tiến Sĩ Phạm Quý Thích cùng thời với Phương Đình Nguyễn Văn Siêu.

Trang 234 : năm 1774 cụ Nguyễn Nghiễm cầm quân dẹp loạn vùng Hội An, điều này không đúng. Đó là cuộc chiến lớn chấm dứt Trịnh Nguyễn phân tranh sau hơn 200 năm. Nhân tại Phú Xuân, Trương Phúc Loan chuyên quyền, Tây Sơn nổi dậy đánh phá chiếm từ Bình Định tới Diên Khánh. Chúa Trịnh Sâm biết như vậy bèn sai đại tướng là Hoàng Ngũ Phúc, cùng Nguyễn Nghiễm làm Tả Tướng quân đem thủy bộ 3 vạn quân cùng Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể, Hoàng Đình Bảo vào đất Bố Chính để đánh họ Nguyễn, giả vào đánh Trương Phúc Loan. Các quan ở Phú Xuân bèn bắt Phúc Loan đem nộp. Nhà Trịnh thừa cơ chiếm lấy Phú Xuân, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem sắc phong cho Nguyễn Nhạc trấn thủ đất Quảng Nam. Các chúa Nguyễn,Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương bị Nguyễn Huệ đuổi bắt và giết chết, chỉ còn Nguyễn Ánh 17 tuổi chạy thoát. Trong trận này quân nhà Trịnh hàng ngàn người bị bệnh dịch. Cụ Nguyễn Nghiễm cũng nhiễm bệnh đưa về quê quán Tiên Điền dưỡng bệnh. Năm 1776 cụ mất tại quê nhà.

Trong tình hình đọc sách hiện tại trong nước và hải ngoại, mỗi người Việt Nam đọc không đến một quyển sách một năm, các nhà xuất bản tại hải ngoại chỉ sống nhờ sự hy sinh của tác giả, tự viết tự bỏ tiền in, không kể gì lời lỗ. Sách gửi đi các nơi không hy vọng gì thu tiền lại. Trong nước sách in được 1500 quyển như  Nguyễn Du trên đường gió bụi anh Hoàng Khôi là thuộc loại khá. Đáng cho chúng ta khuyến khích. Phải chăng vì thiếu sách hay, các nhà văn ngày nay không đủ sức hấp dẫn lôi kéo người đọc chăng. Nghĩ lại ngày xưa thời Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới, những năm 1930-1940 mỗi năm người đậu Tú Tài chỉ vài chục người, người biết chữ quốc ngữ có là bao nhiêu trên 25 triệu dân thế mà sách  đã tạo ra những trào lưu văn học lớn mạnh. Ngày nay chúng ta có 90 triệu dân trong nước và 4 triệu người Việt hải ngoại, mà tình hình sách vở còn thua các nước nhược tiểu, nghĩ thật đáng buồn. Chúng ta không nâng cao được dân trí, mà dân trí lại thụt lùi.  Được một nhà văn như anh Hoàng Khôi, hy sinh thức đêm thức hôm để viết sách, để mua vui một vài trống canh, tôi mừng và mong có nhiều người như anh Hoàng Khôi. Đừng để các thế hệ mai sau không còn biết viết văn, biết đọc mà chỉ còn biết bấm mấy câu vớ vẫn trên điện thoại di động.

Paris 9-11-2013

Từ khóa:

Các bài viết liên quan:

Tiếp nhận cuốn “Kim Túy Tình Từ – Truyện Kiều ” gần 100 năm

Ban Quản lý di tích Nguyễn Du ( Hà Tĩnh) vừa tiếp nhận cuốn “Kim Túy Tình Từ” nhân dân ta thường gọi là “Truyện Kiều” dịch ra chữ Quốc ngữ in năm 1917 từ Họa sỹ Lê Anh Tuấn – Hội Viên Hội Mỹ thụật Việt Nam.

NGUYỄN DU TRĂNG HUYỀN THOẠI
Hoàng Kim

Vị thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình chùa cổ Thủ Đức trong giấc mơ lạ Nguyễn Du nửa đêm đọc lại đã khuyên tôi viết Nguyễn Du trăng huyền thoại bằng cách lập “Nguyễn Du niên biểu luận” cuộc đời và thời thế Nguyễn Du để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy của thời ấy về những sự kiện trọng yếu của thời thế đã gợi ý chi phối thế xuất xử của Nguyễn Du bình sinh và hành trạng, để hậu thế chúng ta có thể hiểu đúng sự thật và huyền thoại về ông. Những sự kiện chính tại đàng Trong và đàng Ngoài với các nước liên quan trong hệ quy chiếu lấy chính Nguyễn Du và gia tộc của ông làm trung tâm sẽ là dẫn liệu thông tin thực sự có ích để thấu hiểu chính xác ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người, bối cảnh hình thành kiệt tác “300 năm nữa chốc mòng Biết ai thiên ha khóc cùng Tố Như” xem tiếp http://hoangkimlong.wordpress,com/category/nguyen-du-trang-huyen thoại

Tác phẩm bao gồm chín bài, mục lục như sau: 1 Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người, Đấng danh sĩ tinh hoa, Nguyễn Du khinh Thành Tổ, Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền, Trung Liệt đền thờ cổ, “Bang giao tập” Việt Trung, Nguyễn Du niên biểu luận 3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng, “Tỏ ý” lệ vương đầy, Ba trăm năm thoáng chốc, Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”, Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”, Bến Giang Đình ẩn ngữ, Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ, Mười lăm năm lưu lạc, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ, Tình hiếu thật phân minh 6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn, Ẩn ngữ giữa đời thường, Nguyễn Du ức gia huynh, Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan, Chính sử và Bài tựa, Gia phả với luận bàn. Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âm Hồ Xuân Hương là ai, Kiều Nguyễn luận anh hùng, Thời Nam Hải Điếu Đồ, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ 9 Nguyễn Du trăng huyền thoại Đi thuyền trên Trường Giang,Tâm tình và Hồn Việt, Tấm gương soi thời đại. Mai Hạc vầng trăng soi,

Tôi viết Nguyễn Du trăng huyền thoại cho những ai vốn thích Nguyễn Du và Truyện Kiều nhưng chỉ có sách Truyện Kiều và một ít bộ sách quý có liên quan mà chưa thể có thời gian đào sâu tìm hiểu về bộ kiệt tác văn chương Việt kỳ lạ này với những ẩn ngữ thời thế cuộc đời Nguyễn Du lắng đọng vào trang sách. Bạn đọc để đỡ tốn công, tôi xin có ít lời hướng dẫn cách đọc chùm 9 bài này như sau. Đầu tiên bạn nên đọc bảng Mục lục chín bài viết này và xác định mình cần đọc bài nào trong chín bài viết ấy sau đó bấm thẳng vào đường dẫn có tại trang ấy liên kết với chín bài; Thứ hai mời bạn đọc ngay bài bảy mục 2 va 3 đó là Chính sử và Bài tựa/ Gia phả với luận bàn. Muốn hiểu thêm Nguyễn Du trăng huyền thoại cần tìm đọc những sách và tác giả giới thiệu trong bài này và có sự định kỳ cập nhậti. Thứ ba Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều là sự suy ngẫm lắng đọng.

Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn, là minh sư hiền tài lỗi lạc, là nhà thơ lớn danh nhân văn hóa thế giới, là một hình mẫu con người Việt Nam thuộc về văn hóa tương lai, là một tấm gương trong về phép ứng xử chí thiện, nhân đạo, minh triết giữa thời nhiễu loạn. Ông là tác giả của.Truyện Kiều và Bắc hành tạp lục bài học tâm tình Việt đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới. Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766, nhằm ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu, ở Thăng Long, Hà Nội, mất ngày 16 tháng 9 năm 1820 nhằm ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn.

Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều tóm tắt như sau

1. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là danh sĩ tinh hoa, đấng anh hùng hào kiệt minh sư hiền tài lỗi lạc.

2. Nguyễn Du rất mực nhân đạo và minh triết, ông nổi bật hơn tất cả những chính khách và danh nhân cùng thời. Nguyễn Du vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” (Joocjo Budaren nhà văn Pháp). Ông chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Kiều Nguyễn Du là bài học lớn về tâm tình hồn Việt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới.

3. Nguyễn Du quê hương và dòng họ cho thấy gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền là dòng họ lớn đại quý tộc có thế lực mạnh “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Vị thế gia tộc Nguyễn Tiên Điền đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm mọi cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản. Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều là di sản muôn đời, kiệt tác Bắc hành tạp lục 132 bài, Nam trung tạp ngâm 16 bài và Thanh Hiên thi tập 78 bài, là phần sâu kín trong tâm trạng Nguyễn Du, tỏa sáng tầm vóc và bản lĩnh của một anh hùng quốc sĩ tinh hoa, chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại. Đặc biệt “Bắc Hành tạp lục” và Truyện Kiều là hai kiệt tác SÁCH NGOẠI GIAO NGUYỄN DU sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa làm rạng danh nước Việt được ghi trong chính sử nhà Nguyễn và và ngự chế Minh Mệnh tổng thuyết

4. Nguyễn Du niên biểu luận, cuộc đời và thời thế là bức tranh bi tráng của một bậc anh hùng hào kiệt nhân hậu, trọng nghĩa và tận lực vì lý tưởng. Nguyễn Du đã phải gánh chịu quá nhiều chuyện thương tâm và khổ đau cùng cực cho chính ông và gia đình ông bởi biến thiên của thời vận”Bắt phong trần phải phong trần.Cho thanh cao mới được phần thanh cao“. Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765-1780) mẹ mất sớm, ông có thiên tư thông tuệ, văn võ song toàn, văn tài nổi danh tam trường, võ quan giữ tước vị cao nơi trọng yếu; người thân gia đình ông giữ địa vị cao nhất trong triều Lê Trịnh và có nhiều người thân tín quản lý phần lớn những nơi trọng địa của Bắc Hà. Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796) Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802) là giai đoạn đất nước nhiễu loạn Lê bại Trịnh vong, nội chiến, tranh đoạt và ngoại xâm. Nguyễn Du và gia đình ông đã chịu nhiều tổn thất nhưng ông kiên gan bền chí, tận tụy hết lòng vì nhà Lê “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành“. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802- 1820) ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại Truyện Kiều và “Bắc Hành tạp lục” không chỉ là kiệt tác sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa  làm rạng danh nước Việt mà còn là di sản lịch sử văn hóa mẫu mực của dân tộc Việt.

5. Minh triết ứng xử của Nguyễn Du là bậc hiền tài trước ngã ba đường đời là phải chí thiện và thuận theo tự nhiên “Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi” Nguyễn Du ký thác tâm sự vào Truyện Kiều là ẩn ngữ ước vọng đời người, tâm tình và tình yêu cuộc sống “Thiện căn cốt ở lòng ta, Chữ tâm kia mới thành ba chữ tài” .

6. Truyện Kiều có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng đã trở thành hồn Việt, và là tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và trên 73 bản dịch. Giá trị tác phẩm Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có sự tương đồng với kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.nhưng khác chiều kích văn hóa giáo dục và giá trị tác phẩm.

7. Nhân cách, tâm thế của con người Nguyễn Du đặt trong mối tương quan với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh của thời đại Hậu Lê Trịnh – nhà Tây Sơn – đầu triều Nguyễn; khi so sánh với Tào Tuyết Cần là văn nhân tài tử của thời đại cuối nhà Minh đến đầu và giữa nhà Thanh thì vừa có sự tương đồng vừa có sự dị biệt to lớn.

8. Gia tộc của Nguyễn Quỳnh – Nguyễn Thiếp – Nguyễn Du tương đồng với gia tộc của Tào Tỷ – Tào Dần – Tào Tuyết Cần nhưng nền tảng đạo đức văn hóa khác nhau  Nhấn mạnh điều này để thấy sự cần thiết nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, con người tác gia, bởi điều đó chi phối rất sâu sắc đến giá trị của kiệt tác.

9. Nguyễn Du trăng huyền thoại gồm tư liệu 540 trang, là vầng trăng huyền thoại soi sáng thời đại Nguyễn Du. (Mục lục của chuyên luận này gồm 9 bài như đã trình bày ở phần trên)
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/

Nguyễn Du trăng huyền thoại
CHU MẠNH TRINH VỊNH KIỀU
Hoàng Kim

Nhà nghiên cứu Đặng Chương Ngạn, PGS TS Nguyễn Hữu Sơn Viện Văn học và tôi (TS Hoàng Kim, Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh) được mời làm chứng và trọng tài cho sự tranh luận của PGS TS Đoàn Lê Giang và nhà nghiên cứu Lê Nghị (Li Li Nghệ) “Về nguồn gốc Truyển Kiều” .

Theo tôi bằng chứng sự thật quan trọng nhất “Về nguồn gốc Truyển Kiều” là hai tác phẩm Bắc hành thi tập và Thúy Kiều truyện do Chánh sứ Nguyễn Du trực tiếp mang về Việt Nam năm 1814 sau khi ông hồi kinh, được Đại Nam chính biên liệt truyện ghi rõ trong chính sử; với bằng chứng quan trọng thứ hai liên quan “Về nguồn gốc Truyển Kiều” là Minh Mệnh tổng thuyết năm 1830 ngự chế “Thánh Thán bất phùng, hàn yên tản mạn. Hoa Đường dĩ viễn, phá bích tiêu điều”. Chỉ cần nghe chánh kiến của hai thầy lý giải đối với sự thật lịch sử chính đề này là rõ. Sự đánh giá thuộc về người đọc.

Thế nhưng, hai thầy đã thỏa thuận thống nhất là kỳ này chỉ giới hạn tranh luận trực tuyến tại Chu Mạnh Trinh Vịnh Kiều mà thôi, với chứng cứ và câu hỏi trực tiếp của hai bên, mà không bàn luận rộng ra các ý khác. Chúng tôi đã nghe rõ ý kiến của mỗi thầy rồi, nay xin nghe câu trả lời của mỗi thầy trước câu hỏi chất vấn đã có , để được lưu lại ạ.

(xem câu hỏi của thầy Li Li Nghệ ở bài HAI CÁCH HIỂU KHÁC NHAU https://www.facebook.com/linghe.li.7/posts/812211679535584)

Kim Hoàng

Đặng Chương Ngạn tuyệt vời !

Nguyễn Du trăng huyền thoại
NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU

CNM365 lưu những thông tin mới chọn lọc nghiên cứu bàn luận Nguyễn Du và Truyện Kiều. Nguồn gốc Truyện Kiều có thêm những trao đổi và kiến giải mới

“Giải pháp chữ Tâm chỉ là giá trị biểu kiến hay chính thực chất tư tưởng của nó? Thiền học, văn hóa học, phong cách học, thi pháp học, phân tâm học… Liệu có thẩm quyền đến mức nào khi can thiệp vào việc lý giải thế giới nghệ thuật của tác phẩm? Truyện Kiều không hề đóng sập cửa trước những viễn cảnh khoa học ấy. So với cuộc du hành của Nguyễn Du, Truyện Kiều đã đi xa hơn người sinh ra nó bao nhiêu cả về không gian địa lý lẫn không gian văn học. Không ai chọn sẵn cho ta con đường trong cuộc đời và trong nghệ thuật Cũng không có con đường nào giống nhau trong thế giới của sáng tạo. Đó là bài học lớn mà Nguyễn Du để lại cho hậu thế” (Trích ý kiến của GS. TS. Huỳnh Như Phương và PGS TS Đoàn Lê Giang 2015 tại bài viết đề dẫn: “Nguyễn Du trước ngã ba đường lịch sử và văn học”. Trong sách: Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du” (Kỷ yếu hội thảo khoa học) NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 2015, 997 trang của Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

Thầy Đặng Chương Ngạn đã viết thật chí lý: Thưa anh Đoàn Lê Giang , thưa anh Lê Nghị Li Li Nghệ.Tôi nghĩ trên cao xanh kia, cụ Nguyễn Du sẽ mỉn cười mãn nguyện, nếu biết sau 200 năm sau ngày cụ mất, ở hạ giới, có một cuộc thách đấu liên quan đến “ lời quê chắp nhặt” của cụ.Hai anh dù ai thắng thua, thì tất cả bạn yêu Kiều theo dõi cuộc thách đấu trong 2 ngày qua đều không thể không thán phục về kiến thức uyên thâm của hai đối thủ.Có thể có những người cao thủ ẩn danh nên chúng ta không được biết, nhưng qua tranh luận, có thể khẳng định :- Không ai sưu tầm được nhiều tài liệu về Kiều như Ts DLG và NNC Lê Nghị- Không ai tìm hiểu Kiều thấu đáo như hai vị…tại thời điểm này.

Hai ngày qua, những người theo dõi cuộc thách đấu đã đi từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác …Những người yêu Kiều có một cơ hội hiếm để sưu tầm thêm tài liệu, để học hỏi thêm kiến thức, và tôi tin rất nhiều người yêu Kiều đã phải lục tìm trong thư viện những cuốn sách cũ đã bị bỏ quên để kiểm tra lại những gì mình đã học, đã đọc về Kiều Cuộc tranh luận của hai anh không phí thời gian, rất có ích cho Kiều và cho tất cả mọi người. Thắng hay thua, các anh cũng đã làm mới lại, làm sáng tỏ …rất nhiều vấn đề mà người yêu Kiều từng nghĩ tới nhưng không có cơ hội để thực hiện !

Cuộc tranh luận của các anh đã làm sáng tỏ về từ “ Lôi Châu” – một trong những vấn đề tranh cãi khởi phát sự thách đấu.Đến bây giờ, cuộc tranh luận vẫn chưa minh định được rõ ràng việc vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh, nhưng anh Đoàn Lê Giang đã mang ra một bằng chứng thuyết phục ở status mới nhất :Tạp chí Tri Tân trong số chuyên đề kỷ niệm Nguyễn Du (63, 9/1942)…Và ở tut này, anh DLG cũng đã tuyên bố ngưng việc tranh luận và tôi chưa thấy anh LN lên tiếng tiếp.

Các anh còn tranh luận hay không…là việc riêng của mỗi người, nhưng tôi thấy các anh đều xứng đáng để tôn trọng lẫn nhau và để cùng nói chuyện tiếp về Kiều trong tương lai…Tôi viết com cuối cùng này do hai anh đã tag vào chúng tôi chứng kiến. Tôi mong hai anh TS Kim Hoàng, TS. Nguyễn Hưu Sơn sẽ có ý kiên riêng cho cuộc tranh luận này…” (Tuyệt vời ! tôi đồng tình kết luận).

Tôi (HK) đồng tình với quan điểm hệ thống kiến thức mở, đi đến cùng sự thật, của giáo sư Phạm Trọng Chánh (mặc dù không phải ý nào của giáo sư cũng đúng): ” Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà người đi sau nối tiếp người trước , làm giải quyết những nghi vấn còn tồn đọng, làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ”.

Một lần nữa cảm ơn quý Thầy về cuộc tranh luận bổ ích này để người đọc rõ hơn ai là ai, Nguyễn Du và Truyện Kiều. http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/…/chao-ngay-moi-30-thang-10/

ÔNG LI LI NGHỆ (LLN) ĐÃ CHẤP NHẬN THÁCH THỨC: NẾU TÔI CHỨNG MINH ĐƯỢC NHÓM ÔNG LLN HIỂU SAI NHAN ĐỀ “THANH TÂM TÀI NHÂN THI TẬP” THÌ TỪ NAY VỀ SAU ÔNG SẼ KHÔNG BÀN ĐẾN VĂN BẢN TRUYỆN KIỀU NỮA. NGƯỢC LẠI NẾU TÔI SAI TÔI CŨNG LÀM VẬY.

Đoàn Lê Giang cùng với Lan Nguyen và 6 người khác. 29 tháng 10 lúc 13:06

– Vừa rồi nhân có chuyện tranh luận về Kim Vân Kiều hay Truyện Kiều có trước (xem comments ở status “Hình ảnh Hội thảo” 23/10/2020). Tôi có chê nhóm ông LLN thế này: “Có mấy chữ Hán nhan đề sách nhóm các ông Li Li Nghệ đọc cũng không ra thì bàn về văn bản học làm gì! Thanh Tâm Tài Nhân thi tập của Chu Mạnh Trinh nghĩa là: Tập thơ vịnh theo Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Xem bản Hán Nôm tập này thì thấy ngay cụ Chu vịnh 20 hồi Kim Vân Kiều truyện, cụ còn cẩn thận ghi 2 câu thơ mở đầu từng hồi của Thanh Tâm Tài Nhân. Tương tự: “Thanh Tâm Tài Tử cổ kim minh lương đề vịnh tập biên” (Ký hiệu TVHN: VNv240) có nghĩa là: Tập đề vịnh của vua tôi xưa nay về Thanh Tâm Tài Tử (tức đề vịnh Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tại sao nói vậy, vì TT Tài Tử không viết gì khác ngoài KVKT. Vì thế 2 tên ấy chỉ là 1 người. Còn tại sao Tài Tử, vì có thể trong cung đình Huế người ta thấy Tài Nhân nghe có vẻ như danh hiệu cung phi nên đổi ra Tài Tử. Hơn nữa đây là sách Thánh Thán Ngoại Thư, nên gọi Tài Tử cũng hợp). Các cụ không phân biệt rành mạch TK và KVKT, mê TK nhưng đề vịnh theo 20 hồi KVKT. Nhóm các ông Li Li Nghệ không biết lập luận logic chặt chẽ, chỉ toàn suy diễn; không biết tin vào tư liệu, tư liệu nào trái ý là các ông bảo giả, kể cả tư liệu cổ ở thư viện Nhật Bản. Thế thì tranh luận cái gì. Cãi cùn cãi cố đâu phải là tranh luận học thuật.”

– Ông LLN chê tôi: “Tôi nghĩ các anh nghiên cứu còn hời hợt quá. Do đó chưa nhận ra đâu là chân- giả. Anh nói chúng tôi suy diễn ư?” Ông LLN tiếp: “Sao ông không nghĩ rằng 20 hồi của Chu Mạnh Trinh là vịnh theo truyện Kiều và Kim Vân Kiều Lục? Mở đầu Chu Mạnh Trinh nói tới Kim Vân Kiều Lục rõ ràng. Hay là ông chưa đọc KVK Lục nên không nhận ra chữ Lôi Châu?”

Vì không muốn sa vào tranh luận vô bổ, tôi đưa ra thách thức: “Nếu tôi trưng ra bằng chứng rõ ràng là Chu Mạnh Trinh họa Kim Vân Kiều truyện của TQ thì ông có dám hứa là thôi, từ nay trở đi không bàn về văn bản Truyện Kiều VN, Kim Vân Kiều truyện TQ để cho khỏi nhiễu loạn thông tin không? Nếu ông dám hứa, tôi sẽ trưng ngay. Dám nghiên cứu, dám tranh luận thì dám cầu thị, phục thiện. Ông dám không? Anh Kim Hoàng, Nguyễn Hữu Sơn làm chứng nhé.”

– Ông LLN đồng ý: “Anh cứ phản biện rằng Chu Mạnh Trinh họa KVKT chứ không phải họa KVK Lục và Truyện Kiều. Tôi sẳn sàng thay đổi ý kiến nếu bên phản biện thuyết phục.”

– Tôi gút lại: “Anh Nguyễn Hữu Sơn , Kim Hoàng, Đặng Chương Ngạn làm chứng chuyện trên nhé. Không phải chỉ thay đổi ý kiến về chuyện Chu Mạnh Trinh, mà ông Li Li Nghệ sẽ không bao giờ bàn về chuyện văn bản Truyện Kiều nữa cho khỏi rối loạn thông tin nữa. Tại sao? Tại vì chuyện đơn giản thế này mà ông Li Li Nghê còn hiểu sai thì những chuyện khác bàn làm gì!”

– Ông LLN xác định chấp nhận một lần nữa: “OK anh Giang. Tôi nói sai thì sẽ im tiếng luôn, nếu anh nói sai thì anh có vui lòng rút lại học thuật của anh không?” Tất nhiên tôi đồng ý. (Toàn bộ cuộc trao đổi có thể xem trên FB của tôi, Status “HÌNH ẢNH HỘI THẢO” ngày 23/10/2020, phần comments ở dưới. Dưới đây là một số files chụp màn hình điện thoại).

VÀO TRÀNG AN BÁI ĐÍNH
Hoàng Kim

“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”.
(ca dao cổ)

Cao Sơn thăm chốn cũ
Tràng An bao đổi thay
Minh Không thầy hái thuốc
Lững lờ mây trắng bay.

Trước khi lên Yên Tử
Vua Trần vào ở đây
Động thiêng trong núi thắm
Hạ Long cạn nơi này.

Hoa Lư, Tứ giác nước
Kẽm Trống, Dục Thúy Sơn,
“Quá Thần Phù hải khẩu”
Nhớ Nguyễn Trãi Ức Trai.

Đinh, Lê vùng khởi nghiệp
Lý, Trần, Nguyễn …vươn dài
Kỳ Lân trời bảng lãng
Hoàng Long sông chảy hoài …

SÔNG HOÀNG LONG

Hoàng Kim

Sông Hoàng Long sông Hoàng Long
Nguồn nước yêu thương chảy giữa lòng
Bái Đính Tràng An nôi người Việt
Cao Sơn thăm thẳm đức Minh Không

NGHIÊN CỨU KINH DƯỢC SƯ
Hoàng Kim

Thánh Trần Chùa Thắng Nghiêm
Trạng Trình Dưỡng Sinh Thi
Vui đến chốn thung dung
An nhiên nơi tĩnh lặng

Việc lớn đời người không gì lớn hơn Sống và Chết, mà vấn đề rất khó giải quyết cũng chỉ có sống chết mà thôi. Thiền sư Thích Phổ Tuệ Đại lão hòa thượng Pháp chủ Tổ Đình Viên Minh ấn chứng tôi và căn dặn nên dành thời gian nghiên cứu Kinh Dược Sư khi đã có một nền tảng sinh học căn bản và sự yêu thích trọn đời sống giữa thiên nhiên…

Bảy ngày đêm tỉnh lặng, tôi đã nhìn thấy sự bình tâm và an nhiên xuất hiện. Nhìn đúng và nghe đúng là nền tảng của toàn bộ lối sống đúng. Tôi bắt đầu nghiên cứu Kinh Dược Sư lắng nghe bằng tim, lọc thanh âm bằng tai, nhìn bằng mắt, nghĩ bằng đầu. Tuệ học trị tâm bệnh cứu người giúp đời còn gì vui hơn khi đã có một chút học vấn nghề nghiệp khoa học cây trồng và văn hóa giáo dục.

THÁNH TRẦN CHÙA THẮNG NGHIÊM

Thánh Trần chùa Thắng Nghiêm uy nghi, trầm tư, tỉnh lặng, đã khai mở trí huệ tôi. Chùa Thắng Nghiêm ở 38 thôn Khúc Thuỷ, xã Cự Khê, Thanh Oai, Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô khoảng 15 km về phía Nam. Chùa nằm trong quần thể Thánh tích làng Khúc Thủy, một địa phương mang đậm bản sắc văn hoá tâm linh Phật giáo với những danh thắng nổi tiếng như chùa Linh Quang, chùa Thắng Nghiêm, chùa Phúc Khê (tức chùa Dâu); đình, đền, miếu, văn chỉ, nhà thờ dân và nhà thờ các dòng họ lớn trong làng. Chùa là nơi tu hành của nhiều danh Tăng, danh Tướng thời Lý (1009-1225) và thời Trần (1225- 1400) như: Khuông Việt Quốc sư, Vạn Hạnh Quốc sư, Trùng Liên Bảo Tích Quốc sư, Đạo Huyền Quốc sư, Huyền Thông Quốc sư (Linh Thông Hòa thượng Đại vương), Hưng Đạo Đại vương…

Lịch sử chùa Thắng Nghiêm cho hay về thắng tích nơi này “Theo truyền thuyết dân gian, chùa Thắng Nghiêm được xây dựng từ rất sớm trên thế đất “Liên Hoa hàm tiếu”, từ thời kỳ Ngô Sỹ Nhiếp làm Thái thú xứ Giao Châu, năm 187-266 (Phật lịch 731-810), do ngài Tôn giả Bảo Đức (tương truyền là hoá thân của Bồ Tát Văn Thù) từ nước Thiên Trúc sang sáng lập để truyền bá Phật Pháp. Ngài đã cho xây dựng ngôi đại bảo tháp thờ xá lợi Phật (đến nay vẫn còn), nhân dân thường gọi là khu Mả Bụt. Sau thời kỳ ngài Tôn giả Bảo Đức sáng lập, tiếp đến lại có hai vị Tôn giả là Kim Trang và Kim Quốc cũng từ xứ Thiên Trúc sang hoằng truyền Chính Pháp. Hai Ngài đã cho xây dựng thêm chùa Phúc Khê, thường gọi là chùa Dâu. Trong quần thể Thánh địa Khúc Thủy, chùa Linh Quang xưa còn được gọi là chùa Quan, là nơi lễ bái của các quan lại thời phong kiến, được xây dựng trên thế đất “Kim Quy Thần hạ giang ẩm thuỷ” (Thần Kim Quy xuống sông uống nước).

Tương truyền, Đinh Tiên Hoàng đế (Đinh Bộ Lĩnh) trong một lần đi tuần thú đã dừng chân ở Khúc Thuỷ, gặp một thôn nữ xinh đẹp đang kéo hến bên sông, vua đã đưa nàng về cung làm phi tần. Thấy phong cảnh nơi đây hữu tình, thế đất lại có long chầu phượng vũ, lân ly hội tụ, nhà vua bèn cho lập dinh tại đất này và trùng tu lại chùa rồi đặt tên là chùa Pháp Vương, dân gian sau này thường gọi là chùa Bà Chúa Hến; nơi các ngài dừng thuyền được gọi là Bến Rồng hay còn gọi là Bến Ao Thuyền; nơi Ngự giá nghỉ ngơi trước khi vào lễ Phật được gọi là Dinh Vua. Dinh thự của vua chúa phong kiến các đời sau cũng được xây dựng tại đây.

Trải qua bao biến thiên của lịch sử, chùa Thắng Nghiêm đã mang nhiều tên gọi khác nhau như: chùa Bụt, chùa Pháp Vương tức chùa Bà Chúa Hến (thời nhà Đinh), chùa Thắng Nghiêm (thời nhà Lý), chùa Trì Long, chùa Trì Bồng (thời nhà Trần), chùa Liên Trì (thời nhà Lê), chùa Phúc Đống (thời nhà Nguyễn) và danh hiệu Phật Quang Đại Tùng Lâm là tên gọi chung cho cả quần thể Thánh tích. Ngày nay, nhân dân địa phương vẫn thường gọi chung là chùa Khúc Thủy vì chùa nằm trên địa phận thôn Khúc Thủy. Hiện nơi đây vẫn còn lưu giữ được 34 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến. Đặc biệt, làng Khúc Thủy đã được vua Giản Định cuối đời Trần gia phong tám chữ vàng “Khúc Thủy nghĩa dân, Mỹ tục khả phong”.

Sau khi lấy được thiên hạ từ tay nhà Tiền Lê, vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) lên ngôi, mở ra triều đại nhà Lý vào tháng 10 âm lịch năm 1009 và quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Một lần, Vua ngự thuyền Rồng từ sông Kim Ngưu qua sông Tô Lịch rồi xuôi theo dòng Nhuệ Giang ngoạn cảnh. Chợt trông thấy ngôi cổ tự trang nghiêm tú lệ ẩn hiện ứng với mộng lành năm xưa, Ngài liền cho dừng thuyền vào chùa lễ Phật. Nhìn cảnh trí thơ mộng, thế đất có long chầu phượng vũ, Ngài thốt lên: “Nơi đây thật xứng là một chốn tu hành “trang nghiêm thù thắng”, đúng là bầu trời cảnh Phật vậy”. Nh­à vua liền đặt mỹ hiệu cho vùng đất này là trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng và lập làm thang mộc ấp (ấp của vua). Sau này, Ngài thường lui tới lễ Phật, vãn cảnh. Chùa Thắng Nghiêm, trang Khúc Thủy từ đó đã trở thành nơi du ngoạn tâm linh của các bậc vua chúa, quan lại phong kiến.

Theo chính sử, chùa Thắng Nghiêm được xây dựng vào thời vua Lý Thái Tổ (1009-1028). Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, Niên hiệu Thái Tổ Hoàng đế có đoạn chép: “Năm 1010, mùa thu, tháng 7, vua Lý Thái Tổ từ thành Hoa Lư dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La… Lại ở trong thành làm chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía Nam dựng chùa Thắng Nghiêm”…

“Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu phát trăm lạng bạc trong kho để đúc hai quả chuông treo ở chùa Thắng Nghiêm và tinh lâu Ngũ Phượng. Đắp thành đất ở bốn mặt kinh thành Thăng Long. Đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh”.

Niên hiệu Thái Tông Hoàng đế có đoạn chép: “Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, vua thân đi đánh giáp Đản Nãi, cho Đông cung thái tử ở lại Kinh sư làm Giám quốc. Khi đánh được giáp Đản Nãi rồi, sai Trung sứ đốc suất người Đản Nãi đào kênh Đản Nãi. Vua từ Đản Nãi trở về Kinh sư. Có dấu người thần hiện ở chùa Thắng Nghiêm”.

Niên hiệu Nhân Tông Hoàng Đế cũng chép: “Tháng 9, ngày Tân Tỵ, mở hội Thiên Phật (Nghìn Phật) để khánh thành chùa Thắng Nghiêm Thánh Thọ, cho sứ Chiêm Thành đến xem”.

Trong Việt sử cương mục tiết yếu của Thiện Đình Đặng Xuân Bảng, phần Kỷ nhà Lý, Thái Tổ Hoàng đế cũng có đoạn chép: “Năm 1010, vua cho phát hai vạn quan tiền, dựng tám ngôi chùa và lập bia để ghi công đức. Lại xây chùa Hưng Thiên, cung Đại Thanh, chùa Vạn Tuế ở nội thành Thăng Long. Ngoại thành dựng bảy ngôi chùa là Thắng Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thiên Thọ, Thiên Quang, Thiên Đức, chùa quán ở các hương ấp nếu bị hỏng thì cho sửa lại.”

Đại Việt sử ký toàn thư chép: Trần Liễu thời Lý được phong làm Phụng Càn vương. Năm 1228, vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) phong Liễu làm Thái úy. Đến năm 1234, Thái thượng hoàng Trần Thừa băng hà, Trần Liễu lên làm Phụ Chính vương (sách sử còn gọi là Hiển Hoàng).

Năm 1236, Trần Liễu phạm cung cấm bị giáng xuống làm Hoài vương. Năm 1237, Trần Thủ Độ ép vua Trần Cảnh lấy Thuận Thiên (là vợ Trần Liễu đang có mang 3 tháng, vì vợ vua Trần Cảnh là Lý Chiêu Hoàng chưa có con). Mất vợ, Trần Liễu nổi loạn. Do sợ bị diệt vong, Trần Liễu sai em gái là Thụy Bà Công chúa (hay còn gọi là Đoan Bà) đưa con trai là Trần Quốc Tuấn đi lánh nạn. Đoan Bà cùng gia nhân giả làm thương gia đưa Trần Quốc Tuấn đến chùa Trì Long, thuộc trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng. Khi đó, chùa Thắng Nghiêm do Thiền sư họ Lý, pháp hiệu Đạo Huyền trụ trì. Ông là vị danh Tăng tinh thông Tam tạng, Giới đức trang nghiêm, uy tín bậc nhất thời đó. Đoan Bà giao Trần Quốc Tuấn, khi đó khoảng 7 tuổi, cho Thiền sư Đạo Huyền nuôi dưỡng. Thiền sư nhìn Trần Quốc Tuấn mỉm cười mà nói rằng: “Thật đúng là duyên mệnh Phật Trời đã định sẵn”. Từ đó, ngày qua tháng lại, Thiền sư Đạo Huyền truyền dạy cho Trần Quốc Tuấn Tam tạng Thánh điển, pháp thuật bí truyền. Với trí tuệ siêu phàm, chẳng bao lâu Quốc Tuấn đã tinh thông giáo pháp, văn võ kỳ tài không ai sánh kịp.

Lại nói, sau khi Trần Liễu nổi loạn bị giáng xuống làm Hoài vương, vua Trần Thái Tông không những tha không giết mà còn phong vương, cấp cho đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay thuộc Đông Triều, Quảng Ninh) để Trần Liễu về trấn giữ và phong tước hiệu qua các thời kỳ là Hiển Hoàng, Hoài vương, An Sinh vương. Nội cung yên ổn, Trần Liễu cùng đoàn tùy tùng tới trang Khúc Thủy, chùa Trì Long cảm tạ ơn dưỡng dục và thỉnh Thiền sư cùng đón Trần Quốc Tuấn hồi cung, năm đó Quốc Tuấn tròn 21 tuổi.

Sau khi hồi cung, Trần Quốc Tuấn được mời vào nội điện ra mắt vua Trần Thái Tông. Vua nhận thấy Quốc Tuấn tướng mạo phi phàm, tài trí vẹn toàn, thật xứng danh là bậc kỳ tài trong thiên hạ, bèn phong làm tướng trấn giữ biên ải phương Bắc.

Năm Mậu Ngọ (1258), quân Nguyên-Mông đem hơn 30 vạn quân tiến qua biên ải, Trần Quốc Tuấn được phong Tiết chế kiêm Tả hữu thủy lục tướng quân, chỉ huy quân đội đánh giặc. Ngày 12 tháng 3 năm đó (1258), Trần Quốc Tuấn dẫn quân về Khúc Thủy, Khê Tang thành lập tinh binh trên dòng Nhuệ giang, chiêu hiền giúp nước. Khúc Thủy tuyển được 370 người, Khê Tang tuyển được 271 người ra nhập đội quân tinh nhuệ. Trần Quốc Tuấn đem 16 vạn tinh binh đóng đồn từ Tam Đái đến cửa sông Vọng Đức, Bạch Đằng, Lục Đầu Giang để đánh đuổi quân xâm lược. Sau khi thắng trận trở về, nhân dân ca khúc khải hoàn, Vua xuống chiếu sắc phong Ngài là Hưng Đạo Đại vương.

Hưng Đạo Đại vương ban thưởng cho Khúc Thủy, Khê Tang 100 lượng vàng và đích thân đứng ra tu sửa chùa Trì Long.

Năm 1284, vua Nguyên lại sai Thái tử Trấn Nam vương Thành Hoan (chính sử ghi là Thoát Hoan) đem trăm vạn tinh binh một lần nữa xâm lược nước ta. Với tài thao lược binh cơ, Hưng Đạo Đại vương thống lĩnh ba quân, lĩnh mệnh chinh Nguyên, tiến hành thủy chiến trên sông Bạch Đằng, lập chiến công vô cùng hiển hách.

Ngay sau khi bại trận về nước, năm 1285, quân Nguyên chỉnh đốn quân ngũ, bổ sung lực lượng, đóng tàu chiến, huy động lương thảo để trở lại đánh Đại Việt lần thứ ba. Cuộc chiến lần này kéo dài khoảng gần 4 tháng, từ cuối tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288. Cũng giống như hai lần trước, chúng đã bị quân dân Đại Việt đánh cho tan tác và từ đó không dám gây chiến với Đại Việt nữa.

Đất nước thanh bình thịnh trị, Hưng Đạo Đại vương trở về thăm lại chùa xưa. Năm 79 tuổi, Ngài xin về Vạn Kiếp an dưỡng tuổi già. Năm 82 tuổi, ngày 10 tháng 8 mùa thu, Ngài lâm bệnh, thị tịch ngày 20 tháng 8, giờ Ngọ. Vua phong cho Ngài mỹ hiệu “Quốc lão Hiển tướng Đại vương”, cho Khúc Thủy, Khê Tang làm “Hộ Nhi hương”, thờ Quốc Tuấn Đại vương làm Thượng Đẳng thần, cử trọng thần xuân thu nhị kỳ về tế lễ.

Đình Khúc Thủy được xây dựng từ đây trên thế đất “Thần Ly chầu ngọc”, cũng là nơi thờ phụng Nhị vị Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Đại vương và Linh Thông Hoà thượng Đại vương).

Ngược dòng thời gian, sau khi Thiền sư Đạo Huyền cùng Trần Quốc Tuấn về triều yết kiến Thái Tông Hoàng đế, Đạo Huyền được phong làm Quốc sư, phò Vua, giúp nước. Từ đây, trong Thiền phả không thấy nhắc đến các sư kế đăng trụ trì, mãi đến đời thứ 11 nhà Trần (vua Thuận Tông, húy Ngung, con trai út vua Nghệ Tông), mới có Linh Thông Hòa thượng Đại vương về trang Khúc Thủy thắp sáng ngọn đèn thiền.

Thiền phả chép: “Linh Thông Hòa thượng Đại vương thuộc thời Trần, xét xưa kia nước ta mở vận hơn hai nghìn năm lấy hiệu là Hùng Vương, trải qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần đều có các minh quân (vua sáng) trị vì đất nước”. Khi ấy, ở trại Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Thiên Trường, xứ Nam Định, có gia đình họ Trần đời đời làm quan tướng trong triều. Nhà Lý trải qua tám đời vua, vận nước cáo chung mới có nữ quân là Chiêu Hoàng lên ngôi. Trần Thủ Độ làm quan trọng thần trong triều, đưa cháu ruột là Trần Cảnh vào cung, ép gả Chiêu Hoàng. Việc nhà Trần kế nghiệp đế vương nhà Lý mà không hề có nghiệp chiến tranh, đó há chẳng phải là trời đất giao hòa sao!

Đời sau Lê Tiên sinh thơ rằng:

Nhất sắc khuynh thành khởi chiến tranh,
Kỵ long đằng vị tự nhiên thành.
Giai do thiên mệnh nhân tâm thuận,
Bách quỹ đồng quy hướng đức danh.

Dịch thơ:

Sắc đẹp khuynh thành chẳng chiến tranh,
Cưỡi rồng giữ vị tự nhiên thành.
Đều do trời đất lòng người thuận,
Trăm mối về cùng tỏ đức danh.

Nhà Trần trải qua các đời vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Minh Tông, Anh Tông, Hiển Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Phế Đế rồi truyền đến vua Thuận Tông. Nhà vua tính tình nhu thuận từ hòa nên đã bị Hồ Quí Ly âm mưu thoán đoạt, tất cả đều do đạo trời xui khiến, không phải là do đức ngu tối của vua Trần vậy.

Khi ấy, ở trại Hà Lãng, huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc Vĩnh Lộc, phủ Thiệu Hóa, Thanh Hóa) có người họ Trần, húy Chân (Trần Khát Chân), phu nhân họ Đặng, húy An, người phường Vạn Ninh. Trần công làm tướng phò giúp vua Anh Tông (ba đời làm tướng nhà Trần), lúc đó đã 40 tuổi, phu nhân 39 tuổi vẫn chưa có điềm lành, hòe quế chi lan đều do thứ phi sớm ứng.

Đất Vĩnh Ninh có chùa Hoàng Long rất linh ứng, quan dân hương đèn cầu đảo không dứt, cảnh đẹp sánh tựa bồng lai, phong quang như vườn lộc uyển, thực là thắng cảnh của Thiền gia vậy. Năm ấy, nhân ngày hội, phu nhân trai giới đến chùa mật đảo, nguyện sớm được ban điềm lành. Ba ngày sau mộng ứng, trong giấc mơ thấy mình ngoạn du đến chùa Thiên Thai, gặp một lão tăng mặc áo xanh sẫm, đội mũ Thất Phật, chống gậy tùng, tay cầm bông sen, đi trước sân chùa ngâm rằng:

Nhất thành khả cách đạt từ nhan,
Kim hữu thành tùng Thứu Lĩnh san.
Phu phụ Trần gia giai phúc hậu,
Từ tâm nhất hứa trượng phu hoàn.

Dịch thơ:

Lòng thành thấu đến bậc từ nhân,
Nay có cây tùng trên Thứu Lĩnh.
Phúc hậu ban cho nhà họ Trần,
Lòng từ sớm ứng sinh trai giỏi.

Phu nhân ngắm xem, bỗng thấy cây tùng biến thành rồng xanh bay vào trong miệng. Tỉnh giấc, bà kể lại cho Trần công nghe. Trần công vui mừng nói: “Nhà ta kiếp trước chuyên tâm làm điều phúc thiện, nay trời giáng điềm lành, ắt có tài hoa kế thế, tuấn kiệt ra đời, đây chẳng phải là giấc mộng tầm thường”. Sau, quả nhiên phu nhân có mang. Vào giờ mão ngày 15 tháng giêng, bà sinh hạ một công tử mặt phượng, mắt rồng, hàm én, mày ngài, thể mạo khôi kỳ khác hẳn người thường; trong khi sinh nở điềm lành xuất hiện: hương thơm ngào ngạt, thụy khí lan tỏa khắp phòng. Ông bà đặt tên con là Trần Thông. Trần Thông từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, dĩnh ngộ, 7 tuổi theo học với quan Đại học trong nội các, thân thiết với Thái tử như anh em ruột.

Khi Trần Thông 15 tuổi, vua Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử hiệu là Hiếu Đế và phong Ngài làm trưởng Ấu Sử trong nội các, kiêm quản quân nội thị vệ. Khi ấy, Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thương bức Vua phải thoái vị và xuất gia tại chùa Ngọc Thanh, thôn Đạm Thủy. Đất nước đại loạn, Hồ Quí Ly đã giết chết Trần Khát Chân. Tình thế bất an khiến Trần Thông phải dời đến núi Yên Tử, tự nguyện xuất gia tu hành cùng các thiền tăng. Ở đó có người họ Trần tu tập, tên gọi Trần Huyền. Trần Thông tu tại chùa Vân Tiêu được 7 năm thì Hồ Quí Ly biết tin liền cho quan đại thần mời về triều phục chức giúp nhà Hồ, nhưng Ngài không chịu. Nhà Hồ tìm cách sát hại, nhờ có người mật báo, Ngài dời chùa Vân Tiêu tới trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng. Lúc Ngài ngồi nghỉ chân bên một thảo am ven đường, có người dân trang Khúc Thủy, họ Nguyễn húy Hành, sùng kính đạo Phật, đến đỉnh lễ thưa rằng: “Ngài từ đâu đến và đi về đâu?”

Thiền sư mỉm cười đáp: “Ta vốn chẳng sinh ra từ đâu, thì cũng chẳng có đâu để về, Thứu Lĩnh, Tùng Lâm bao trùm khắp cả mười phương, ba cõi, đều là nơi ta đã ngao du, nào biết nơi đâu đáng để dừng. Vậy ta nhàn du đến đây, ngắm xem phong cảnh, tìm hiểu nhân gian họa phúc để mà cứu giúp”. Nguyễn công nghe nói vô cùng kính ngưỡng, liền cùng nhân dân Khúc Thủy thỉnh thiền sư về trụ trì chùa. Ngày 12 tháng một, Ngài bắt đầu khai tràng thuyết pháp, rao giảng Tam tạng Thánh điển, tiếp độ tăng, ni. Nhân dân, Phật tử kính ngưỡng Ngài như Phật tái thế. Ngài trụ trì được 5 năm, một hôm, trong khi đang tọa thiền dưới án Phật đường, Ngài thấy Quốc lão Hưng Đạo Đại vương đi đến ngồi trước nơi Ngài thiền định, ngâm rằng:

Cấp báo chi cấp báo chi,
Hồ binh lai nhập đáo thiền vi.
Cấp cấp xu hồi Khê Tang địa,
Huynh đệ đồng tâm cự tế chi.

Dịch thơ:

Kíp báo ngay kíp báo ngay,
Ngày mai giặc Hồ vây chùa này.
Mau mau trở lại Khê Tang nhé,
Huynh đệ đồng tâm chống giặc đây.

Canh ba hôm ấy, nghe tiếng hô hoán quanh chùa, Ngài sai tiểu tăng lên gác chuông quan sát thì đã thấy binh lính nhà Hồ vây kín cả bốn xung quanh. Ngài liền dùng tích trượng phá vòng vây, thẳng tiến tới chỗ giáp ranh giữa Khúc Thủy và Khê Tang thì thấy một gò cao, cây cối um tùm, Ngài liền ẩn mình vào đó. Bỗng một dải mây ngũ sắc sáng rực từ trong gò bay lên, phủ kín quanh gò, rồi cuồn cuộn bay thẳng lên không trung. Trong giây lát, trời đất tối tăm, sấm chớp ầm ầm, mưa to gió lớn, cây cối gãy đổ, bụi bay mù mịt, binh lính nhà Hồ sợ hãi bỏ chạy tán loạn. Khi đó, Thiền sư đã ung dung tự tại thiền định trên Tam quan chùa Khê Tang. Ngay đêm hôm ấy, Quốc lão mộng báo cho dân chúng Khê Tang thấy Ngài ngồi đàm đạo cùng một vị Thiền sư, đứng hầu xung quanh có khoảng hơn 500 người. Quốc lão gọi nhân dân đến bảo: “Ta có bạn quí tới chơi đã được năm ngày, mà sao các người không ra nghênh đón?”. Sáng hôm sau, nhân dân không ai bảo ai đều tập trung tại Tam quan chùa, quả nhiên thấy một vị Thiền tăng đang ngồi tĩnh tọa như trong giấc mộng vậy. Nhân dân liền thỉnh Ngài về chùa, cung kính lễ bái cúng dàng và xin làm đệ tử.

Nhân dân Khúc Thủy gặp phải dịch nạn, chiều chiều thường nghe trong chùa văng vẳng tiếng nói vọng ra: “Chủ ta vì nạn mà dời đi nơi khác ở, chỉ có binh lính và Long Thần giữ chùa, được thể ôn thần, quỉ quái thừa cơ làm loạn, quấy nhiễu dân lành, biết tìm ai cứu giúp bây giờ!”. Nhân dân nghe thấy lấy làm lạ, cùng nhau sang Khê Tang thỉnh Ngài Trần Thông trở lại chùa làng, mọi chuyện lại được yên ổn, bình an như cũ.

Thời gian đó, con thứ vua Nghệ Tông là Giản Định khởi nghĩa diệt Hồ, đánh đuổi giặc Minh, khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần, chấn hưng thiên hạ. Giản Định đế biết Thiền sư là cựu trung thần của triều đình, nên ban chiếu mời về giúp nước. Nhận lệnh vua ban, Ngài đã ưng thuận xếp cà sa, khoác chiến bào, một lần nữa cầm quân ra trận. Ngày 11 tháng 5, Ngài triệu tập dân làng Khúc Thủy, Khê Tang, tuyển được 500 dân binh tình nguyện lên đường. Ngày 12 tháng 2 khao thưởng binh lính, lập đàn cầu đảo Quốc thái dân an. Yến tiệc đến ngày 2 tháng 6, Ngài tấn kiến vua Giản Định. Vua liền phong Ngài làm Đốc lãnh binh, Giới trưởng Quân vệ tả hữu dẹp loạn nhà Hồ rồi tiến thẳng lên phương Bắc đánh đuổi giặc Minh, trấn an bờ cõi, giữ vững chủ quyền. Nhân dân an cư lạc nghiệp, ca khúc khải hoàn. Vua Giản Định phong Ngài làm phó tướng, kiêm Quân vệ thủy bộ, nhưng Ngài đã khước từ, xin vua cho phép trở về chùa xưa tiếp tục tu hành, giáo hóa chúng sinh, xiển dương ngôi Tam Bảo. Nhà vua ưng thuận và ban sắc phong cho Ngài là Linh Thông Hòa thượng Đại vương, lại ban mũ áo, vàng bạc tu bổ chùa chiền, cho Khúc Thủy làm thang mộc ấp. Ngài cảm tạ ơn vua rồi lên đường trở về chùa Khúc Thủy.

Ngày mồng 10 tháng 9, Ngài mở tiệc khao thưởng úy lạo tướng sỹ. Ngày 12 tháng 9, nhân dân Khúc Thủy, Khê Tang làm lễ chúc mừng. Trong lúc yến ẩm, Ngài nói với phụ lão, nhân dân rằng: “Ta cùng các ngươi tình nghĩa sư đồ sâu nặng, không chỉ một ngày, sư đệ chi tình, ngàn vạn năm duyên đó khó có thể phai mờ. Sau này hãy lập miếu để thờ nơi ta lánh nạn nhà Hồ, bởi nhờ thần lực của Phật Tổ ta mới thoát được kiếp nạn. Hai ngôi Phạm Vũ Linh Quang, Trì Long nơi ta tu hành các ngươi phải thường xuyên tu sửa, giữ gìn phụng sự Phật Tổ cho chu đáo. Nơi trước khi ta tới đây dừng chân ngồi nghỉ, hãy lập nhà hội họp, tế lễ, chớ có quên lời”.

Song việc, Ngài giao lại chùa cho các đệ tử trông nom, rồi đem theo một số đệ tử khác ra đi hoằng dương Phật pháp, giáo hóa chúng sinh. Ngài dạo khắp cả Thiền Môn, Tùng Lâm, Thứu Lĩnh, khai sáng ra mười chín ngôi Phạm Vũ ở khắp mọi miền và tiếp độ được mười bốn vị danh tăng thời đó. Một hôm, Thiền sư bảo môn đệ: “Nay ta muốn đến núi Đốn Sơn (Đún Sơn) để thăm viếng phần mộ của Tiên công” (Trần Khát Chân bị Hồ Quí Ly giết hại, mộ táng tại nơi này, được nhân dân lập đền phụng thờ). Đến nơi, Ngài cảm xúc làm thơ rằng:

Nhất bả cương thường trọng thử thân,
Tuyết thù dĩ đắc báo quân thân.
Đốn Sơn, Khúc Thủy lưu thiên cổ,
Hiếu tử trung thần biểu thế nhân.

Dịch thơ:

Một mối cương thường trọng thân này,
Thù nhà nợ nước báo đền ngay.
Đốn Sơn, Khúc Thủy còn giữ mãi,
Tôi trung con hiếu gương sáng thay.

Ngâm xong, bỗng thấy một dải mây ngũ sắc từ trong đền bay thẳng lên không trung, trong khoảnh khắc, trời đất tối đen, mưa to, gió lớn, sấm chớp nổi ầm ầm và Thiền sư biến mất. Hôm ấy là ngày 15 tháng 2. Các đệ tử rất đỗi kinh ngạc, vô cùng kính ngưỡng, than khóc thảm sầu, cùng nhau vào đền thì thấy Ngài đã hiển Thánh, chỉ để lại chiếc mũ Thất Phật và cây thiền trượng. Các đệ tử của Ngài và nhân dân Khúc Thủy rước mũ và thiền trượng về chùa phụng thờ và đặt Thánh hiệu. Sau khi xong việc, họ dâng sớ tấu Vua việc hy hữu này. Vua khen ngợi Ngài là trung nghĩa lương thần và sắc phong mỹ tự, lại truyền cho dân đón rước sắc chỉ mũ áo, ban vàng bạc tu sửa chùa, đình, miếu để sớm tối phụng thờ, phong Khúc Thủy là ấp hộ nhi thang mộc muôn đời huyết thực hương hỏa vô cùng, còn mãi cùng trời đất và ban cho tám chữ vàng “Khúc Thủy nghĩa dân, Mỹ tục khả phong”!

Nhà Trần diệt vong, có người họ Lê, húy Lợi, quê ở sách Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thuận Thiên, đất Ái Châu nổi dậy khởi nghĩa, đem ba quân trừ bỏ nhà Hồ, bình định giặc Minh. Khi ấy, Lê Khả (tướng của Lê Lợi) đến chùa Khúc Thủy, đền Khê Tang mật đảo. Sau khi lên ngôi, Lê Lợi (Lê Thái Tổ) đã ban cho chùa mỹ tự: “Vạn Cổ Phúc Thần” (Sáng mãi cùng Nhật Nguyệt), phong Ngài Trần Thông là Linh Thông Phổ Tế Đại vương, cho hai làng Khúc Thủy, Khê Tang cùng phụng thờ.

Vào thời vua Lê Chiêu Tông, nhà Mạc nổi lên cướp ngôi. Đến đời vua Trang Tông, Thái úy Nguyễn công (tự Tích Trung, người Trang Gia Miêu Ngoại, huyện Tống Sơn) khởi binh diệt Mạc, đến chùa Khúc Thủy mật đảo, cầu xin Thiền sư giúp nước. Sau khi lên ngôi, Trang Tông đã gia phong Ngài mỹ tự Huệ Dân. Có thơ vịnh rằng:

Sinh vi Tướng giả, tử vi Tăng,
Vạn cổ trường lưu tại xã dân.
Khúc Thủy, Khê Tang tồn tích tại,
Thiên xuân Miếu Vũ thử trung thần.

Dịch thơ:

Sống là Tướng giỏi, hóa Thánh Tăng,
Muôn thủa tiếng thơm để lại dân.
Khúc Thủy, Khê Tang còn dấu tích,
Nghìn năm Chùa Miếu rạng trung thần.

Ngày sinh, ngày hóa cùng các tiết lễ chính hội, tên húy, tên tự, sắc phong của Thiền sư Trần Thông được ghi trong chính bản. Ngày 15 tháng 5 năm Hồng Phúc 1 (1572), Hàn lâm viện Đông Các học sỹ thần Nguyễn Bính vâng soạn. Quản Giám Bách Thần Chi Điện Thiếu Khanh vâng theo bản cũ tiền Triều viết lại. Ngày 6 tháng 12 năm Tự Đức 3 (1850), các viên chức xã Khúc Thủy kính cẩn sao lục theo chính bản. Ngày 10 tháng 10 năm Thành Thái 1 (1889) các viên chức xã Khúc Thủy cẩn đằng tả theo chính bản. Sau khi Thánh Tổ viên tịch, chùa được tiếp tục truyền nối bởi các bậc Thánh Tổ sư là đệ tử của ngài trong các triều đại phong kiến thời đó và sau này.

Vào cuối thế kỷ XIX đầu XX, thừa lệnh các vua nhà Nguyễn, cha con Tổng đốc Trấn thủ Hà Đông là Hoàng Cao Khải và Hoàng Trọng Phu lại tiếp tục cho đại trùng tu quần thể thánh tích Phật Quang Đại Tùng Lâm một lần nữa. Nhưng than ôi! Dòng thời gian cứ biến đổi vô thường, vận đất nước thịnh suy theo năm tháng, quần thể Thánh tích Khúc Thủy vang tiếng một thời bỗng phút chốc biến thành phế tích của các cuộc chiến tranh tàn khốc.

Tới năm Tân Sửu (1901), đời Thành Thái 13, tháng 5, mùa hạ, toàn thể nhân dân xã Khúc Thủy thành tâm cùng sư trụ trì chùa Linh Quang ra chùa Chân Tiên (Hà Thành) yết kiến Sư tổ Thanh Toàn tự Mẫn Chân. Sư tổ Sơn Hà Thanh Cốc cùng tông phái của Sư tổ Thanh Sùng đưa cụ Thanh Sùng về chùa Phúc Đống nhập tự trụ trì. Khi ấy, trong xã có ông Lưu Hiên làm quan tỉnh xin phép được trùng tu ngôi Tam Bảo. Sư tổ Thanh Sùng trụ trì 24 năm rồi trở về chùa Chân Tiên duy trì mạng mạch chốn Tổ, giao lại chùa Phúc Đống cho đệ tử là Sư tổ Thanh Thứ. Tổ Thanh Thứ có hai đệ tử Thanh Thịnh, Thanh Nhạc. Thanh Thịnh sau đi trụ trì cảnh riêng, Thanh Nhạc ở lại hầu thầy.

Năm 1947, giặc Pháp chiếm đóng vùng này, lập đồn bốt tại chùa Linh Quang (chùa trên) khiến dân chúng ly loạn, thầy trò Sư tổ Thanh Thứ mạng vong, nhân dân đưa đi an táng sau chùa. Sau chiến tranh, không còn ai nhớ được mộ phần cũng như ngày mất của thầy trò Tổ Thanh Thứ. Mãi đến năm 2011, do một đại nhân duyên hy hữu, Đại đức Thích Minh Thanh đã tìm thấy được nơi an táng cũng như ngày huý kỵ của thầy trò Tổ. Kể từ đó, xá lợi của thầy trò Tổ Thanh Thứ được rước về chùa Thắng Nghiêm để nhập tháp và cúng giỗ.

Năm 1948, được sự chỉ đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, Việt Minh về xây dựng căn cứ địa tại Khúc Thủy, lấy chùa Phúc Đống (chùa dưới) làm cơ sở kháng chiến, cử ông Nguyễn Văn Quyết (biệt danh Sư Đê) về trụ trì chùa để củng cố và xây dựng lực lượng chống thực dân Pháp. Từ năm 1949 đến năm 1954, Hồ Chủ tịch giao trọng trách cho Đại tướng Văn Tiến Dũng về chỉ huy căn cứ địa Khúc Thủy, Cự Đà. Đại tướng đã khoác cà sa làm sư để hoạt động cùng Sư Đê tại chùa Phúc Đống. Khi đó, toàn bộ tài sản, đồ thờ cúng của chùa đều được đưa ra phục vụ kháng chiến. Chín gian nhà thờ Tổ được dùng làm trường học cho trẻ em sơ tán, còn hai dãy nhà ngang, nhà bia, gác chuông, gác trống đều bị thực dân Pháp bắn phá.

Hưởng ứng lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chủ tịch, sau 9 năm gian khổ trường kỳ, giặc Pháp đã phải đầu hàng vô điều kiện và rút khỏi Việt Nam. Nhưng sau đó, đế quốc Mỹ được sự tiếp tay chính quyền Ngô Đình Diệm lại tràn vào xâm lược nước ta, chúng ném bom đánh phá miền Bắc, gây bao cảnh tang thương điêu tàn cho dân chúng, ai oán ngút trời. Hồ Chủ tịch lại ra lời kêu gọi “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, toàn dân tộc nhất tề hưởng ứng đứng lên chống giặc ngoại xâm.

Theo sự chỉ đạo của Đảng, ông Nguyễn Văn Quyết (Sư Đê) rời chùa Khúc Thủy đi theo kháng chiến. Năm 1953, Ni sư Đàm Nhân về đèn hương sớm tối trông nom chốn Tổ. Năm 1969, Ni sư Đàm Nhân viên tịch.

Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, chùa Khúc Thủy luôn có các hoạt động gắn liền với sự tồn vong của đất nước. Chinh chiến loạn lạc cộng với ảnh hưởng của hai thời kỳ pháp nạn khiến cho kiến trúc, di vật, tư liệu của chùa bị tàn phá và thất lạc trong dân gian. Hòa bình lập lại, Khúc Thủy chỉ còn lại hai ngôi Tam Bảo là chùa Linh Quang (chùa trên) và chùa Phúc Đống (chùa dưới) song đã xuống cấp nghiêm trọng.

Năm 1956, sau cải cách ruộng đất, hàng trăm bia ký của hai chùa, đình, miếu và Dinh Vua bị tàn phá, bia rùa mang ra làm công cụ đập lúa, sau đó bị phá bỏ, vứt xuống dòng Nhuệ Giang và các ao hồ. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, một pho tượng Phật A Di Đà tạc bằng gỗ mít cao 5m từ thời Lý đã bị phá hủy và đem đốt, giờ chỉ còn duy nhất một góc hậu cung phía tây chùa xây bằng đá ong là di tích có từ thời Lý, chuông Thắng Nghiêm giờ đây cũng không còn cất tiếng.

Năm Quí Sửu (1973), Ni sư Đàm Thủy (Sư Cụ Bé) về chùa đèn hương phụng sự chốn Tổ (đến năm Tân Mùi 2003 thì Ni sư viên tịch). Năm Ất Hợi (1995), do tuổi cao sức yếu không thể gánh vác công việc Phật sự, Ni sư Đàm Thủy cùng nhân dân, chính quyền các cấp và Hòa thượng Thích Quảng Lợi, Trưởng ban Đại diện Phật giáo huyện Thanh Oai, vào chùa Hương Tích cúng chùa Khúc Thủy cho Hòa thượng Thích Viên Thành, Viện chủ Tổ đình Hương Tích đời thứ 11. Năm Đinh Sửu (1997), tháng 2 ngày 2, Hòa thượng Thích Viên Thành cử đệ tử là Đại đức Thích Minh Thanh về đây tiếp nối ngọn đèn thiền. Kể từ đó tới nay, công việc trùng hưng ngôi Phạm Vũ đã và đang được tiến hành nhằm khôi phục, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá tâm linh, nghệ thuật kiến trúc Phật giáo cũng như truyền thống của dân tộc.

*

Nhờ sức mạnh tâm linh của Phật tổ và hồn thiêng sông núi đất Việt, làng Khúc Thủy – chùa Thắng Nghiêm vẫn trường tồn qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử. Trải dài theo các triều đại phong kiến, trang Khúc Thủy đều được phong mỹ hiệu và lập làm thang mộc ấp, trên dưới cho xây cổng làng, cứ đến 7 giờ tối là đóng và có lính triều đình canh gác. Dân Khúc Thủy không phải chịu sưu thuế, nghề chủ yếu là tằm tang canh cửi và chế biến các món ăn thơm ngon, tinh khiết để tiến cung dâng Vua. Tự hào về mảnh đất quê hương linh thiêng và giàu truyền thống, người xưa đã có thơ rằng:

”Làng ta bé nhỏ xinh xinh
Nơi ăn chốn ở là dinh toàn quyền”.

Kinh Dược Sư ở chùa Thắng Nghiêm, Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, tịnh lặng cùng thầy Thích Minh Thanh, lắng nghe thiên nhiên cổ vật của vùng đất thiêng kể chuyện, thật hạnh phúc để thấu hiểu một chuỗi sự kiện trãi nghìn năm. Khúc Thủy hiện nay nước đang bị uốn khúc nghẽn dòng, không gian thơm thảo thanh tịnh phải thời gian nữa mới tốt hơn nhưng sự bảo tồn và phát triển đã nhìn thấy như lên non thiêng Yên Tử đón ban mai. Thánh Trần Chùa Thắng Nghiêm là nơi tôi ngộ ra việc đức kết “Nghiên cứu Kinh Dược Sư”. Sức khỏe trí tuệ là căn bản của sự sống con người. An tâm, bồi bổ sinh khí, phòng trị tâm bệnh là chính yếu của triết lý giáo dục, nguyên lý căn bản của Kinh Dược Sư. Sau khi thăm chùa Thắng Nghiêm 2016, tôi đã nhận được nơi đây Kinh Dược Sư và Kinh Phạm Võng, đồng thời có duyên may được gặp thiền sư Thích Phổ Tuệ chùa Giáng ngay trong chiều ấy. Tôi ngộ được sâu xa dấu hiệu và giá trị cao quý của điểm nhấn với bài học lịch sử. Câu chuyện Đức Thánh Trần học ai, ở đâu và khi nào mà đạt được trí tuệ sức khỏe tốt đến vậy? Câu chuyện chùa Thắng Nghiêm xưa và nay với những chứng tích nào? Những thiền sư kinh sách quý cần học và thực hành? Người đời ngưỡng mộ cuộc đời và sự nghiệp Đức Trần Hưng Đạo là Đức Thánh Trần Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương (1228 – 20 tháng 8, 1300), là một nhà chính trị, tư lệnh tối cao của Việt Nam thời nhà Trần, là một trong những đại tướng lừng danh nhất trong lịch sử quân sự Việt Nam là Top 10 vị tướng giỏi nhất lịch sử thế giới Trong sự thật và huyền thoại của Đức Thánh Trần có trí tuệ đặc biệt minh triết trong một sức khỏe cường tráng nội lực mạnh mẽ cân bằng hài hòa Đức Thánh Trần học ai, ở đâu và khi nào mà đạt được trí tuệ sức khỏe tốt đến vậy? Câu trả lời có trong Kinh Dược Sư. Minh triết sống thung dung phúc hậu trước hết phải bồi bổ sinh khí, phòng trị tâm bệnh, học và thực hành Dịch Cân Kinh mà Trạng Trình đã đúc kết. Tôi thốt nhiên nghiệm ra điều đó ở đây và nơi này:

TRẠNG TRÌNH DƯỠNG SINH THI

Tích khí, tồn tinh, cánh dưỡng thần
Thiểu tư, qủa dục, vật lao thân.
Thực thôi ban bảo, vô kiêm vị,
Tửu chỉ tam phân, mạc quá tần
Mỗi bả hý ngôn, đa thủ tiếu,
Thường hàm, lạc ý, mạc sinh xân
Nhiệt viêm, biến trá, đô hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu dao qúa bách xuân

Tạm dịch:

Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
Ít lo, ít muốn, ít lao thân.
Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị,
Rượu chỉ vài phân, chớ qúa từng.
Miệng cứ câu đùa, vui miệng mãi,
Bụng thường nghĩ tốt, bụng lâng lâng.
Bốc đồng, biến trá, thôi đừng hỏi,
Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm.

(GS. Lê Trí Viễn dịch)
Nguồn: Ngày xuân đọc Trạng Trình

UI ĐẾN CHỐN THUNG DUNG

Người rất muốn đi về trong tịch lặng
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Ta đến chốn thung dung tìm hoa lúa
Rong chơi đường trần sống giữa thiên nhiên.

Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành
Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (*)
Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm
Người tri kỷ cùng ta và năm tháng.
Giác Tâm, ta về còn trọn niềm tin.

AN NHIÊN NƠI TĨNH LẶNG

Thăm người ngọc, nơi xa, vùng tỉnh lặng,
Chốn ấy non xanh, người đã chào đời.
Nơi sỏi đá, giữa miền thiêng hoa cỏ,
Thiên nhiên an lành, bước tới thảnh thơi.

Sống giữa đời vui, giấc mơ hạnh phúc,
Cổ tích đời thường đằm thắm yêu thương.
Con cái quây quần thung dung tự tại,
Minh triết cuộc đời phúc hậu an nhiên.

Xuân Hạ Thu Đông, bốn mùa luân chuyển
Say chân quê ngày xuân đọc Trạng Trình
Ngày ra ruộng, đêm thì đọc sách.
Ngọc cho đời, giữ trọn niềm tin

NỢ DUYÊN
Hoàng Kim

Nợ anh mưa nắng dãi dầu
Em tôi rụng tóc sói đầu nhớ thương.
Nợ em nửa sợi tơ vương
Anh mang vàng đá trãi đường nhân duyên.

CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Video yêu thích

Nhớ quên khúc nhạc vui

NHỚ QUÊN KHÚC NHẠC VUI

QUÊN …
Nguyễn Quế
(Thơ vui)

Bây giờ mắc chứng hay quên
Đôi khi nỏ nhớ vợ tên là gì?!
Đi ăn cỗ, quên phong bì
Tết quên mừng tuổi lì xì cháu con

Bạn già vẫn tưởng còn son
Biết đâu cái tuổi xòn xòn bảy mươi?
Quên buồn vì tội ham vui
Quên cao huyết áp vì cười với hoa

Quên nhăn nheo để khỏi già
Gọi “Em”, xã bảo: “nỡm à, ông hâm”?!..
.

NHỚ …
Hoàng Kim
(Thơ buồn)

Nhớ quên thích được nối vần
Giàu hai con mắt bần thần vào ra ?!
Thú điền viên, nhớ cỏ hoa
Ngựa về máng cỏ mơ xa đường trường

Đại bàng về tổ đỉnh non
Vẫn thương chớp biển mưa nguồn đồng xuân
Nhớ vui cái thuở phong trần
Sắn khoai ngô lúa thật gần rau hoa

Nhớ lớp trẻ lụy tuổi già
Gọi “Bà”, vợ bảo: “Ông à, #Nhàtôi”?!..
.

17/4/24 thông tin tích hợp
TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM

Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim
#Nhàtôi; #htn365; #ana; #Thungdung, #dayvahoc, #vietnamhoc; #cnm365; #cltvn; #đẹpvàhay; #lvn365https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-4/ & https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-17-thang-4/



Thiên đường này đâu quá xa

THIÊN ĐƯỜNG NÀY ĐÂU QUÁ XA

Ước theo quan họ làng Diềm
Cùng thăm Động Cát cùng lên Miếu Bà
Thiên đường này đâu quá xa
Kia sông Kỳ Lộ đây là Đồng Xuân
Hò khoan học chuyện hiếu nhân

Lý ngựa ô gần, ví dặm chẳng xa

Suốt đời mãi miết chân ta
Mà sao thăm thẳm quê nhà niềm thương
Anh ơi xin chớ lạc đường
Hiếu trung giữ trọn Lời thương tìm về


Dì Khổ nay ở Miếu Bà
Chuyện xưa tích cũ tưởng xa mà gần
Em ơi chớ vội tần mần
Anh chưa lạc lối em ngầm lo chi (*)


Hoàng Kim

20 4 2024 thông tin tích hợp tại
TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM

Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim
#Nhàtôi; #htn365; #ana; #Thungdung, #dayvahoc, #vietnamhoc; #cnm365; #cltvn; #đẹpvàhay; #lvn365 https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-4/ & https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-20-thang-4/

Kim Notes lắng ghi chú
(*) Ca dao cổ Việt Nam

Muốn cho cùng ở một nhà
Cùng đi một ngõ cùng là một tên
Muốn cho đền dưới chùa trên
Ở giữa cây tháp, đôi bên Thị Màu
Muốn cho sớm tối cùng nhau
Cha thương mẹ quý nhớ câu
sinh thành


Lòng em yêu vụng dấu thầm
Yêu ai thì quyết trăm năm lời nguyền
Vì chuôm cho cá vướng đăng
Vì ai em phải đi giăng về mờ…
Em về em gửi lời thề
Xin đừng mở khóa trao thìa cho ai


Sông Kỳ Lộ vừa sâu vừa hẹp
Nước Kỳ Lộ vừa mát vừa trong
Thuyền anh bơi ngược dòng sông
Nhìn em cho thỏa tấm lòng nhớ thương.


Thần với chả Thoại của Morpheus dSootpsrne1i mc603fú0g30:l6811a4c7 át8fh32 0lu1t4lal939u 7n5  ·

THẦN CHẾT GẶP BÀ GIÀ

Có một người phụ nữ độc thân sống trong một căn nhà nhỏ với 1 cây lê mọc trước nhà. Bà trở thành nạn nhân cho những trò đùa của lũ trẻ hàng xóm, và chúng thường xuyên trẩy trộm lê của bà. Chúng gọi bà là Aunty Misery (Dì Khổ).

Một lần nọ, một vị khách lạ đến thăm căn nhà của Dì Khổ và xin ngủ lại. Bà tiếp đón ông ta rất tử tế, và sáng hôm sau trước lúc rời đi, vị khách hỏi bà có điều gì ước muốn không. Sau một hồi suy nghĩ, Dì Khổ ước rằng bất cứ kẻ nào trèo lên cây lê của bà sẽ bị dính chặt lại, và chỉ có thể thoát khi bà cho phép. Sau đó bà đã dùng chiêu này để dạy cho lũ trẻ quậy phá kia một bài học.

Nhiều năm sau, bà lại có 1 vị khách khác ghé thăm, một vị khách với giọng nói khô cằn như sa mạc- đó là thần chết đến để lấy hồn bà đi. Dì Khổ liền cầu xin thần chết cho bà một đặc ân, xin thần trèo lên hái cho bà ăn một quả lê cuối cùng trong đời, và thần chết đồng ý. Nhưng vừa trèo lên thần đã bị dính chặt lên cây và không tài nào thoát được.

Suốt nhiều năm, không có ai chết trên trần thế. Mọi quy luật bị đảo lộn, con người coi thường cái chết và không còn biết sợ là gì. Cả thế giới chìm trong hỗn loạn. Dì Khổ buộc phải thả thần chết ra, nhưng bắt ông thề sẽ không đến lấy hồn của bà.

Và từ đó Dì Khổ trở thành 1 người bất tử. Bà vẫn ở trong ngôi nhà cũ, và luôn sẵn sàng có những trái lê ngon lành cho những người khách phương xa.

-Morpheus-

Dấu xưa thầy bạn quý

Thăm thẳm một Miếu Bà

Đường xuân trên Động Cát

Sông Kỳ Lộ Phú Yên

Đồng Xuân cầu La Hai

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365 bấm vào đây cập nhật mỗi ngày


Trở về trang chính

Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn; Kim on Facebook, Kim on Twitter

Video yêu thích
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy

Giống khoai lang Việt Nam

Giống khoai lang ngon HL518
TA CÒN NỢ CỦ KHOAI LANG

Ta còn nợ củ khoai lang
Nợ bao mưa nắng mênh mang nỗi niềm
Rời đồng trời đã nhá nhem
Lên xe trăng rọi sương đêm dặm trường

Sâm nhà nghèo nhớ mà thương
Giống khoai lang Việt thêm vương vấn đời
Kiếp sau xin nối nghiệp Người
Lúa ngô khoai sắn cho đời có sâm
.

Ta còn nợ củ khoai lang
Nhạt nhoà mới cũ, hiểu thêm chuyện đời …

(*) Hoàng Kim và đồng sự Giống khoai lang Việt Nam Thông tin và câu chuyện ảnh về giống khoai lang và kỹ thuật trồng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-khoai-lang-viet-nam & https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/ta-con-no-cu-khoai-lang

Mô hình trồng sầu riêng xen khoai lang giống HL518 Nhật đỏ năng suất cao, phẩm chất ngon đang canh tác phổ biến tại tỉnh Đăk Lắk ( Video Nguyễn Thanh Bình 27 9 2023 https://www.facebook.com/watch/?v=665995315505310

GIỐNG KHOAI LANG VIỆT NAM
Hoàng Long, Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Văn Phu
, (Bài tóm tắt tổng hợp về giống khoai lang)

Giống khoai lang Việt Nam phổ biến HL518 NHẬT ĐỎ, HL491 NHẬT TÍM, HƯNG LỘC 4, HOÀNG LONG, BÍ ĐÀ LẠT, Mười kỹ thuật canh tác khoai lang, liên kết sản xuất chế biến tiêu thu hiệu quả

FOODCROPS. GIỐNG KHOAI LANG VIỆT NAM. Nguồn gen giống khoai lang trên thế giới. Nguồn gen giống khoai lang ở Việt Nam. Nguồn gốc và đặc tính nông sinh học chủ yếu của một số giống khoai lang phổ biến trong sản xuất hiện nay: Giống phổ biến: HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím), Hoàng Long, Hưng Lộc 4, Bí Đà Lạt; Giống bản địa quý, giống tạo thành và giống triển vọng: Chiêm Dâu, khoai Sữa, Khoai Gạo, Trùi Sa, Trà Đỏa, Dương Ngọc, Bí  Đế, Tự Nhiên, Cực nhanh, KB1, K51,K1, K2, K3, K4, K7, K8, VX37-1, KB1; Kokey 14 (Nhật vàng), Murasa Kimasari (Nhật tím 1), HL284 (Nhật trắng), HL565, HL524, KLC3

KHOAI LANG VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI

Khoai lang ở Việt Nam là cây lương thực thực phẩm quan trọng đứng hàng thứ tư sau lúa, ngô và sắn, với diện tích trồng hàng năm ngày nay (2015-2023) dao động 127-109 nghìn ha, năng suất bình quân 11,5-12,5 tấn/ ha, sản lượng dao động từ 1,33-1,43 triệu tấn củ tươi/ năm (Nguồn: GSO, 2023) Trồng giống khoai lang năng suất cao, chất lượng tốt, thực hiện hiệu quả chuỗi sản xuất cung ứng khép kín từ giống tốt đến mười kỹ thuật thâm canh đồng bộ sản xuất chế biến tiêu thụ. Khoai lang trên thế giới hiện là cây lương thực đứng hàng thứ bảy sau lúa mì, lúa nước, ngô, khoai tây, lúa mạch, và sắn. Toàn thế giới ngày nay có 118 nước trồng khoai lang với tổng diện tích 8,06 triệu ha, trong đó châu Phi chiếm 57,07%, châu Á khoảng 36,72%, châu Mỹ chiếm 4,3%. Việt Nam có năng suất khoai lang tương đương với năng suất bình quân chung của Thế giới, và năng suất  khoai lang bình quân của châu Mỹ 12,15 tấn/ha, đạt gấp đôi năng suất khoai lang châu Phi là 5,65 tấn/ ha nhưng chỉ ở mức 56,1% so với năng suất khoai lang bình quân chung của châu Á đạt 20,53 tấn/ha. Sản lượng khoai lang thế giới có xu hướng giảm từ 142,67 triệu tấn năm 2000, xuống còn 90,95 triệu tấn năm 2022, do cạnh tranh cây trồng và hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ khoai lang chưa hiệu quả bằng sắn và các chuỗi sản xuất cung ứng nông sản khác. Châu Á cung cấp sản lượng khoai lang khoảng 66,0%, châu Phi cung cấp sản lượng khoảng 28,3%. Nguồn gen khoai lang lớn nhất toàn cầu là tại Trung tâm Khoai tây Quốc tế (Centro Internacional de la Papa – CIP) với tổng số 7007 mẫu giống khoai lang được duy trì từ năm 2005. Trong số này có 5.920 mẫu giống khoai lang trồng (Ipomoea batatas) và 1087 mẫu giống khoai lang loài hoang dại (Ipomoea trifida và các loài Ipomoea khác). Việc duy trì nguồn gen ở CIP được thực hiện trong ống nghiệm, trên đồng ruộng, bảo quản bằng hạt và được đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế. Khoai lang Trung Quốc có sản lượng, năng suất và diện tích trồng cao nhất thế giới nhưng chất lượng khoai lang không ngon bằng khoai lang Nhật và Mỹ khi trồng ở Việt Nam. Khoai lang Mỹ nổi tiếng về chất lượng cao, phổ biến các giống khoai lang có ruột củ màu cam đậm, dẻo và có hương vị thơm, thích hợp tsử dụng trong công nghiệp thực phẩm. Mỹ hiện đang tiếp tục thực hiện các nghiên cứu chọn giống khoai lang chất lượng cao giàu protein, vitamin A và có hương vị thơm; ứng dụng công nghệ gen, công nghệ tế bào trong tạo giống. Khoai lang Nhật cũng nổi tiếng về chất lượng cao với hướng chọn tạo giống khoai lang để sử dụng lá làm rau xanh, làm nước sinh tố và thực phẩm có màu tím hoặc màu cam đậm tự nhiên. Nhược điểm khoai lang Nhật, Mỹ, Trung Quốc khi trồng ở Việt Nam là thời gian sinh trưởng hầu hết đều dài trên 115 ngày, không thật thích hợp hiệu quả khi đưa vào các vụ trồng ở Việt Nam. Năm giống khoai lang phổ biến nhất Việt Nam hiện nay là HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím, Hoàng Long, Hưng Lộc 4, Bí Đà Lạt đều vận dụng nguồn gen quý của Nhật, Mỹ, Trung Quốc nhưng đều đã được Việt hóa, lai tạo, tuyển chọn, bồi dục theo định hướng và tiêu chuẩn giống khoai lang tốt Việt Nam (Hoàng Kim và đồng sự 2015, Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997). CIP Peru và CIP Philippines (vùng 7) là nôi hợp tác nghiên cứu đào tạo CIP Peru và CIP Philippines (vùng 7) là nôi hợp tác nghiên cứu đào tạo của khoai Việt. CIP Peru với khoai Việt, một thời để nhớ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cip-peru-voi-khoai-viet/

GIỐNG KHOAI LANG VIỆT NAM

Nguồn gen giống khoai lang Việt Nam chủ yếu được thu thập, đánh giá và bảo tồn tại Trung tâm Tài nguyên Thực vật, thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam với 528 mẫu giống đã được tư liệu hoá (trong đó có 344 mẫu do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chuyển đến) Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm (FCRI) có 118 mẫu giống, Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc năm 2009 có 78 mẫu giống.Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh có 30 mẫu giống.

Tại các tỉnh phía Bắc, giống khoai lang trồng phổ biến là khoai Hoàng Long, với các giống khác có quy mô hẹp hơn gồm KB1, K51, Tự Nhiên, Chiêm Dâu, Từ năm 1981 đến nay, Viện Cây Lương thực Cây Thực phẩm (FCRI) và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (VASI) đã tuyển chọn và giới thiệu  cho sản xuất 15 giống khoai lang tốt theo ba hướng chính: 1) Nhóm giống khoai lang năng suất củ tươi cao, chịu lạnh, ngắn ngày, thích hợp vụ đông, gồm K1, K2, K3, K4, K7, K8, VX37-1, Cực nhanh. Những giống này chủ yếu được nhập nội từ CIP, Philippines, Trung Quốc, Liên Xô (cũ) trong giai đoạn 1980-1986 và tuyển chọn để tăng vụ khoai lang đông. 2) Nhóm giống khoai lang năng suất củ cao, nhiều dây lá thích hợp chăn nuôi, gồm KL1, KL5, K51. Các giống này phát triển ở giai đoạn 1986-2000 trong chương trình hợp tác với CIP. 3) Nhóm giống khoai lang năng suất củ cao, phẩm chất ngon. gồm việc phục tráng và chọn lọc giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu (Vũ Tuyên Hoàng, Mai Thạch Hoành 1986, 1992), Tự Nhiên (Trương Văn Hộ và ctv, 1999); tuyển chọn và phát triển giống khoai lang KB1 (Nguyễn Thế Yên, 2003). Hiện nay dân đang quan tâm các giống khoai đặc sản địa phương và khoai chất lượng cao.

Tại các tỉnh phía Nam các giống khoai lang hiên trồng phổ biến là HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím), HL4, Hoàng Long, Bí Đà Lạt. Những giống khoai bản địa, giống tạo thành và nhập nội triển vọng có Chiêm Dâu, Trùi Sa,  Dương Ngọc, Tàu Nghẹn, Khoai Sữa, Khoai Gạo, Murasa kimasari (Nhật tím 1), Kokey 14 (Nhật vàng). Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh (NLU) và Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (HARC) từ năm 1981 đến nay đã tuyển chọn và giới thiệu cho sản xuất 7 giống khoai lang có năng suất củ cao, phẩm chất ngon, thích hợp tiêu thụ tươi gồm Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt (1981), HL4 (1987), HL491, HL518 (1997). Các giống khoai lang chất lượng cao có dạng củ đẹp thuôn láng, được thị trường ưa chuộng có HL518, HL491, Kokey 14, Murasa kimasari. Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2008 -2011 đánh giá, tuyển chọn 24 giống khoai lang khảo nghiệm toàn cầu trong chương trình hợp tác với CIP; Khảo sát các giống khoai lang nhiều dây lá, năng suất bột cao cho hướng chế biến cồn trong chương trình hợp tác với công ty Technova và công ty Toyota Nhật Bản (Hoàng Kim 2008).

Những giống khoai lang phẩm chất ngon được đánh giá và tuyển chọn trong đề tài “Thu thập, khảo sát, so sánh và phục tráng giống khoai lang tại huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai 2008-2010”. Đây là nội dung hợp tác giữa Sở Khoa học Công nghệ Đồng Nai, Viện Sinh học Nhiệt đới, Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh và Phòng Nông nghiệp Xuân Lôc. Kết quả đề tài là các giống khoai lang tốt HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím được phổ biến rộng rãi hơn trong sản xuất (Hoàng Kim, Trần Ngọc Thùy, Trịnh Việt Nga, Nguyễn Thị Ninh 2009).  Hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) đã được trồng khá phổ biến và mang lại sự thay đổi căn bản về năng suất cao và chất lượng ngon cho sự canh tác khoai lang tại nhiều tỉnh của Việt Nam. Kỷ yếu 90 năm Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam 1925- 2015, trang 51, hình trên ghi rõ: Bảy giống khoai lang tốt được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận giống ở các tỉnh phía Nam tiêu biểu nhất là ba giống HL518 (Nhật đỏ) HL491 (Nhật tím) và Hoàng Long. Giống HL518, HL491 hiện đã được trồng khá phổ biến và mang lại sự thay đổi căn bản về năng suất cao và chất lượng ngon cho sự canh tác khoai lang tại nhiều tỉnh của Việt Nam. Những tỉnh trồng hai giống khoai lang này nhiều là Vĩnh Long, Kiên Giang, Đà Lạt, Đăk Nông, Gia Lai, Đồng Nai và Sóc Trăng, … Tại Vĩnh Long, việc thay thế giống khoai lang địa phương Dương Ngọc, Tàu Nghẹn, Bí Đế bằng hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) và ứng dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh thích hợp đã đưa sản lượng khoai lang Vĩnh Long năm 2000 từ diện tích khoai lang 2,5 ngàn ha, năng suất bình quân 18,4 tấn/ ha, sản lượng 46,2 ngàn tấn lên sản lượng khoai lang năm 2011 đạt 248,7 ngàn tấn, diện tích khoai lang 8,5 ngàn ha, năng suất bình quân 29,2 tấn/ ha (Tổng cục Thống kê 2014).

MỘT SỐ GIỐNG KHOAI LANG PHỔ BIẾN

Giống khoai lang HL518

Nguồn gốc giống: Giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) là giống khoai lang Việt Nam ưu tú có nguồn gốc từ tổ hợp lai Kokey 14 Nhật Bản polycross, tạo giống tại Việt Nam; giống do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam chọn tạo và giới thiệu (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997 Giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997; hiện trồng phổ biến trong sản xuất và bán nhiều ở các siêu thị. HL518 được nhóm nghiên cứu Việt Nam tuyển chọn trong quần thể 800 hạt khoai lai Kokey 14 polycross nguồn gốc Nhật Bản nhập nội từ CIP vào Việt Nam do chuyên gia CIP là tiến sĩ Il Gin Mok quốc tịch Hàn Quốc. Sau đó Trung tâm Hưng Lộc đã chọn được mẫu giống khoai lang CIP92031 hội được nhiều đặc tính quý, đã sử dụng giống CIP92031 lai hữu tính (back cross) tự phối, tạo chọn được giống HL518. Chi tiết thông tin tại  Giống khoai lang ở Việt Nam http://www2.hcmuaf.edu.vn/contents.php?ids=9858&ur=hoangkim

Đặc tính giống: HL518 là giống khoai lang rất ngon. Thời gian sinh trưởng từ 95 đến 110 ngày. Năng suất củ tươi: 17-32 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27-30%. chất lượng củ luộc rất ngon, vỏ củ màu đỏ đậm, thịt củ màu cam đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây. Các chợ và siêu thị trên toàn quốc đều có bán. Mười kỹ thuật canh tác khoai lang cần tuyển lại hệ củ theo bản tả kỹ thuật đã đăng ký, để đảm bảo chất lượng và năng suất.

Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997. Hai giống khoai lang mới HL518 và HL491. Tài liệu báo cáo công nhận hai giống khoai lang HL518 và HL419. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Hội nghị khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 16-18/9/1997. 18 trang. Two new sweet potato varieties: HL 518 and HL 491. In: MARD Proc. Vietnam Agricultural Research Workshop held in Ho Chi Minh City, Vietnam, Sep 16- 18/1997. 18p.

Nguồn gốc di truyền: HL518 được nhóm nghiên cứu Việt Nam tuyển chọn trong quần thể 800 hạt khoai lai Kokey 14 polycross nguồn gốc Nhật Bản nhập nội từ CIP vào Việt Nam do chuyên gia CIP là tiến sĩ Il Gin Mok quốc tịch Hàn Quốc. Sau đó Trung tâm Hưng Lộc đã chọn được mẫu giống khoai lang CIP92031 hội được nhiều đặc tính quý, đã sử dụng giống CIP92031 lai hữu tính (back cross) tự phối, tạo chọn được giống HL518. Giống khoai lang ở Việt Nam http://www2.hcmuaf.edu.vn/contents.php?ids=9858&ur=hoangkim

Giống khoai lang HL491

Nguồn gốc giống: Giống khoai lang HL491 (Nhật tím) do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chọn tạo và giới thiệu từ tổ hợp lai Murasa Kimasari polycross nguồn gốc Nhật Bản = CN76-2 CIP/AVRDC (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997, hiện phổ biến rộng rãi trong sản xuất và bán nhiều ở các siêu thị..

Đặc tính giống: Thời gian sinh trưởng từ 95 đến 110 ngày. Năng suất củ tươi: 15-27 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27- 31%. chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu tía, thịt củ màu tím đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây.

IAS90

Hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) đã được trồng khá phổ biến và mang lại sự thay đổi căn bản về năng suất cao và chất lượng ngon cho sự canh tác khoai lang tại nhiều tỉnh của Việt Nam.

KhoaiSan

Kỷ yếu 90 năm Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam 1925- 2015, trang 51, hình trên ghi rõ: Bảy giống khoai lang tốt được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận giống ở các tỉnh phía Nam tiêu biểu nhất là ba giống HL518 (Nhật đỏ) HL491 (Nhật tím) và Hoàng Long. Giống HL518, HL491 hiện đã được trồng khá phổ biến và mang lại sự thay đổi căn bản về năng suất cao và chất lượng ngon cho sự canh tác khoai lang tại nhiều tỉnh của Việt Nam. Những tỉnh trồng hai giống khoai lang này nhiều là Vĩnh Long, Kiên Giang, Đà Lạt, Đăk Nông, Gia Lai, Đồng Nai và Sóc Trăng, … Tại Vĩnh Long, việc thay thế giống khoai lang địa phương Dương Ngọc, Tàu Nghẹn, Bí Đế bằng hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) và ứng dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh thích hợp đã đưa sản lượng khoai lang Vĩnh Long năm 2000 từ diện tích khoai lang 2,5 ngàn ha, năng suất bình quân 18,4 tấn/ ha, sản lượng 46,2 ngàn tấn lên sản lượng khoai lang năm 2011 đạt 248,7 ngàn tấn, diện tích khoai lang 8,5 ngàn ha, năng suất bình quân 29,2 tấn/ ha (Tổng cục Thống kê 2014).

Giống khoai lang HOÀNG LONG

Nguồn gốc giống: Hoàng Long là giống khoai lang phổ biến ở Việt Nam. Nguồn gốc Trung Quốc nhập nội vào Việt Nam năm 1968. Giống do Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy, 1981). Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 1981(*).

Đặc tính giống: Thời gian sinh trưởng 85-95 ngày. Năng suất củ tươi 15 – 27 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 27-30%, chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu hồng sẫm, thịt củ màu vàng cam, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím phủ luống gọn, mức độ nhiễm sùng và sâu đục dây trung bình

(*) Notes: xem thêm Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy, 1981: Tiến bộ mới trong chọn giống khoai lang ở các tỉnh phía Nam Việt Nam. (Recent progress in Sweet Potato varietal improvement in South Vietnam. Báo cáo công nhận chính thức bốn giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt. Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp Thực phẩm. Hội nghị khoa học kỹ thuật nông nghiệp các tỉnh phía Nam lần thứ nhất, thành phố Hồ Chí Minh, 9-11/5/1981. 33 trang MAFI (MARD), Proc. 1st Vietnam Agricultural Research Workshop held in Ho Chi Minh City, Vietnam, May 09-11/1981. 33 pages)  Khoai lang Hoàng Long có nguồn gốc tại Thái Sơn, Thái An, Sơn Đông, Trung Quốc do tổ chuyên gia Trung Quốc mang vào Việt Nam năm 1968 làm việc với các chuyên gia nông nghiệp Việt Nam Quách Ngọc Ân, Đinh Thế Lộc. Khoai lang Hoàng Long được  trồng đầu tiên tại chân núi Trường Sinh thuộc bản Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện miền núi Cẩm Thủy và phát triển rộng nhất ở huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Giống khoai lang Hoàng Long chọn lọc do Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh thu thập, tuyển chọn và giới thiệu công nhận giống năm 1981. Khoai Hoàng Long chọn lọc được tuyển chọn theo hướng năng suất cao phẩm chất ngon vỏ củ màu hồng sẫm, thịt củ màu vàng cam, dạng củ đều đẹp, chất lượng ngon, độ dẽo hơn độ ngọt Đây là giống khoai lang cao sản được trồng phổ biến nhất Việt Nam trong bốn mươi năm qua, nhiều nhất tại tỉnh Thanh Hóa. Giống khoai Hoàng Long tuyển chọn tại Việt Nam có chất lượng ngon hơn và ngắn ngày hơn so với giống gốc đầu tiên tại Trung Quốc.

Khoai lang Thái An, Sơn Đông Trung Quốc  (hình ảnh Hoàng Kim chụp ngày 26. 5. 2018 tại Thái An, Sơn Đông). Trung Quốc dường như đã có qui trình và máy sản xuất sấy dẻo khoai lang. Việt Nam những sản phẩm sấy dẻo khoai lang dạng này với chất lượng ngon tương xứng tiếc là hiện nay chúng tôi chưa nhìn thấy,.mà chỉ thấy dạng “sweet potatoes chips” nhiều hơn.

Giống khoai lang HL4

Nguồn gốc giống HL4 là giống khoai lang phổ biến ở vùng Đông Nam Bộ. Nguồn gốc Việt Nam. HL4 là giống lai [khoai Gạo x Bí Dalat] x Tai Nung 57 do Trung tâm Nghiên cứu Thực Nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc tạo chọn và giới thiệu (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim 1987). Bộ Nông nghiệp

Đặc tính giống: Thời gian sinh trưởng 85-95 ngày. Năng suất củ tươi 18 – 33 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 27-30%, chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu đỏ, thịt củ màu cam đậm, dạng củ đẹp, lá xanh phân thùy năm khía sâu, dây xanh phủ luống rất gọn, mức độ nhiễm sùng trung bình, nhiễm nhẹ sâu đục dây.

Giống khoai lang Bí Đà Lạt

Nguồn gốc giống Giống khoai lang Bí Đà Lạt hay còn gọi là khoai lang Bí Mật Đà Lạt là giống một giống khoai lang phổ biến bản địa nguồn gốc tại Đà Lạt do Trung tâm Nghiên cứu Thực Nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc tạo chọn và giới thiệu (Hoàng Kim Nguyễn Thị Thủy, 1981). Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 1981.

Đặc tính giống: Thời gian sinh trưởng 85-95 ngày. Năng suất củ tươi 15 – 23 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 25-27%, chất lượng củ luộc dẽo ngọt, tươm mật, độ dẽo hơn độ bột, vỏ củ màu đỏ, thịt củ màu cam nhạt đến đậm, dạng củ đẹp, dây tím xanh, lá xanh tím hình tim không khía, phủ luống gọn, mức độ nhiễm sùng và sâu đục dây trung bình

Giống khoai lang KOKEY14

Nguồn gốc giống: Giống Kokey 14 (Nhật vàng) có nguồn gốc Nhật Bản do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc nhập nội năm 1997 từ Công ty FSA (Bảng 1). Giống được tuyển chọn và giới thiệu năm 2002 (Hoang Kim, Nguyen Thi Thuy 2003), hiện là giống phổ biến trong sản xuất

Đặc tính giống: Thời gian sinh trưởng: 110-120 ngày. Năng suất củ tươi: 15-34. tấn/ha; tỷ lệ chất khô 29-31%. chất lượng củ luộc ngon, vỏ củ màu đỏ, thịt củ màu vàng cam, dạng củ đều đẹp, dây xanh, nhiễm nhẹ sùng (Cylas formicariu) và sâu đục dây (Omphisia anastomosalis) virus xoăn lá (feathery mottle virus), bệnh đốm lá (leaf spot: Cercospora sp), bệnh ghẻ (scab) và hà khoai lang (Condorus sp).

Giống khoai lang MURASAKIMASARI

Nguồn gốc: Giống Murasa Kimasari (Nhật tím 1) có nguồn gốc Nhật Bản, do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc nhập nội năm 1994 từ Công ty FSA (Bảng 1). Giống dài ngày .120 ngày được tuyển chọn dòng poly cross và giới thiệu năm 2002.(Hoang Kim, Nguyen Thi Thuy 2003) hiện được trồng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, bán tại các chợ đầu mối và siêu thị.

Đặc tính giống: Thời gian sinh trưởng: 105-110 ngày. Năng suất củ tươi: 10-22. tỷ lệ chất khô 27-30%. chất lượng củ luộc khá ngon, vỏ củ màu tím sẫm, thịt củ màu tím đậm, dạng củ đều đẹp, dây tím xanh, nhiễm nhẹ sùng và sâu đục dây.

Giống khoai lang HL284

Nguồn gốc giống HL284 (Nhật trắng) thuộc nhóm giống khoai lang tỷ lệ chất khô cao, nhiều bột. Nguồn gốc AVRDC (Đài Loan) /Japan. Giống do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc nhập nội, tuyển chọn và đề nghị khảo nghiệm năm 2000.

Đặc điểm giống: Thời gian sinh trưởng 90-105 ngày. Năng suất củ tươi 18 – 29 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 28-31%, chất lượng củ luộc khá, độ bột nhiều hơn độ dẽo, vỏ củ màu trắng, thịt củ màu trắng kem, dạng củ đều, dây xanh, nhiễm sùng và sâu đục dây trung bình.

Giống khoai lang KB1

Nguồn gốc giống: KB1 là giống khoai lang hiện đang phát triển ở vùng đồng bằng sông Hồng. Giống do Viện Cây Lương thực Cây Thực phẩm tuyển chọn và giới thiệu (Vũ Văn Chè, 2004). Bộ Nông nghiệp và PTNT đã công nhận giống năm 2004.

Đặc điểm giống: Thời gian sinh trưởng 95 -100 ngày. Năng suất củ tươi 22 – 32 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 27-29%, chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu hồng cam, thịt củ màu cam đậm, dạng củ hơi tròn, dây xanh, ngọn tím, nhiễm sùng và sâu đục dây trung bình.

MƯỜI KỸ THUẬT THÂM CANH KHOAI LANG

  • 1. Lựa chọn xác định giống tốt phù hợp
  • 2. Sử dụng giống tốt đạt tiêu chuẩn (tuyển chọn hệ củ giống tốt)
  • 3. Xác định thời vụ trồng và thời gian xuống giống thích hợp
  • 4. Chọn đất và kỹ thuật làm đất phù hợp hiệu quả
  • 5. Bảo đảm mật độ và khoảng cách trồng
  • 6. Bón phân chăm sóc kịp thời theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
  • 7. Chăm sóc, tưới nước đảm bảo đủ ẩm cho khoai
  • 8. Dặm tỉa làm cỏ kịp thời
  • 9. Phòng trừ sâu bệnh hại khoai lang
  • 10. Thu hoạch, phơi sấy, bảo quản, VIETGAP cho cây khoai lang
           tổ chức sản xuất chế biến kinh doanh và tiêu thụ khép kín

Việc ứng dụng giống khoai lang tốt có năng suất chất lượng cao và “Mười biện pháp kỹ thuật thâm canh khoai lang” đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho nông dân.  Tuy vậy, năng suất, sản lượng, hàm lượng các chất trong củ khoai lang (% chất khô, tinh bột, vitamin, … ) là có sự sai khác rất rõ giữa các địa phương, vùng miền, tùy thuộc chủ yếu vào các yếu tố:  đặc điểm sinh thái khí hậu đất đai và mức độ thích hợp với các giống khoai lang khác nhau; trình độ kỹ thuật thâm canh của dân địa phương và điều kiện kinh tế xã hội liên quan đến sản xuất và tiêu thụ khoai lang; mô hình tổ chức sản xuất tiêu thụ khép kín theo VIETGAP và lợi thế so sánh của vùng sinh thái từng địa phương

Khó khăn chính trong sản xuất khoai lang hiện tại là: 1) Giống khoai lang lẫn tạp và thoái hóa; 2) Mười kỹ thuật thâm canh khoai lang người dân vận dụng chưa thật thành thạo, chuyên nghiệp và phù hợp (từ 1) thời vụ trồng, 2) chọn đất, 3) chọn hom giống tốt, 4) kỹ thuật làm đất, 5) bón phân NPK và hữu cơ vi sinh, 6) kỹ thuật trồng, 7) mật độ trồng, 8) phòng trừ sùng khoai lang, sâu đục dây và bệnh hại, 9) đến các biện pháp làm cỏ, nhấc dây, 10) tổ chức sản xuất kinh doanh và tiêu thụ khép kín…); Chưa kiểm soát tốt sùng hà gây hại; Ít đầu tư thâm canh; Chưa tổ chức sản xuất kinh doanh và tiêu thụ khép kín.

KHOAI VIỆT TỪ GIỐNG TỐT ĐẾN THƯƠNG HIỆU

Hỏi: Kính chào Thầy TS Hoàng Kim, xin cho biết giống khoai lang tốt và thương hiệu khoai lang tốt hiện nay ở Việt Nam?

TS. Hoàng Kim Trả lời: Khoai Việt hiện đã có những giống khoai lang tốt chất lượng ngon, năng suất cao, được nông dân thích trồng và thị trường ưa chuộng như giống khoai HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím), Hoàng Long, Kokey 14 (Nhật vàng), Bí Đà Lạt,… Giống tốt thích nghi rộng như khoai lang Hoàng Long từ lúc công nhận giống cho đến nay đã khoảng 40 năm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong diện tích khoai lang trồng ở các tỉnh phía Bắc. Chúng ta cũng đã có thương hiệu khoai lang Ba Hạo (Hạo Đỗ Quý ) vang bóng một thời. Anh Đỗ Quý Hạo đã được Nhà nước Việt Nam vinh danh trong Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc năm 2010 và nay anh đang thành “chuyên gia” giúp nhiều tỉnh “xây dựng mô hình khoai lang Nhật”. Thế nhưng, khoai lang Việt từ giống tốt đến thương hiệu vẫn còn là một câu chuyện dài…

Giống khoai lang HL518 Nhật Đỏ: Trúng mùa (ảnh Đỗ Quý Hạo)

Giống khoai lang ngon năng suất cao ở miền Nam

Trước năm 1975, giống khoai lang ở Việt Nam chủ yếu được tiêu thụ tươi và làm thức ăn gia súc. Giống khoai lang phổ biến ở miền Nam là Trùi Sa, Trà Đõa, Dương Ngọc lá tròn, Dương ngọc lá tím, Tàu Nghẹn, Bí Đế, Đặc Lý, Bí mật Đà Lạt và Okinawa 100. Đề tài : “Chọn tạo giống sắn khoai lang thích hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp miền Nam” là đề tài do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam chủ trì thực hiện, thuộc chương trình cấp Bộ 1981-1990, sau đó tiếp tục 1991-2006, và kết nối hợp tác Quốc tế với CIAT, VEDAN (sắn), CIP (khoai lang), Việt Tiệp (sắn xen đậu rồng), IRRI (hệ thống cây trồng cây có củ trên nền lúa)… với nhiều tổ chức quốc tế khác. Mục tiêu: nhập nội, thu thập, lai tạo, bảo tồn, tuyển chọn và phát triển các giống sắn và khoai lang có năng suất cao, chất lượng tốt, thích hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp miền Nam. Kết quả (riêng về khoai lang) “Tiến bộ mới trong chọn tạo giống khoai lang ở các tỉnh phía Nam” (1981-2006) đã tuyển chọn được bảy giống khoai lang gồm: Hoảng Long, Chiêm Dâu, Khoai Gạo, Bí Đà Lạt (Bộ Nông nghiệp Công nghiệp Thực phẩm công nhận giống năm 1981), HL4 (Bộ Nông nghiệp Công nghiệp Thực phẩm công nhận giống năm 1987); HL518 và HL491 ( Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997). Đây là những giống khoai lang chủ lực trong sản xuất tại thời điểm, HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) đột phá về chất lượng khoai ngon. Những tỉnh trồng hai giống khoai lang này nhiều là Vĩnh Long, Kiên Giang, Đà Lạt, Đăk Nông, Gia Lai, Đồng Nai và Sóc Trăng. Điển hình tỉnh Vĩnh Long sản lượng khoai lang năm 2000 là 46,2 ngàn tấn, diện tích khoai lang 2,5 ngàn ha, năng suất bình quân 18,4 tấn/ ha, năm 2011 sản lượng khoai lang đạt 248,7 ngàn tấn, diện tích khoai lang 8,5 ngàn ha, năng suất bình quân 29,2 tấn/ ha (Tổng cục Thống kê 2014) do trồng thâm canh Nhật tím HL491 và Nhật đỏ HL518.

Khoai lang HL518 khác biệt Beni Azuma?

TS Hoàng Kimtrả lời thư em Trần Ngọc Đức (tranngocduc20071996@gmail.com)

Câu hỏi: Gửi thầy Hoàng Kim. Em tên là Trần Ngọc Đức, sinh viên lớp DH14NHGL. Em viết bài thu hoạch cây lương thực về đề tài cây khoai lang Nhật Bản ở huyện Tuy Đức tỉnh Đắk Nông. Giống khoai lang này vỏ đỏ hồng, ruột vàng tương tự giống HL518 nhưng họ nói đó là giống khoai lang Nhật Bản Beni Azuma mà không nói rõ tên riêng. Cho em hỏi làm thế nào để biết giống khoai lang HL518 khác biệt Beni Azuma?

Trả lời: Em muốn biết giống khoai lang HL518 khác biệt Beni Azuma như thế nào? Em hãy: 1) tìm hiểu nguồn gốc lý lịch giống gốc, nơi mua bán, cách sử dụng và vùng phân bố ; 2) tìm hiểu đặc trưng hình thái và tự đánh giá thông tin DUS về tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định của giống đó, 3) xác định đặc tính nông sinh học qua kết quả khảo nghiệm VCU theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 01-60 : 2011/BNNPTNT về giá trị canh tác và sử dụng của giống khoai lang đó. Ba ý này đủ giúp em phân biệt.Khoai lang HL518 khác biệt với khoai lang Beni Azuma trồng ở Việt Nam: 1) Giống khoai lang HL518 và Beni Azuma đều có vỏ củ màu đỏ và thịt củ màu vàng, dây xanh tím, lá hình tim, nhưng thịt củ HL518 màu vàng cam đậm hơn, chất lượng củ luộc bột và thơm ngon hơn so với thịt củ Beni Azuma màu vàng cam nhạt với chất lượng củ luộc dẽo mềm hơn, dạng củ HL518 thuôn láng và đều củ hơn so Beni Azuma dạng củ dài ; 2) Giống khoai lang HL518 thời gian sinh trưởng 90 -110 ngày so với Beni Azuma thời gian sinh trưởng 120 -140 ngày (Trung tâm Hưng Lộc đã thử nghiệm nhiều năm các giống khoai lang Nhật Bản nhập hom, hạt và cấy mô đều có thời gian sinh trưởng dài 120 -140 ngày. GS Nguyễn Văn Uyển cũng đã nhận xét tương tự khi nhập giống khoai lang Nhật Bản trực tiếp từ GS Watanabe thử nghiệm nhân nhanh bằng cấy mô để sản xuất khoai Nhật bán cho Nhật nhưng không thành công. Cần nhất là giống khoai chất lượng Nhật nhưng ngắn ngày Việt. Việc lai giống và chọn dòng khoai lang Nhật ở Việt Nam là rất cần thiết để chọn dòng khoai lang Nhật thời gian sinh trưởng ngắn và nhóm nghiên cứu của thầy đã thành công khi thực hiện điều ấy để tuyển chọn được hai giống khoai lang HL518 Nhật đỏ và HL491 Nhật tím là giống khoai lang thương hiệu Việt. Nay phép thử đồng ruộng của em là hỏi nông dân trực tiếp trồng xem giống khoai lang đó thời gian sinh trưởng bao nhiêu ngày?); 3) Giống khoai lang HL518 là khoai Việt chất lượng Nhật có bản tả kỹ thuật chi tiết đã được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997, khác biệt rất rõ so với giống Beni Azuma là khoai dẽo dài ngày của Nhật. Em cần xác minh rõ thêm về hồ sơ nhập giống, nguồn gốc, đặc tính giống và đối chiếu với thực tiễn sản xuất thì rõ ràng. Chúc em thành công.

ĂN KHOAI KIỂU NHẬT
Hoàng Kim

ĂN khoai kiểu Nhật nhớ em tôi
KHOAI Đỗ Quý Hạo thật tuyệt vời
KIỂU ngon nướng hầm nghiền hấp luộc
NHẬT đỏ (HL518) Nhật tím (HL491) ngon nhất thôi

Ăn khoai kiểu Nhật thì họ thích nhắt ăn nướng; kế đến là hầm nghiền hấp luộc. Hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL91 (Nhật tím) đáp ứng tốt thị trường khó tính này.

Viện phòng chống ung thư công bố bảng xếp hạng hàm lượng ức chế ung thư trong các loại rau:
01) Khoai lang nấu chín 98,7%
02) Khoai lang sống 94,4%
03) Măng tây 93,9%
04) Bắp cải 91,4%
05) Hoa cải dầu 90,8%
06) Cần tây 83,7%
07) Bông cải 82,8%
08) Cà tím 74,0%
09) Tiêu 55,5%
10) Cà rốt 46,5%
11) Cây linh lăng 37,6%
12) Cây tế thái 35,4%
13) Cây su hào 34,7%
14) Cây mù tạt 32,9%
15) Cải dưa 29,8%
16) Cà chua 23,8%

Lời khuyên: Tất cả các loại khoai lang đều có chứa collagen, khoai lang vàng nhiều nhất, và hầu hết các thành phần chống ung thư chứa nhiều nhất ở khoai lang tím và nước chanh nóng không đường.

GIỐNG KHOAI LANG VIỆT NAM
câu chuyện cũ và bài học mới
Hoàng Kim


chúc mừng Đỗ Công Hoàng, bạn cũ thuở Trung tâm Hưng Lộc vui khỏe hạnh phúc, với chùm ảnh mới “Đánh giá khả năng tạo củ sau khi phun thuốc ức chế sinh trường 1 tháng với các nồng độ trên giống khoai lang Nhật tại Bình Tân, Vĩnh Long “. Khoai Bình Minh Bình Tân Vĩnh Long ngày nay chủ lực vẫn là giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và giống khoai lang HL491 (Nhật tím), nhưng hai giống này đã trồng từ 1997 đến nay, đã trên 24 năm, cần chọn dòng, phục tráng, cải tiến giống để bảo tồn và phát triển giống khoai lang bền vững https://www.facebook.com/daihocnonglam/posts/10220428321519729

Từ khóa: Việt Nam con đường xanh; Giống khoai lang Việt Nam; Giống khoai lang HL518; Giống khoai lang HL491; Giống khoai Hoàng Long; Giống khoai lang HL4; Giống khoai Bí Đà Lạt; Giấc mơ lai khoai lang

GIẤC MƠ LAI KHOAI LANG
Hoàng Kim

Muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng? Trước đây khi còn trẻ thơ, tôi đã tự hỏi vậy. Gần đây, bài thơ ‘Chuyện Tình Hoa Muống Biển” của anh Hoàng Đại Nhân gợi tôi trở về câu chuyện cũ. Bài thơ trong sáng giản dị và hay, cốt truyện tình yêu đẹp, giá trị nhân văn cao, hình ảnh tuyệt vời. Tôi trở lại câu hỏi khoa học cây trồng Muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng?

Hoa muống biển và hoa khoai lang hình thái thật giống nhau.

Muống biển và khoai lang là hai loài thực vật có quan hệ gần gũi. Muống biển (Ipomoea pes-caprae (L.) R.Br.) là loài thực vật thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae) mọc phổ biến trên của các bãi biển và chịu được không khí mặn. Carl von Linné (23 tháng 5 năm 1707 – 10 tháng 1 năm 1778), nhà thực vật học, bác sĩ kiêm động vật học người Thụy Điển, người tiên phong của ngành sinh thái học “Hoàng tử của giới thực vật học“, cha đẻ của hệ thống phân loại theo danh pháp hiện đại, là người đầu tiên mô tả loài thực vật này; năm 1818, Robert Brown là người phân loại nó vào chi hiện tại. Muống biển được tìm thấy trên bờ cát vùng nhiệt đới ven biển Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, phía bắc của bang New South Wales, và dọc bờ biển bang Queensland thuộc nước Úc. Muống biển ở Việt Nam mọc hoang khắp các bãi cát ven biển từ Hà Tiên, Rạch Giá (Kiên Giang), đến Vũng Tàu (Bà Rịa Vũng Tàu), Nha Trang (Khánh Hòa), Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Phòng…Muống biển có công dụng làm thuốc nhưng hiện chưa có các nghiên cứu sâu về cây này. Theo Nông nghiệp Việt Nam muống biển công dụng trong y học cổ truyền được dùng toàn cây để chữa trị các chỗ viêm do dị ứng với sứa biển, phong độc, bệnh ngoài da; hạt để chữa trị mệt mỏi; lá được dùng để giã nát đắp lên chỗ ngứa do sứa biển.

Khoai lang (Ipomoea batatas L) là cây hai lá mầm thuộc họ Bìm bìm Convolvulaceae, chi Ipomoea, Chi phụ: Quamoclit; Phân chi: Batatas Loài: Ipomoea batatas. Họ Bìm bìm có 55 chi và khoảng 1650 loài, trong đó chi Ipomoea là chi lớn nhất với khoảng 600 loài (Austin, 1997). Ở Việt Nam có 13 chi và 76 loài (Lương Ngọc Toàn và csv, 1978). Cây khoai lang được phân loại trong chi Batatas. Hiện nay trong nội tộc phân chi Batatas có 13 loài hoang dại quan hệ với khoai lang. Khoai lang có số nhiễm sắc thể 15, là dạng lục bội thể (6x) duy nhất có khả năng tạo củ để làm lương thực. Trần Văn Minh 2008 đã trích dẫn tài liệu của Iting và Kehr 1953 nghiên cứu sự phân chia giảm nhiễm ở các giống khoai lang của Mỹ và giả thuyết là khoai lang có nguồn gốc đa bội khác nguồn. Nó hình thành từ tổ hợp lai giữa một tứ bội thể với nhị bội, sau đó xẩy ra quá trình phân đôi nhiễm sắc thể ở con lai bất dục. Nishiyama 1982 và Shiotani 1988 thì lại cho rằng khoai lang là một tứ bội cùng nguồn, hình thành do sự đa bội hoá của loài lưỡng bội.

Carl von Linné nhà thực vật học Thụy Điển, nhà bác học hàng đầu của nhân loại ngành sinh thái học “Hoàng tử của giới thực vật học“, cha đẻ của hệ thống phân loại theo danh pháp hiện đại. Ông là người đầu tiên mô tả loài muống biển. Ông cũng là nhà thơ, nhà ngôn ngữ lừng danh mà August Strindberg tác giả người Thụy Điển viết: “Linné kỳ thực là một nhà thơ sinh ra để trở thành nhà tự nhiên học”. Linné được Goethe nhà bác học thiên tài người Đức ca ngợi: “Trừ Shakespeare và Spinoza, tôi không biết ai giữa những người không còn sống mà ảnh hưởng tới tôi lớn hơn thế”.

Hình ảnh cậu bé tiến về biển lúc bình minh gợi chúng ta nhớ về câu chuyện muống biển, khoai lang quan hệ với “Hai vạn dặm dưới đáy biển” một tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của Jules Verne nhà văn Pháp nay đã chuyển thể thành phim. Hai Vạn Dặm Dưới Đáy Biển http://hdonline.vn/phim-hai-van-dam-duoi-day-bien-10140.htm…

Câu chuyện “20,000 Leagues Under the Sea” 1954 kể rằng: Trong năm 1868, tin đồn về một con quái vật biển tấn công tàu ở Thái Bình Dương đã tạo ra lo âu và khiếp sợ trong thủy thủ Hoa Kỳ, làm gián đoạn đường vận chuyển hàng hải . Chính phủ Hoa Kỳ mời Giáo sư Pierre Aronnax và Conseil phụ tá của ông lên một tàu chiến thám hiểm để chứng minh hay bác bỏ sự tồn tại của con quái vật. Kết quả “Hai vạn dặm dưới đáy biển” Giáo sư Pierre Aronnax nhà bác học biển và cộng sự đã thấu hiểu đại dương, thế giới biển, nguồn thức ăn khác biệt và vô tận dưới biển sâu, và năng lực của tàu ngầm, phát minh khoa học làm mở rộng tầm mắt và thay đổi nhận thức về thế giới biển.

Giống khoai lang HL491Giống khoai lang HL518 chất lượng ngon, năng suất cao.

Giống khoai lang Việt Nam ngon nhất hiện nay là HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997) và khoai lang Hoàng Long (Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy 1981), Ba giống khoai lang ngon này mức kháng sùng chỉ đạt trung bình; xem tiếp Giống khoai lang Việt Nam. (Thông tin Nông nghiệp Việt Nam, Thứ Năm 06/04/2023 10.000 tấn khoai lang Vĩnh Long đủ tiêu chuẩn xuất chính ngạch)

Giáo sư Vũ Đình Hòa (Học Viện Nông nghiệp Việt Nam) trong luận án tiến sĩ năm 1991 có thực hiện việc lai giống khoai lang loài khoai lang Ipomoea batatas L với loài khoai lang dại Ipomoea Trifida để tìm giải pháp giống khoai lang kháng sùng.

Vậy, muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng?

Có thể hay không thể. To be or not to be.

xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/muong-bien-lai-khoai-lang/
Xem phim tại http://hdonline.vn/phim-hai-van-dam-duoi-day-bien-10140.html#OiqOQ7DCOXrz7GES.99

Ban mai trên biển Quê hương, nơi có sóng, có gió và loài hoa muống biển. Tôi yêu quê tôi, yêu vùng gió cát “Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình”. Nhớ đết thắt lòng con “dèm” nhỏ, con cua nhỏ nên dòng Gianh và những vạt muống biển xanh bất tận bên bờ Nhật Lệ.  Và bài thơ Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng  đã ra đời từ đó.

Làng Minh Lệ quê tôi

LỜI THƯƠNG 14
Hoàng Kim

Có một dòng sông chảy mãi
An vui cảnh đẹp người hiền

Đường xuân thênh thênh hạnh phúc
#Thungdung thế giới thần tiên

LƠI THƯƠNG 14 https://youtu.be/KhRe6VC56fs Có một dòng sông chảy mãi https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/co-mot-dong-song-chay-mai

QUẢNG BÌNH VỚI TRƯỜNG SƠN
Hoàng Kim

Quảng Bình đất và người
Quê Mẹ vùng di sản
Hoành Sơn với Linh Giang
Cao Biền trong sử Việt

Quảng Bình với Trường Sơn
Linh Giang sông quê hương
Con đường Hồ Chí Minh
Nam tiến của người Việt

Linh Giang Đình Minh Lệ
Đá Đứng chốn sông thiêng
Bến Lội Đền Bốn Miếu
Nguồn Son nối Phong Nha

Đào Duy Từ còn mãi
Huế có Thiên Thụ Sơn
Lời dặn của Thánh Trần
Ta về với Linh Giang

CON ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH
Hoàng Kim

Vầng đá chốn đại ngàn
Rượu cần nơi bản vắng
Câu cá bên dòng Sêrêpôk
Tắm tiên Chư Yang Sin

Đến với Tây Nguyên mới
Con đường Hồ Chí Minh

 linh-giang-dong-song-que-huong

Linh Giang sông quê hương
SÓNG YÊU THƯƠNG VỖ MÃI
Hoàng Kim


Anh yêu biển tự khi nào chẳng rõ
Bởi lớn lên đã có biển quanh rồi
Gió biển thổi nồng nàn hương biển gọi
Để xa rồi thương nhớ chẳng hề nguôi

Nơi quê mẹ mặt trời lên từ biển
Mỗi sớm mai gió biển nhẹ lay màn
Ráng biển đỏ hồng lên như chuỗi ngọc
Nghiêng bóng dừa soi biếc những dòng sông

Qua đất lạ ngóng xa vời Tổ Quốc
Lại dịu hiền gặp biển ở kề bên
Khi mỗi tối điện bừng bờ biển sáng
Bỗng nhớ nhà những lúc mặt trăng lên

Theo ngọn sóng trông mù xa tít tắp
Nơi mặt trời sà xuống biển mênh mông
Ở nơi đó là bến bờ Tổ Quốc
Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng

AnKySinh

An Kỳ Sinh chùa Đồng
Khoai Hoàng Long Yên Tử

Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Thành tâm với chính mình

Thành tâm với chính mình
GIA CÁT MÃ TIỀN KHÓA

Truyện Tam Cố Thảo Lư
Thành tâm với chính mình
Thế giới trong mắt ai
Gia Cát Mã Tiền Khóa

“Mơ màng ai tỉnh trước
Bình sinh ta biết ta
Thềm tranh giấc xuân đẫy
Ngoài song bóng xế tà”
1


Khổng Minh thơ ngôn chí
Nhân kiệt đất Long Trung
Công thành thân thoái ẩn
Ngũ Trượng sao lạnh lùng.


Công trùm thế tam phân,
Tiếng thơm đồ bát trận.
Nước chảy đá trơ trơ,
Đánh Ngô còn để giận”
2


Thiên Địa Nhân Tam Hợp
Cổ kim khéo luận bàn
Thế lớn tan rồi hợp
Hợp lâu rồi lại tan

Gia Cát Mã Tiền Khóa
Sáu chuyện đời khó quên:
Minh quân và danh tướng3
Gia đình với non sông4

Quy luật kết thực tiễn5
Hậu duệ của mặt trời 6
#Thungdung và biết đủ7
Thành bạ
i với sống còn8

2

Gia Cát Mã Tiền Khóa9
Tam Quốc Luận Anh Hùng
Thành tâm với chính mình
Thế giới trong mắt ai

Quốc Công đạo làm tướng
Vạn Kiếp binh thư truyền
Tiết Chế đức dụng nhân
Lời dặn của Thánh Trần


Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn

An vui cụ Trạng Trình
Đào Duy Từ còn mãi

Nguyễn Du trăng huyền thoại
Đi thuyền trên Trường Giang

Đường xuân theo chân Bác
Minh triết Hồ Chí Minh

Thượng Đức thương nhìn lại

Vị tướng của lòng dân
Vận khí và vận mệnh
Bài ca nhịp thời gian

Ban mai chào ngày mới
Tỉnh thức cùng tháng năm
Chuyện đồng dao cho em
Cuối dòng sông là biển

3

Ban mai chợt tỉnh giác
Chim rộn tai đầy vườn
Mèo quấn chân đòi cá
Mưa bão dầm hơn sương

Truyện Tam Cố Thảo Lư
Phim hay thành tục lụy

Thiền sư nhàn thoái ẩn
Tỉnh thức cùng tháng năm

Trà sớm thương lời hiền (*)

(*) xem toàn văn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thanh-tam-voi-chinh-minh/

CÀ PHÊ NGON NHỚ TÀU ĐÊM

#Thungdung một tách cà phê
#Annhiên giọt đắng thỏa thuê cõi Người
Kiếp sau ước được ơn Trời
Càn khôn thấu tỏ cảnh đời thần tiên

“Hãy canh gác cánh cửa TÂM TRÍ. Chúng ta trở thành thế nào chủ yếu được quyết định bởi những người chúng ta gặp, những sự kiện chúng ta tham gia, những cuốn sách chúng ta đọc, và lối sống mà chúng ta lựa chọn”. Hoàng Kim trong bài “Nguyễn Hoài Nhơn võng biển’ đã liên tưởng đối thoại với thiền sư @Jim Rohn để luôn tự nhắc mình https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cat-bui-chuyen-tram-nam

Theo sách Tam quốc chí thì Long Trung đối sách được đưa ra năm 207. Trong đó Gia Cát Lượng nhận định rằng hai thế lực lãnh chúa có quyền lực mạnh và ổn định nhất lúc này là Tào Tháo và Tôn Quyền.

Tào Tháo sau khi đánh thắng Viên Thiệu, chiếm cứ toàn bộ vùng Bình nguyên Hoa Bắc đã trở thành lực lượng mạnh nhất ở Trung Quốc, ông ta vừa có lực lượng quân đội đông đảo, đội ngũ quân sư tài giỏi, lại được dân chúng ủng hộ và mượn được danh của thiên tử nhà Hán để chỉ huy chư hầu.

Tôn Quyền lại có lợi thế về sự ổn định khi họ Tôn đã ba đời làm lãnh chúa vùng Giang Đông, vùng đất dễ thủ khó đánh nhờ có Trường Giang bao bọc.

Vì vậy cách duy nhất để Lưu Bị củng cố quyền lực chỉ có thể là chiếm cứ Kinh Châu và Ích Châu.

Kinh Châu hiện do Lưu Biểu, một người đã già lại không có người thừa kế thực sự tài giỏi, nắm giữ. Nếu Lưu Bị chiếm cứ được Kinh Châu thì đường vào Ba Thục sẽ rộng mở, đồng thời có lợi thế về phòng thủ vì Kinh Châu được Hán Thủy và Miện Thủy che chở.

Về phần Ích Châu, đây là vùng đất do Lưu Chương, một tôn thất nhà Hán khác, nắm giữ, người này cũng không phải tay gian hùng tới mức không thể đánh bại. Hơn thế Ích Châu chính là đất khởi nghiệp của Bái Công Lưu Bang, đây là vùng đất cực kì hiểm trở, sản vật phong phú.

Sau khi chiếm cứ Kinh Châu, Ích Châu, Lưu Bị chỉ còn việc ổn định lãnh thổ, xây dựng quân đội, bắc địch Tào Tháo, đông hòa Tôn Quyền chờ thời cơ thiên hạ có biến để tiêu diệt cả hai đối thủ chính này, thống nhất Trung Quốc.

Kế hoạch tổng quát ban đầu của Gia Cát Lượng là chiếm Kinh châu và Ích châu để giáp công đánh Tào Tháo từ hai đường

Long Trung đối sách đưa ra được một năm thì liên quân Lưu Bị-Tôn Quyền giành thắng lợi lớn ở trận Xích Bích trước Tào Tháo, mở ra cơ hội tạo dựng địa vị cho Lưu Bị. Tới năm 215 cả hai châu Kinh-Ích đã rơi vào tay của Lưu Bị và tới năm 219 thì Lưu một lần nữa đánh bại Tào để chiếm cứ Hán Trung, chính thức tạo ra thế chân vạc tại Trung Quốc.

Mùa Thu năm 219, đại tướng của Lưu Bị là Quan Vũ đang trấn thủ Kinh châu mở chiến dịch tấn công các địa điểm còn sót lại ở Kinh Châu dọc theo Hán Thủy do quân Tào chiếm giữ.

Trước khi bắc tiến, Quan Vũ đã làm ngược lại với quan điểm cơ bản của Long Trung đối sách là “đông hòa với Tôn Quyền” khi tự mình gây căng thẳng quan hệ với Đông Ngô: không những từ chối làm thông gia với họ Tôn, Quan Vũ còn nhục mạ sứ giả Đông Ngô và gọi họ Tôn là “chó”.

Chính vì vậy, tuy thắng lớn trong giai đoạn đầu nhưng Quan Vũ sau đó đã bị lực lượng của Tôn Quyền đánh úp và tử trận. Đây là thất bại đầu tiên của Long Trung đối sách khiến lực lượng của Lưu Bị phải co về vùng Ba Thục để lập nên nước Thục Hán. Năm 221, bỏ ngoài tai mọi lời can gián, Lưu Bị dốc quân đi đánh Tôn Quyền để báo thù Quan Vũ và giành lại Kinh Châu, nhưng vì nóng giận và khinh địch mà ông chuốc lấy thảm bại tại Di Lăng. Nước Thục từ đó bị loại vĩnh viễn khỏi cuộc tranh chấp Kinh Châu, bản thân Lưu Bị sinh bệnh rồi mất năm 223.

Tới thời điểm đó, Long Trung Đối Sách xem như chấm dứt cơ hội thành công cuối cùng.


Đến với Tây Nguyên mới

ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Chuyện hiền vui trăm năm

Dấu xưa thầy bạn quý
Cuộc đời thành trang văn

Hoàng Kim bài cũ lưu lại
và ảnh Đặng Hải “hehe nửa tháng ở sg được pic này” với Hoàng Kim, Đinh Thăng và Hồng Quân 16 8 2013 ; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi/ & https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-hien-vui-tram-nam/

ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Hoàng Kim

Đến với Tây Nguyên mới
Bộ hành Trường Sơn xuân
Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ
Việt Nam con đường xanh

Đến với Tây Nguyên mới
Thăm lại chiến trường xưa
Đất khoai sắn nuôi người
Sử thi vùng huyền thoại.

Vầng đá chốn đại ngàn
Rượu cần nơi bản vắng
Câu cá bên dòng Sêrêpôk
Tắm tiên Chư Jang Sin

Thương Kim Thiết Vũ Môn
Nhớ người hiền một thuở
Hồ Lắk Đình Lạc Giao
Biển Hồ Chùa Bửu Minh

Nước rừng và sự sống
Chuyện đời không thể quên
Cây Lương thực bạn hiền
Lớp học vui ngày mới

Ai ẩn nơi phố núi
Ai tỏ Ngọc Quan Âm
Ai hiện chốn non xanh
Mây trắng trời thăm thẳm
Nước biếc đất an lành

Soi bóng mình đáy nước
Sáng bình minh giữa đời
Thung dung làm việc thiện
Vui bước tới thảnh thơi

Đến với Tây Nguyên mới
Bao chuyện đời không quên

Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 8 “Điểm đến của cà phê thế giới” đã khai mạc vào ngày 10 tháng 3 năm 2023 dịp lễ kỹ niệm Quân Giải phóng bắt đầu tiến đánh Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên, và chiếm lĩnh thị xã vào hôm sau, khởi đầu sự nghiệp thống nhất Việt Nam năm 1975. Đến với Tây Nguyên mới, nửa thế kỷ nhìn lại (1975-2025) là một bài học lớn. Anh Nguyễn Văn Bộ có dự sự kiện này với hình ảnh thật giống già làng (hình), tôi vui chúc mừng và ngụ ý sự bảo tồn phát triển Tây Nguyên xanh, để thỉnh thoảng đọc lại. Thông tin tích hợp tại #Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc; #đẹpvàhay; #cnm365 #cltvn 28 tháng 3 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-28-thang-3 Đến với Tây Nguyên mới https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi

Tiến sĩ Nguyễn An Tiêm, nguyên Viện Trưởng Viện Quy Hoạch và Thiết Kế Nông Nghiệp Nam Bộ đã trao đổi với giáo sư Nguyễn Tử Siêm, một trong những chuyên gia đầu ngành về khoa học đất Việt Nam đối với bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc”Giá chúng ta giữ được Tây Nguyên như Bhutan”. Tiến sĩ Nguyễn An Tiêm nhận xét: “Vâng. Bài viết đáng để chúng ta suy nghĩ, nhất là sinh thái rừng và văn hoá Tây Nguyên. Tuy nhiên cần có cái nhìn đa chiều về bối cảnh lịch sử. Nước ta dân số đông, tốc độ tăng dân số nhanh, kinh tế kém phát triển, đói ăn, nên phải phá rừng để mở rộng đất nông nghiệp. Cái dở là không kiểm soát được quá trình đó một cách hợp lý. Theo quy luật khi nền kinh tế phát triển ở mức nào đó sẽ chuyển đất nông nghiệp sang đất rừng thiết lập hệ sinh thái mới. Quá trình này nhanh hay chậm phụ thuộc vào nhận thức của chúng ta”.

Tây Nguyên mới là một chuỗi chính sách lớn liên tục liên hoàn nhiều năm. Cụ Nguyên Ngọc cảnh báo những vấn đề “Nước mội rừng xanh và sự sống“; “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên ” từ rất sớm, nhưng không điều chỉnh được dòng chảy của xu thế.

Tây Nguyên mới ngày nay ã là vùng đất đa sắc tộc, đa văn hóa, dân số tăng lên gấp mười lần so với trước đây, theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2019 dân số Tây Nguyên là 5.842.605 người (dân tộc Kinh: 3.642.726 người, chiếm 62,30%, dân tộc khác : 2.199.879 người, chiếm 37,70%). hình thành được những ngành hàng nông nghiệp quy mô lớn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu như cà phê, hồ tiêu, cao su. Đặc biệt Cà phê Tây Nguyên nổi tiếng trên thị trường thế giới (2019 diện tích: 630,9 nghìn ha, diện tích thu hoach: 569,4 nghìn ha; năng suất: 27,8 tạ/ha, sản lượng 1,58 triệu tấn , kim ngạch xuất khẩu 2,64 tỷ USD) . Công nghiệp, nhất là chế biến nông, lâm sản từng bước phát triển, gắn kết với vùng nguyên liệu nông nghiệp hình thành chuỗi giá trị hàng hóa ngày càng phát triển. Du lịch phát triển mạnh, với trung tâm là Đà Lạt, Buôn Ma Thuột gắn với đặc sắc về tự nhiên, văn hóa đặc thù Tây Nguyên; Tài nguyên đất Tây Nguyên đa dạng, đa màu sắc với 11 nhóm đất với 33 loại loại đất. Độ phì của đất đai , đặc biệt đất đỏ ba zan đã tạo ra những giá trị đặc trưng cho hệ sinh thái nông nghiệp cao nguyên cho sự phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị hàng hóa quy mô lớn. Tài nguyên nước Tây Nguyên phần lớn (khoảng 80%) thuộc thượng nguồn lưu vực sông Sê San, Sê rê pôk (chảy sang Căm Pu Chia), sông Đồng Nai và sông Ba. (trong lãnh thổ Việt Nam) và gần 20% diện tích tự nhiên thuộc lưu vục sông Thu Bồn, Trà Khúc, sông Lũy, sông La Ngà … Trên địa bàn Tây Nguyên có 882 hồ chứa nước tự nhiên và 810 đập dâng nước. Tài nguyên rừng Tây Nguyên với diện tích có rừng (2019) : 2.557.322 ha, chiếm 17,95% tổng diện tích rừng cả nước (xếp thứ 3 so với các vùng) , gồm rừng tự nhiên: 2.206.975 ha, rừng trồng 350.347 ha, độ che phủ: 46,01% (đứng thứ 4 so với các vùng).

Đến với Tây Nguyên mới, bảo tồn và phát triển Tây Nguyên thích hợp bền vững là bài toán khó cho mọi thời, mọi cấp độ và liên ngành đều phải đối mặt .

Đọc lại và suy ngẫm:

Hình ảnh và tài liệu trích dẫn
ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Hoàng Kim

Kỹ thuật trồng sắn KM419 (khoai mỳ)-ACP_Đăk Lăk https://youtu.be/VT3yDprIh8E Video by Quang Chinh Pham Đến với Tây Nguyên mới https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi-2/ Giống sắn KM419 chủ lực sản xuất thương mại đang được tích hợp gen kháng bệnh CMD của C39 * với các giống sắn lai triển vọng KM419, KM440, KM397,. Đề tài này đang được liên kết, để Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững. Các giống sắn tốt thương hiệu Việt Nam và quy trình “Mười kỹ thuật thâm canh sắn (10T)” https://hoangkimlong.wordpress.com/category/muoi-ky-thuat-tham-canh-san/ .

Đến với Tây Nguyên mới Nguyễn Bạch Mai viết:” Khai mạc Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 7. Hy vọng Lễ hội sẽ thành công và mang lại niềm vui cho người nông dân quê tôi”. Đến với Tây Nguyên chúng ta thật vui mừng đang cùng đi trong một đội ngũ tâm huyết, thao thức một niềm tin và ước vọng. Các ngành hàng nông nghiệp Việt Nam đang chuyển đổi và vươn tới mạnh mẽ đầy sức xuân.

Tây Nguyên tầm nhìn và giải pháp.

Hội nghị xúc tiến đầu tư vùng Tây Nguyên lần thứ Tư năm 2017 đã tổ chức tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, ngày 11 tháng 3. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đến dự và chứng kiến dòng vốn đầu tư kỷ lục vào Tây Nguyên với lễ trao cam kết tín dụng đầu tư của các ngân hàng cho các dự án đầu tư, trao chứng nhận đầu tư, quyết định đầu tư, thỏa thuận đầu tư cho các dự án với tổng vốn kỷ lục hơn 100.000 tỷ đồng.

Tầm nhìn Chính phủ đối với Tây Nguyên: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng: “Tây Nguyên có tiềm năng, thế mạnh to lớn, độc đáo nhưng chưa được khai thác tốt. Tây Nguyên không chỉ là phên dậu của Tổ quốc, mà là điểm tựa phát triển của miền Trung, Đông Nam Bộ và cả Tây Nam Bộ. Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước, sự phấn đấu của cấp ủy, chính quyền 5 tỉnh Tây Nguyên, vùng đã có sự phát triển khởi sắc. Tuy nhiên, sau 40 năm giải phóng, Tây Nguyên còn tồn tại nhiều bất cập như tình trạng mất rừng, mất nguồn nước, mất nhiều cơ hội về đầu tư phát triển, đặc biệt là quy mô, hiệu quả của vùng đất tiềm năng chưa được khai thác đúng mức để phát triển và nâng cao mức sống người dân“. Trang website Thử tướng chính phủ khẳng định.

Thủ tướng chia sẻ tầm nhìn về một Tây Nguyên mới.Đó là Tây Nguyên phải phấn đấu trở thành cao nguyên trù phú về nông nghiệp hữu cơ, đa dạng về sinh thái, giàu có về vốn văn hóa. Chìa khóa cho sự vươn lên giàu có của Tây Nguyên là phát triển ngành chế biến nông lâm nghiệp, dược liệu theo hướng đề cao bản sắc, tính độc đáo trong chuỗi giá trị nông sản thế giới. Đồng thời Tây Nguyên phải là biểu tượng nổi bật của du lịch Việt Nam, mang đậm sắc thái huyền thoại và di sản của châu Á trong thế kỷ thứ 21. Để thực hiện hóa điều đó, Tây Nguyên phải có chiến lược bền vững trong việc hồi sinh trở lại vẻ đẹp đại ngàn của một vùng đất đậm chất sử thi, phải luôn ý thức giữ gìn không gian sống, phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, là truyền thống, niềm tự hào thiêng liêng của các cộng đồng Ê Đê, Jrai, M’nông, Ba Na, Kinh… trong đại các gia đình các dân tộc Việt Nam anh em”.

Các giải pháp lớn đối với Tây Nguyên: Thủ tướng đã gợi mở một số giải pháp chính.

Về du lịch, Tây Nguyên là một kho tàng văn hóa phi vật thể cùng với điều kiện tự nhiên, Chính phủ quyết tâm cùng với Tây Nguyên đưa sử thi Tây Nguyên trở thành di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Càng nhiều người biết đến sử thi này thì sức lan tỏa của du lịch Tây Nguyên càng lớn. Du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Tây Nguyên nói riêng cần có chiến lược phát triển đa dạng.

Về nông nghiệp, phải hình thành những vùng chuyên canh lớn và phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, tập trung quy mô lớn, giá trị hàng hóa lớn, đặc biệt phải đi vào chế biến sâu, mở rộng chuỗi giá trị sản phẩm.

Về nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục cơ bản ở vùng Tây Nguyên phải bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cả nước. Tây Nguyên là nóc nhà Đông Dương, là vùng cao về địa lý thì không thể và không nên là vùng trũng giáo dục của cả nước.

Về bảo vệ, phát triển rừng, “cách đây gần một năm, cũng tại Đắk Lắk này, tôi đã tuyên bố đóng cửa rừng tự nhiên. Hôm nay, tôi tái khẳng định quyết tâm mạnh mẽ hơn nữa của Chính phủ, bảo vệ rừng là bảo vệ phần cốt lõi của an ninh, không chỉ là an ninh của vùng đất được mệnh danh là nóc nhà Đông Dương, mà là an ninh của toàn Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ và cả nước”, Thủ tướng nhấn mạnh. 

Bảo vệ rừng là bảo vệ không gian sinh tồn, nguồn nước, sinh kế của người dân, không gian di sản của cha ông. Mọi hành vi phá rừng, khai thác lâm sản trái phép là tội ác. Tiếp tục trồng rừng, không phá rừng nghèo để trồng cây công nghiệp mà tập trung tái canh, nâng cao năng suất thông qua thâm canh các loại cây công nghiệp.

Về công nghiệp, bài toán công nghiệp cho Tây Nguyên chính là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến, mở rộng chuỗi giá trị sản phẩm cây công nghiệp. Đồng ý chủ trương phát triển năng lượng tái tạo, Thủ tướng đặt vấn đề phát triển ở đâu và chỉ rõ: Ở vùng đất không thể trồng được cây gì.

Về hạ tầng, cần tránh tư tưởng làm manh mún. Cần tập trung nguồn lực, “góp gạo thổi cơm” để có công trình hạ tầng then chốt ở Tây Nguyên. Phải xã hội hóa mạnh mẽ việc phát triển hạ tầng, kể cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Thủ tướng cũng cho rằng, Tây Nguyên cần liên kết với duyên hải miền Trung, miền Đông Nam Bộ, TPHCM và các vùng có thể tiêu thụ được các sản phẩm có giá trị gia tăng cao của Tây Nguyên. Liên kết cả cơ sở hạ tầng, đặc biệt là liên kết du lịch.

Về tín dụng, khuyến khích vay tín chấp, nhất là với hộ nông dân, đồng bào dân tộc; có nhiều hình thức hỗ trợ như cấp bù lãi suất…”

Đến với Tây Nguyên mới Tôi bắt đầu ký ức bằng bài thơ Câu cá bên dòng Sêrêpôk .tôi viết tại binh trạm gần Buôn Đôn và ít năm sau, khi tôi đã về miền Đông thì đó là nơi rất gần trận Buôn Mê Thuột ngày 10 tháng 3 năm 1975, Chiến tranh Việt Nam Quân Giải phóng bắt đầu tiến đánh Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên, và chiếm lĩnh thị xã vào hôm sau. Tôi nhớ về Cách mạng sắn ở Việt Nam thành tựu và bài học là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới được tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016 trong đó có câu chuyện sắn Miền Đông, sắn Tây Nguyên “Người lính cây sắn và tuổi thơ“.

”Nghiên cứu kỹ thuật rãi vụ sắn tại tỉnh Đăk Lắk”. Đó là câu chuyện tìm giống sắn mới và kỹ thuật rãi vụ sắn thích hợp ở Tây Nguyên. …

denvoitaynguyen

Dạy và học Giáo dục Văn hóa, Nông Nghiệp Việt Nam, Khoa học Cây trồng, Du lịch Sinh thái …  bước khởi đầu là phải  tìm hiểu con người, kế đến là thực sự sống với thiên nhiên, nghiên cứu các nét đặc trưng tiêu biểu nhất của vùng đất.

Đến với Tây Nguyên mới của chúng tôi lần ấy là Bạch Mai và sắn Tây Nguyên. Chúng tôi may gặp bạn cố hương và gặp cả những nhân vật lớn của Học viện Nông nghiệp Việt Nam cựu Hiệu trưởng GS.TS. NGND. Trần Đức Viên (2007 – 2014), tân Hiệu trưởng GS.TS. Nguyễn Thị Lan (2015 – nay) người vừa đoạt Giải thưởng Kovalevskaia 2018, TS. Lê Ngọc Báu Liên hiệp các hội KHKT tỉnh Đắk Lắk với nhiều người khác với những mẫu chuyện hay chưa kịp chép lại

ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Hoàng Kim

Đến với Tây Nguyên mới,
Phát triển bền vững ở Tây Nguyên,
Nguyên Ngọc với Tây Nguyên
Có những lớp sinh viên như thế

Trà Biển Hồ, Sắn Tây Nguyên
Cách mạng sắn ở Việt Nam
Tắm tiên ở Chư Yang Sin
Chuyện đồng dao cho em

Cao Biền trong sử Việt
Vườn Quốc gia ở Việt Nam
Đào Thế Tuấn chân dung người Thầy
Việt Nam con đường xanh

“Nóc nhà Đông Dương” là nơi giao hội sinh lộ Đông Tây và sinh lộ Bắc Nam (hình), là chìa khóa vàng kinh tế xã hội quốc phòng địa chính trị văn hóa sử thi Tây Nguyên, Tôi trao đổi với GS.TS. NGND Trần Đức Viên, cũng là Thầy nghề nông chiến sĩ cựu Hiệu trưởng (2007 – 2014) Học Viện Nông nghiệp Việt Nam. Tôi đồng cảm với phát biểu của thầy Viên “Đất đai chưa mang lại yên bình và giàu có cho nông dân !” khi thầy trả lời phỏng vấn của Báo Nông nghiệp Việt Nam ngày 31/07/2019 .Thầy Viên tdvien@vnua.edu.vn nói “Anh Kim Cây Lương thực. Tôi vẫn vào FB của anh để đọc. Nhiều bài viết về Tây Nguyên rất hay. Anh có thể gửi cho tôi các bài/ ý tưởng của Anh/ và những người khác về phát triển nông nghiệp nông thôn Tây Nguyên qua địa chỉ email của tôi: Trân trọng cám ơn anh”.

“GIÁ CHÚNG TA GIỮ ĐƯỢC TÂY NGUYÊN NHƯ BHUTAN”.
Nguyên Ngọc


-Tôi lên Tây Nguyên lần đầu năm 1950 và đến nay đã trải qua 66 năm gắn bó với mảnh đất này. Nơi đây không chỉ cứu sống và nuôi dưỡng tôi qua hai cuộc kháng chiến mà còn dạy tôi nhiều điều về minh triết trong cuộc sống. Tây Nguyên rất đặc biệt, nhưng cũng rất đáng lo. Tôi mong mọi người hãy nghĩ, hãy đến Tây Nguyên và làm gì đó để cứu mảnh đất này.

Nói đến Tây Nguyên là nói đến rừng và làng. UNESCO đã rất tinh tế nhận ra khi công nhận di sản văn hóa thế giới của Tây Nguyên, không phải là cồng chiêng, cũng không phải là âm nhạc cồng chiêng, mà là không gian văn hóa cồng chiêng, tức không gian làng, với rừng của làng. Rừng và làng chính là không gian văn hóa của Tây Nguyên. Không còn hai yêu tố này, sẽ không còn văn hóa Tây Nguyên, hoặc nếu có, cũng không còn là văn hóa thật. Thế nhưng vấn đề quan trọng nhất hiện nay ở Tây Nguyên là sự đổ vỡ của các làng và rừng thì bị tàn phá. Rừng tự nhiên đến nay đã không còn nữa. Một số bị thay thế bởi cây công nghiệp như cà phê, cao su. Người ta gọi những mảnh đất rộng trồng cao su là rừng cao su. Nhưng nói đến rừng là nói đến tính đa tầng, độ che phủ; là nói đến yếu tố giữ nước. Cao su, rễ cọc, không giữ nước được nên hiểu theo nghĩa tự nhiên, cao su không được gọi là rừng. Rừng tạp mất đi, độ che phủ không còn và rồi Tây Nguyên sẽ mọc lên những rừng gai thấp lúp xúp. Chúng ta sẽ để lại cho con cháu những rừng gai lúp xúp? Chúng ta có muốn như vậy không?. Để khôi phục rừng Tây Nguyên, chúng ta phải trồng lại rừng, tạo rừng đa tạp. Có người hỏi tôi mất bao lâu? Tôi cho rằng chúng ta phải thực hiện trong 100 năm. Gì mà nhiều vậy? Thử nghĩ xem, 41 năm qua, mình đã khai thác rừng cạn kiệt mà. Giờ phải kiên trì trồng lại, cắn răng mà làm và 100 năm là không nhiều. Nếu không có rừng thì không còn Tây Nguyên đâu.

Chúng ta cần phải cứu Tây Nguyên. Đây là một tấm gương về nông nghiệp sinh thái, phụng dưỡng đất đai. Tôi bảo người Tây Nguyên là những nông dân Mansanobu Fukuoka. Họ làm nông nghiệp giống hệt như người cha đẻ của “Cuộc cách mạng một cọng rơm”, không hóa chất, không thuốc trừ sâu với phương pháp chọc tỉa. Người chồng đi trước, dùng cây gậy chọc xuống đất, người vợ theo sau, tỉa hạt rồi dùng chân lấp đất lại. Họ rất tin đất đủ sức mạnh nuôi cây trồng. Họ không làm lười đất bằng phân bón.

Trước đây, dân số Tây Nguyên không nhiều. Với đất nước, họ là dân tộc thiểu số nhưng trên mảnh đất Tây Nguyên, họ chính là đa số tuyệt đối. Mỗi gia đình có 10-20 rẫy. Mỗi rẫy họ trồng 3-4 năm, đất bạc màu thì chuyển qua rẫy khác. Lúc đầu chúng tôi gọi là luân canh, nhưng luân canh dễ gây hiểu nhầm rằng trồng cây này rồi chuyển sang cây khác. Do vậy, sau, chúng tôi gọi là luân khoảnh. Lưu ý, họ luân khoảnh chứ không du canh du cư như ta từng nghĩ.Trong tư duy người Tây Nguyên, đất chính là rừng và rừng chính là đất. Đất rẫy là khoảnh đất mà con người ở đây mượn của rừng, làm rẫy, rồi trả lại cho rừng. Rừng mạnh lắm, sẽ lấn lại ngay. Người Kinh thấy rừng là gỗ, còn người dân tộc thấy rừng là Mẹ, là cội nguồn sự sống, là tôn trọng, là phụng dưỡng. Đây cũng chính là bài học tôn trọng tự nhiên và sống khiêm nhường giữa trời đất.

Sau năm 1975, chúng ta thực hiện một cuộc đại di dân và dân số Tây Nguyên tăng gấp 5,5 lần, đến nay người Kinh chiếm 80% dân số tại đây và người dân tộc, từ tuyệt đại đa số, trở thành thiểu số trên chính mảnh đất xưa nay họ sinh sống. Đi kèm với di dân là chính sách quốc hữu hóa đất đai. Người dân tộc mất đất, trước họ có 10-20 rẫy, nay còn một, làm một thời gian, bạc màu, đâu còn đất để luân khoảnh, họ bán rẻ lại cho người Kinh, thậm chí cho không qua một cuộc rượu. Người dân tộc mất đất, bị đẩy sâu vào rừng, rồi sinh ra phá rừng và bắt đầu du canh du cư. Cấu trúc làng xã bị phá vỡ. Rừng bị tàn phá.

Các tộc người Tây Nguyên cũng rất văn minh. Với họ, loạn luân được xem là tội nặng nhất vì làm ô uế tinh thần của làng. Họ đặt tinh thần cao hơn vật chất trong đời sống của họ. Như vậy không văn minh sao?. Họ có một nền văn minh rất đặc biệt mà người Kinh nên tôn trọng, học tập. Ngay từ năm 1937, hai anh em Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi, qua tác phẩm Mọi Kontum đã viết, “Người Bahnar có những điều tốt hơn hơn chúng ta rất nhiều”.

Xin nói qua từ mọi. Lâu nay chúng ta hiểu sai từ mọi và càng sai khi dùng từ mọi rợ theo nghĩa khinh miệt để chỉ các tộc người Tây Nguyên.

Thật ra, từ mọi vốn ban đầu không hề có ý nghĩa xấu. Nó bắt nguồn từ từ tơmoi trong tiếng Bahnar, có nghĩa là khách đến thăm nhà mình; hoặc khách mời từ một làng khác đến; hoặc kẻ thù hoặc người ngoại quốc theo từ điển Bahnar – Pháp của Guilleminet. Những người phương Tây đầu tiên lên Tây Nguyên là các linh mục Thiên chúa giáo. Họ đến được vùng người Bahnar ở Kon Tum, lập xứ đạo Kon Tum, là xứ đạo Thiên chúa giáo đầu tiên tại đây, đến nay vẫn là xứ đạo Thiên chúa lớn nhất và quan trọng nhất ở Tây Nguyên. Bấy giờ những người Bahanr Kon Tum đến gặp các nhà truyền giáo thường xưng là tơmoi, là khách. Các nhà truyền giáo lại hiểu rằng đấy là họ tự giới thiệu tên tộc người của họ. Về sau dần dần tiền tố tơ bị rớt đi, còn lại moi, moi nghiễm nhiên trở thành tên gọi người bản địa. Người Pháp gọi là moi, người Việt gọi là mọi, hoàn toàn là một danh xưng.

Nói tiếp chuyện văn minh. Tôi lấy ví dụ về nghệ thuật. Trong nghệ thuật Tây Nguyên, tượng nhà mồ Tây Nguyên là những tác phẩm đẹp tuyệt vời. Họ làm rồi bỏ hoang và để mưa gió tàn phá.Tôi từng thấy một bức tượng gỗ tuyệt đẹp. Hỏi dò thì biết một thanh niên kia làm. Trong chờ bữa rượu, tôi hỏi chàng thanh niên đó xem ở nhà còn bức tượng tương tự nào không. Đột nhiên anh ta nổi giận: “Nói tầm bậy”. Và những thanh niên trong xung quanh cũng bày tỏ thái độ như vậy. Sau, tôi được anh Núp, một người bạn của tôi ở Tây Nguyên giải thích rằng với họ, làm nghệ thuật không phải để ngắm hay để bán mà làm vì có cái gì đó thôi thúc trong lòng, cần làm để bày tỏ lòng ngưỡng mộ với thần linh. Họ thăng hoa trong quá trình làm ra tác phẩm chứ không phải lúc tác phẩm hoàn thành. Tôi chia sẻ điều này với một người bạn học nghệ thuật ở Frankfurt – Đức và cô rất ngạc nhiên bởi nó giống như quan điểm của nghệ thuật đương đại, tức nghệ thuật là con đường chứ không phải đích đến. Cô bạn lên Tây Nguyên khám phá rồi mời vị giáo sư của mình bên Đức sang. Vị giáo sư sang xong rồi lại dẫn cả lớp của ông ấy sang.

Sau năm 1975, giá như chúng ta dũng cảm giữ Tây Nguyên như một Bhutan thì thật tốt. Chúng ta sẽ có một tấm gương để học cách sống sao cho có hạnh phúc, sống thế nào để khiêm nhường với trời đất. Ngày xưa người nông dân không dám làm điều ác, họ sợ thất đức. Ngày ngay, xã hội không còn khái niệm về thất đức nữa. Người nông dân, những người bình thường nhất, đã không còn sợ cái ác, không còn sợ làm điều ác. Và đây là điều đáng sợ nhất. Con người, ở giữa đất trời, sống vô thần và không biết đến trời đất thì nguy hiểm quá.

Nay tôi đã 84 tuổi, tính tuổi ta thì 85. Những năm cuối đời, tôi sẽ viết để kể với mọi người về một nền văn minh ở Tây Nguyên, rằng chúng ta có một nền văn minh như thế. Tôi sẵn lòng đi chia sẻ để nói tất cả mọi điều về Tây Nguyên. Tôi mong khơi gợi trong các bạn lòng ham muốn hiểu về Tây Nguyên và tìm được người kế tục để sau cùng có thể cùng chung sức cứu được Tây Nguyên./.

TƯ LIỆU TÂY NGUYÊN MỚI

1. Điều kiện tự nhiên:

Tây Nguyên là vùng địa lý sinh thái núi – cao nguyên phía Tây Trường Sơn Nam Việt Nam, bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng với diện tích gần 5,4 triệu ha. Tây Nguyên được coi là “nóc nhà Đông Dương” và là vùng sinh thái cảnh quan đầu nguồn (phân thủy) chia nước giữa lưu vực sông Mê Kông và Biển Đông. Hệ thống núi – cao nguyên với những thung lũng, đồng bằng giữa núi phía tây Trường Sơn Nam có đường gờ núi hình cánh cung, phần lồi phía đông dốc đứng song song với đường bờ biển; phần lõm ôm lấy các cao nguyên phân tầng dốc thoải dần về phía tây tới biên giới Lào và Campuchia tạo nên những bặc thềm cao nguyên với sự đa dạng về địa hình, cùng yếu tố khí hậu và thổ nhưỡng tạo điều kiện phát triển nông nghiệp toàn diện tuy nhiên cững tiềm tần những nguy cơ về thiên tai như mưa lũ, hạn hán , đặc biệt trong điều kiện biến đổi khí hậu;

2. Tài nguyên thiên nhiên:

a) Tài nguyên đất là sản phẩm của thiên nhiên vùng cao nguyên nhiệt đới ẩm: đa dạng, đa màu sắc với 11 nhóm đất với 33 loại loại đất. Độ phì của đất đai , đặc biệt đất đỏ ba zan đã tạo ra những giá trị đặc trưng cho hệ sinh thái nông nghiệp cao nguyên cho sự phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị hàng hóa quy mô lớn.

b) Tài nguyên nước: Trên 80% diện tích Tây Nguyên thuộc thượng nguồn lưu vực sông Sê San, Sê rê pôk (chảy sang Căm Pu Chia), sông Đồng Nai và sông Ba. (trong lãnh thổ Việt Nam) và gần 20% diện tích tự nhiên thuộc lưu vục sông Thu Bồn, Trà Khúc, sông Lũy, sông La Ngà… Mạng lưới sông tương đối dày (0,2-0,3 km/km2 ). Tổng lưu lượng = 55,5 tỷ m3 (mùa mưa [tháng 5-10] chiếm 70-77%, mùa khô (tháng 11-4), chiếm 23-30%). Trên địa bàn Tây Nguyên có 882 hồ chứa nước tự nhiên và 810 đập dâng nước như: Hồ thuỷ điện Yaly (Gia Lai và Kon Tum -6.450 ha). Hồ thuỷ lợi Ayun hạ (Gia Lai-dung tích chứa khoảng 253 triệu m3 nước). Hồ Đắk Hniêng, Đắk Uy (Kon Tum); Biển Hồ, Ia Rrung, Ia Năng (tỉnh Gia Lai); Lăk, Ea Kao, Buôn Triết (tỉnh Đắk Lắk);

c) Tài nguyên rừng: diện tích có rừng (2019) : 2.557.322 ha, chiếm 17,95% tổng diện tích rừng cả nước (xếp thứ 3 so với các vùng) , gồm rừng tự nhiên: 2.206.975 ha, rừng trồng 350.347 ha, độ che phủ: 46,01%.(đứng thứ 4 so với các vùng). Rừng Tây Nguyên là rừng nhiệt đới lá rộng rụng lá trong mùa khô;

d) Tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng về loại hình, kiểu nguồn gốc, trong đó có những loại có quy mô rất lớn (bauxite và sắt đi kèm, đá ốp lát từ đá macma), có những loại đặc thù (magnesit, bentonit và diatomit) , đây là những khoáng sản có thế mạnh của Tây Nguyên trong cân đối nguồn tài nguyên khoáng sản của cả nước.

3. Dân cư, văn hóa :

a) Dân cư: Tây Nguyên là vùng đất đa sắc tộc, đa văn hóa, theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2019 dân số Tây Nguyên là 5.842.605 người (dân tộc Kinh: 3.642.726 người, chiếm 62,30%, dân tộc khác : 2.199.879 người, chiếm 37,70%).

b) Văn hóa: i) Ba Na là nhóm sắc tộc đầu tiên, sau người Kinh, có chữ viết phiên âm dựa theo bộ ký tự Latin do các giáo sĩ Pháp soạn năm 1861. Đến năm 1923 hình thành chữ viết Ê Đê. ii) Sử thi được biết đến đầu tiên là Đam San được sưu tập và xuất bản bằng tiếng Pháp tại Paris (Le Chanson de DamSan). Đến 1933, tạp chí của học viện Viễn Đông bác cổ tại Hà Nội in lại dưới hình thức song ngữ Êđê – Pháp. iii) Vào tháng 2 năm 1949, phát hiện một bộ đàn đá mang tên Ndút Liêng Krak tại Đắc Lắc và bộ nhạc cụ thời tiền sử vô giá này hiện được lưu giữ tại Viện Bảo tàng Con người – Paris. iv) Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại ( ngày 15 /1/2005) , v) Công viên Địa chất Đắk Nông nằm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, ở phía Tây Nam của vùng Tây Nguyên, đoạn cuối dãy Trường Sơn với ranh giới trải dài trên 5 huyện và 1 thị xã gồm huyện Krông Nô, Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Song, Đắk G’Long và thành phố Gia Nghĩa. Là một phần của cao nguyên M’Nông nên thơ, hùng vĩ, Công viên Địa chất Đắk Nông là nơi hội tụ các giá trị tiêu biểu về địa chất địa mạo, khảo cổ, văn hóa và đa dạng sinh học đặc trưng của khu vực. Ngày 7/7/2020, tại Paris, Pháp, Ủy ban Chương trình và Quan hệ quốc tế UNESCO khóa 209 đã thông qua quyết định công nhận Công viên Địa chất Đắk Nông là Công viên Địa chất toàn cầu. Đây là Công viên Địa chất toàn cầu thứ ba ở Việt Nam, sau CVDCTC Cao nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang và CVDCTC Non nước Cao Bằng,

4. Kinh tế:

Ngày nay, Tây Nguyên đã hình thành được những ngành hàng nông nghiệp quy mô lớn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu như cà phê , hồ tiêu, cao su. Đặc biệt Cà phê Tây nguyên nổi tiếng trên thị trường thế giới (2019 diện tích: 630,9 nghìn ha, diện tích thu hoach: 569,4 nghìn ha; năng suất: 27,8 tạ/ha, sản lượng 1,58 triệu tấn , kim ngạch xuất khẩu 2,64 tỷ USD) . Công nghiệp, nhất là chế biến nông, lâm sản từng bước phát triển, gắn kết với vùng nguyên liệu nông nghiệp hình thành chuỗi giá trị hàng hóa ngày càng phát triển. Du lịch phát triển mạnh, với trung tâm là Đà Lạt, Buôn Ma Thuột gắn với đặc sắc về tự nhiên, văn hóa đặc thù Tây Nguyên;

Đùa vui với thầy Hiền

CHUYỆN TRẠNG BÁC BA PHI

Kim Hoàng

‘ba phi thành thần, một phi cũng đủ’.

Mình biết nhiều chuyện trạng Bác Ba Phi dân U Minh Hạ, ấp Lung Tràm, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Mộ bác Ba Phi ngày nay được đặt giữa hai ngôi mộ của bà Ba Lữ và bà Chăm. Khu nhà và mộ phần của bác Ba Phi đang được địa phương đề xuất xây dựng thành tuyến du lịch văn hóa của tỉnh Cà Mau.

Bác Ba Phi tên thật là Nguyễn Long Phi sinh năm 1884, mất năm 1964, quê gốc Đồng Tháp, nghe kể là nông dân nòi, cụ rất phúc hậu, rất thương yêu vợ con, có biệt tài kể chuyện trạng. Bác Ba Phi đã được vợ cả là bà Ba Lữ đứng ra cưới vợ hai Chăm cho chồng (vì bà ba Lữ không có con) Bà hai sinh ra Nguyễn Tứ Hải, sau này cưới vợ là Nguyễn Thị Anh sinh ra Nguyễn Quốc Trị. Trị là nhân vật thằng Đậu rất nổi tiếng trong văn hóa Nam Bộ. Đậu là cháu đích tôn của bác Ba Phi, làm sáng danh ‘ba phi thành thần’.

Người đời cho rằng phước lộc tho mỗi người là do vận mệnh chính người đó với âm đức tổ tiên ông bà cha mẹ phù hộ, cũng rất lệ thuộc bởi đất lập nghiệp đất phát tích với đức hạnh tài năng của chính mình

Đến với Tây Nguyên mới, Mang Yang đất và người, cũng là vùng đất đặc biệt huyền thoại đấy thầy Hiền https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi/

Câu cá bên dòng Sêrêpôk

Đến với Tây Nguyên mới là đến với một thế hệ Tây Nguyên mới, Có lớp sinh viên như thế lắng nghe chăm chú, hỏi thông minh, học và làm sáng tạo. Những câu chuyện về họ là câu chuyện đời thực như suối nguồn tươi trẻ, thao thiết chảy mãi không ngừng. Chúc các bạn nổ lực học tập để khởi nghiệp thành công.

denvoitaynguyen

Theo chân người dẫn đường. Chúng ta hãy cùng đọc kỹ bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleyku. Bác viết ở Hà Nội ngày 19 tháng 4 năm 1946 với lời thề đại đoàn kết toàn dân nay được khắc trên đá hoa cương đặt tại Quảng trường. Chúng ta đọc để cùng thấu hiểu và chung sức nổ lực cho sự kết nối con người các dân tộc Việt, cho Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai tỏa sáng và phát triển bền vững. Chúng ta hãy cùng đọc lại thật kỹ, chậm từng giọt chữ: “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên” của Cụ Nguyên Ngọc, và cảm khái đọc bài thơ này.

CÂU CÁ BÊN DÒNG SÊRÊPÔK
Hoàng Kim

Bạn chèo thuyền trên sông Vôn ga
Có biết nơi này mình câu cá?
Sêrêpôk giữa mùa mưa lũ
Sốt rừng, muỗi vắt, đói cơm.

Suốt dọc đường hành quân
Máy bay,
pháo bầy,
thám báo,
mưa bom
Chốt binh trạm giữa rừng
Người bạn thân
Lả người
Vì cơn rét đậm
Thèm một chút cá tươi
Mình câu cá
Cho bữa cơm cuối cùng của người thân
mà nước mắt
đời người
rơi, rơi…
mặn đắng

Bạn ơi
Con cá nhỏ trên dòng Sêrêpôk
Nay đã theo dòng thác lũ cuốn đi rồi
Đất nước nghìn năm
Trọn một lời thề
Sống chết thủy chung
với dân tộc mình
Muôn suối nhỏ
Đều đi về biển lớn.

1972

Năm 1972 tại Tây Nguyên, tôi có kỷ niệm không thể quên về những ngày đói gạo, ăn rau rừng và câu cá ven sông Sêrêpôk gần Buôn Đôn. Nhớ buổi câu cho bữa cơm người bạn sốt rừng ốm nặng thèm ăn cá. Đây là bài thơ khóc bạn, lễ 30.4 và ngày 1.5, tôi bùi ngùi nhớ lại. Chèo thuyền trên sông Vônga là thơ Hoàng Bình. Điểm câu cá của tôi gần binh trạm khoảng giữa Đăk Tô-Tân Cảnh và Buôn Đôn. Sông Sêrêpôk (ảnh Đổ Tuấn Hưng trên Wikipedia Tiếng Việt)

Sêrêpôk (hay Srêpôk), tên gọi trong tiếng Campuchia là Tongle Xrepok, là dòng sông lớn nhất trong hệ thống sông ngòi ở Đắk Lắk. Đây là một phụ lưu quan trọng của sông Mekong. Sông Sêrêpôk được hợp thành từ hai dòng sông Krông Ana và Krông Nô (sông Mẹ và sông Bố). Đoạn chảy trên địa phận Đăk Lăk còn được gọi là sông Đăk Krông chảy qua các huyện Krông Ana, Buôn Đôn và Ea Súp với nhiều thác ghềnh hùng vĩ còn tương đối hoang sơ như thác Trinh Nữ, thác Đray Sáp, thác Đray Nu, thác Đray H’linh, thác Gia Long, thác Bảy Nhánh…Tính từ chỗ hợp lưu của sông Krông Ana, sông Krông Nô tới cửa sông của nó dài 406 km, trong đó đoạn chảy trong lãnh thổ Việt Nam dài khoảng 126 km, đoạn chảy qua Campuchia dài khoảng 281 km. Sông Sêrêpôk chảy sang Campuchia được bổ sung thêm nguồn chảy dồi dào từ dòng sông Ea H’leoông, sông Sesan và sông Sekong (hai sông này cũng có nguồn trên lãnh thổ Việt Nam). Sông Serepôk nhập vào sông Mekong sát Stung Treng, tỉnh Stung Treng, Campuchia, (nơi những năm gần đây mới phát hiện được phần mộ của Trung tướng Nguyễn Bình, tại xã Srê-pốc, huyện Xê-san,) sau đó con sông lớn này trở lại Việt Nam (ảnh 2 nguồn Sông Mekong tài liệu tổng hợp ).

Hiện tại dọc theo dòng sông này đã có rất nhiều các công trình thủy điện mọc lên như thủy điện Krông Kma (Krông Bông), Buôn Kuôp (Krông Ana), Đray H’linh 1, Đray H’linh 2 (Cư Jút), Buôn Tou Srah (Lăk), Srepôk 3 (Buôn Đôn)… Sông Sêrêpôk ở Đăk Lăk có tên gọi địa phương là sông Đăk Krông được nhắc đến trong bài hát nổi tiếng “Sông Đăk Krông mùa xuân về” của Tố Hải: “Đăk Krông ơi, Tây Nguyên ơi!/ Cái suối đổ về sông, cái sông ra biển lớn./ Ta nối tấm lòng dân bằng tình yêu cách mạng, đi suốt Truờng Sơn xanh, nghe dòng sông chảy mãi./ Đăk Krông ơi, dòng sông xanh thắm…”

Dòng sông Sê San ơi!

Là tản văn nổi tiếng của Tỳ kheo (nay là Thượng tọa) Thích Giác Tâm, vị sư trụ trì ở chùa Bửu Minh tại Biển Hồ, mắt ngọc Pleiku, tỉnh Gia Lai ” Đó là tiếng kêu thảng thốt của con người khi đứng trên bờ của dòng sông. Sông đã không sống đời của sông nữa, mà sông đã sống theo cách mà con người muốn nó sống. Ngày xưa sông vô tư, hồn nhiên sống, khi lên ghềnh, khi xuống thác, khi buông thư chầm chậm nhởn nhơ như người vô sự ngắm mây bay, xem hoa nở, lắng nghe tiếng chim hót. Nhưng rồi con người đã can thiệp vào, bắt sông phục vụ con người, mà nhu cầu của con người ở trong cõi người ta này thì vô hạn, vô chừng, không biết bao nhiêu là đủ. Thủy hỏa tương khắc, nhưng với trí tuệ con người biến nước thành hỏa, thành điện năng. Biến bao nhiêu cũng không đủ cung cấp, bởi con người không khác gì con khỉ Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký. Đào tiên quý là vậy mà hái trong thoáng chốc đã sạch vườn đào của Tây Vương Mẫu, mỗi trái chỉ cắn một miếng rồi quẳng đi, vứt bỏ. Quẳng đi không hề nuối tiếc, mà đào tiên mấy ngàn năm mới ra trái một lần (điện rất quý có khác gì trái đào tiên đâu!).

Vị thiền sư trên mắt ngọc cao nguyên viết tiếp: “Đầu năm đứng trên dòng sông Sê San, tôi đã ngắm nhìn sông và tôi đã thấy như thế. Rừng đại ngàn đã ngã gục xuống, dòng sông mênh mang đẹp như một dải lụa trắng của các đại sư Tây Tạng, Ấn Độ quấn choàng cổ, bắt nguồn từ các đỉnh núi cao của núi rừng Ngọc Linh tỉnh Kon Tum băng qua đồi núi chập chùng của hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai để rồi chảy qua biên giới Campuchia. Ngăn chặn dòng chảy, nhiều nhà máy thủy điện đã mọc lên, mọc lên để cung cấp năng lượng điện cho con người. Bên này nhà máy thủy điện nước mênh mang, bến bờ rộng thoáng vì nước tích tụ, đổ dồn nước về ba cái cống chạy tua bin phát điện. Bên kia nhà máy giòng sông khô cạn lởm chởm vô số đá, như những bãi đá ở bãi biển Quy Nhơn gần ngôi mộ Hàn Mặc Tử, so sánh cho dễ hình dung vậy thôi. Bãi đá ở biển Quy Nhơn, là đá sống, bởi có con người lân mẫn chăm sóc, cùng vui chơi ca hát quây phim chụp hình. Còn bãi đá ở giòng sông Sê San là bãi đá chết, đá chết bởi vì sông đã chết. Trong kinh Phật thường dùng từ:” Bên này bờ, bên kia bờ “. Bờ bên này là bờ sinh tử, vô minh, khổ đau. Bờ bên kia là giải thoát, an lạc, Niết Bàn. Đứng bên bờ sông Sê San tôi đã ngộ ra không có bờ bên này thì cũng không có bờ bên kia. Để tạo ra năng lượng điện con người phải trả giá cho cái được và cái mất. Được cho nhu cầu tiêu thụ của con người và mất cho môi trường sinh thái không còn cân đối, đảo lộn.”

Tôi đã từng đứng trên bờ sinh tử và cũng đã từng câu cá bên dòng sông này thuở mà sông chưa làm đập thủy điện. Nay tôi lại về lặng ngắm dòng sông xưa. Trong lòng tôi thao thiết một dòng sông chảy mãi…

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở TÂY NGUYÊN
Nguyên Ngọc

“bài viết nổi tiếng này chúng ta cần đọc đi đọc lại nhiều lần. Đến với Tây Nguyên mới là đến với con người, núi rừng cao nguyên, một vùng đất thiêng, một nền văn hóa sử thi to lớn”. Có lớp sinh viên như thế Chăm chú lắng nghe, chăm chú học để làm, chăm chú thấu hiểu để biết dũng cảm đối mặt với những sai lầm của quá khứ, để chung sức bảo tồn và phát triển bền vững những di sản (HK)

MỘT SỐ NÉT TỔNG QUAN

A Khái niệm Tây Nguyên

Theo địa lý hành chính hiện nay, Tây Nguyên gồm có năm tỉnh, kể từ bắc vào nam : Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng. Tuy nhiên cần chú ý các tỉnh ven biển miền Trung và một số tỉnh miền Đông Nam Bộ đều có một vùng rừng núi khá rộng, cũng là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số. Chẳng hạn tỉnh Quảng Nam, là tỉnh duyên hải, lại có đến 56 % diện tích là vùng núi và vùng dân tộc, tại đấy có dân tộc Cơ-tu là một dân tộc quan trọng ở khu vực nam Trường Sơn. Miền tây tỉnh Quảng Ngãi cũng có vùng núi và là vùng dân tộc tương tự, thì có dân tộc Hre cũng là một dân tộc quan trọng. Dân tộc Rakglei thì sống chủ yếu ở miền tây các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận. Một số tỉnh miền Đông Nam Bộ cũng có vùng núi và là vùng dân tộc khá rộng. Vùng Cát Tiên, nơi có di tích nổi tiếng của dân tộc Mạ, nằm phần lớn trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Sóc Bombo mà chúng ta đều biết qua bài hát quen thuộc cũng thuộc Bình Phước… Như vậy khái niệm Tây Nguyên xét về các về mặt dân tộc, văn hoá, xã hội, có thể cả lịch sử và địa lý, thật ra rộng hơn vùng được quy định theo địa lý hành chính. Có người đã dùng khái niệm Nam Trường Sơn để chỉ vùng này, có thể đúng hơn.

B Đặc điểm địa lý

Trong tác phẩm Rú Mọi (Les jungles Mois – NXB Tri Thức dịch với tên là Rừng người Thượng), cho đến nay vẫn được coi là công trình khảo sát cơ bản nhất về Tây Nguyên, tác giả Henri Maitre cho rằng Tây Nguyên không phải là một dãy núi – như vẫn được gọi trước nay (Trường Sơn, Chaîne annamitique) – mà là một bình nguyên nằm trên cao. Trong một kỷ địa chất xa xôi nào đó, vùng đất này do chấn động của vỏ trái đất đã được nâng cao lên đột ngột so với chung quanh, tạo thành một cao nguyên lớn.

Về địa hình, Tây Nguyên có hai đặc điểm đáng chú ý :

Cao vút ở hai đầu, cực bắc là cụm núi Atouat, với đỉnh Ngok Linh 2598 mét, cao nhất toàn Tây Nguyên và toàn miền Nam ; cực nam là dãy Chư Yang Sin, 2402 mét (là đỉnh cao nguyên Lang Biang). Giữa hai cụm núi ấy là một bình nguyên mênh mông, bằng phẳng, chỉ có những nếp lượn sóng liên tục. Đứng tại thành phố Buôn Ma Thuột chẳng hạn nhìn quanh, thấy cụm núi quan trọng nhất của tỉnh Đắc Lắc là núi Đ’leya, cũng xa tương tự như từ Hà Nội nhìn lên Ba Vì hay Tam Đảo…

Đặc điểm địa hình thứ hai rất quan trọng của Tây Nguyên là dốc đứng trên sườn phía đông, đổ xuống các tỉnh duyên hải nam Trung Bộ, tạo thành một bức trường thành sừng sững. Chính điều này khiến người Việt ở các tỉnh ven biển nam Trung Bộ nhìn ngược lên hướng tây đã nhầm Tây Nguyên là một dãy núi dài. Từ đồng bằng duyên hải nam Trung Bộ đi lên Tây Nguyên chỉ có một số đường độc đạo, ngày trước là các đường 19 từ Quy Nhơn, qua đèo An Khê và đèo Mang Giang lên Pleiku, rồi có thể đi tiếp qua Stung Treng của Cămpuchia; đường 26, từ Nha Trang – Ninh Hòa qua đèo Phượng Hoàng lên Buôn Ma Thuột; đường 28 từ Phan Rang qua đèo Ngoạn Mục lên Đà Lạt. Gần đây đã sửa chữa, nâng cấp và mở thêm một số đường khác, như các đường 14 từ Đà Nẵng và Quảng Nam lên Kontum, đường 24 từ Quảng Ngãi lên Kontum, đường 25 từ Tuy Hòa, Phú Yên lên Pleiku, v.v… Đáng chú ý, chẳng hạn nếu theo đường 19 Quy Nhơn – Pleiku thì sau khi lên khỏi đèo An Khê rất cao, ta lại tiếp tục đi bằng chứ không hề xuống dốc, sau đó cách khoảng vài chục km sẽ gặp đèo Mang Giang cũng rất cao và hiểm trở, vượt qua rồi lại tiếp tục đi bằng, đến Pleiku, sau đó sẽ xuôi dần thoai thoải về hướng tây đến bờ sông Mékông. Tức trong khi sườn phía đông dốc đứng, thì sườn phía tây của Tây Nguyên khá bằng phẳng, thoải thoải đổ về Mékông. Đặc điểm địa hình này sẽ rất quan trọng trong quan hệ của Tây Nguyên với các “lân bang” trong lịch sử lâu dài: quan hệ về phía tây, với Cămpuchia và với Lào, thuận tiện hơn là với Champa (và sau đó với Đại Việt) ở phía đông. Các bộ lạc ở Tây Nguyên quan hệ với “lân bang” trên vùng duyên hải phía đông chủ yếu do nhu cầu tìm muối mà Tây Nguyên hoàn toàn không có. Ở Tây Nguyên có hai địa danh đáng chú ý: Trong tiếng Ê Đê, buôn có nghĩa là làng (Buôn Hồ, Buôn Sam, Buôn Ma Thuột…), nhưng lại có Bản Đôn ở Đắc Lắc, phía tây Buôn Ma Thuột, sâu về phía nam Tây Nguyên, gần biên giới Cămphuchia. Bản là tiếng Lào, có nghĩa là làng. Bản Đôn chính là một trạm buôn của người Lào cắm sâu vào đây từ rất xưa, đến nay kiến trúc nhà cửa trong làng vẫn còn nhiều dấu vết Lào, người dân vẫn hiểu thông thạo tiếng Lào. Đây cũng chính là vùng dân tộc Mơ Nông, rất giỏi nghề săn bắt và thuần dưỡng voi. Rất có thể chính người Lào đã truyền nghề này cho người Mơ Nông… Trong cụm núi Ngok Linh lại làng Mường Hon. Mường chắc chắn là tiếng Lào, cũng có nghĩa là làng. Đây có thể là một làng người Lào vào định cư đã lâu đời trong cụm núi lớn này, cũng có thể là vết tích của những người Lào chạy dạt vào đây do hệ quả của các cuộc chiến tranh bộ lạc ngày xưa… Rõ ràng quan hệ của người Lào với các dân tộc Tây Nguyên từ xa xưa đã khá sâu.

Tây Nguyên vốn là một vùng đất núi lửa, hiện nay còn rất nhiều dấu vết núi lửa. Biển Hồ khá rộng ở phía bắc thị xã Pleiku chính là một miệng núi lửa cổ. Núi Hàm Rồng ở nam thị xã Pleiku còn rất rõ dấu vết miệng núi lửa. Ở Đắc Lắc có huyện Chư Mơgar, có nghĩa là “Núi Ngược”, vì miệng núi lửa cổ lõm xuống trên đỉnh khiến ngọn núi này trông như có đỉnh lộn ngược… Chính nham thạch núi lửa đã khiến Tây Nguyên trở thành một vùng đất bazan lớn nhất nước, chiếm đến 60% kho đất bazan của cả nước. Đất bazan đặc biệt thích hợp với một số cây công nghiệp như cà phê, cao su…

Tây Nguyên cũng là vùng có hệ động vật và thực vật phong phú nhất nước.

Về khí hậu, Tây Nguyên có hai mùa rõ rệt, mùa khô từ tháng 11 đến giữa tháng 5, và mùa mưa từ cuối tháng 5 đến tháng 10. Đất bazan là loại đất không giữ nước, nước mưa trượt đi trên bề mặt, về mùa khô Tây Nguyên gần như hoàn toàn không có nước.

C – Sơ lược lịch sử

1- Tiền sử :

Năm 1948, nhà dân tộc học người Pháp Goerges Condominas tìm được bộ đàn đá tiền sử ở làng Nđut Liêng Krak thuộc huyện Krông Nô tỉnh Đắc Lắc. Đây là bộ đàn đá đầu tiên tìm được trên thế giới. Về sau nhiều bộ đàn đá khác còn được tìm thấy ở nhiều nơi thuộc Tây Nguyên và ven Tây Nguyên. Đáng chú ý hệ thang âm của các đàn đá này trùng hợp với thang âm các bộ chiêng của các dân tộc Tây Nguyên hiện nay (thang ngũ âm, nhưng khác với thang ngũ âm Trung Hoa, mà lại gần thang âm tìm thấy ở một số nhạc cụ trên các đảo nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương). Tức có thể có một mối quan hệ nào đó còn chưa giải thích được giữa chủ nhân các bộ đàn đá tiền sử ấy (được xác định niên đại là cách đây 3000 năm) với các dân tộc đang sinh sống ở Tây Nguyên hiện nay, và cũng có thể có một dòng chảy của con người từ những vùng xa xôi từ phía nam đến Tây Nguyên trong những thời kỳ rất xa xưa.

Cách đây vài chục năm, trong khi chuẩn bị làm Thủy điện Ya Ly (trên vùng giáp giới hai tỉnh Kontum và Gia Lai), đã tiến hành khai quật di chỉ Lung Leng, nơi sẽ là lòng hồ. Đã phát hiện được tại đây dấu vết hết sức quan trọng của một nền văn hoá cổ, từ thời Đồ đá cũ, Đồ đá mới sang đến Đồ đồng… Từ sau đó, công tác khảo cổ ở Tây Nguyên được chú ý hơn, đã liên tục phát hiện nhiều khu di tích quan trọng khác, ở hầu khắp Tây Nguyên. Đã tìm được cả trống đồng ở nhiều nơi. Công tác khảo cổ ở Tây Nguyên nói chung chỉ mới bắt đầu, chưa đủ cơ sở cho những kết luận thật đáng tin cậy. Song bước đầu đã có thể thấy một số điểm đáng chú ý: các di vật đồ đá và đồ đồng tìm thấy ở Tây Nguyên rất gần với Đông Sơn, trong khi đồ gốm lại gần với văn hoá Sa Huỳnh. Như vậy ít ra có thể thấy nền văn hoá tiền sử ở Tây Nguyên từng có giao lưu rộng rãi với cả hai nền văn hoá lớn này ở phía bắc và phía nam…

Công cuộc khảo cổ ở Tây Nguyên chắc chắn còn hứa hẹn nhiều khám phá mới quan trọng.

2- Tây Nguyên trước thời Nam tiến của người Việt. Quan hệ của các dân tộc Tây Nguyên với Cămpuchia, Lào, Champa (và sau đó với Đại Việt).

Trước khi có cuộc Nam tiến của người Việt, vương quốc Champa xem Tây Nguyên nửa như một nước chư hầu nửa như vùng đất phía tây của mình. Trong thực tế triều đình Champa không hề kiểm soát được Tây Nguyên. Suốt một thời kỳ lịch sử rất lâu dài, Tây Nguyên là vùng sinh sống của các bộ lạc độc lập và tự trị. Trong đó đông nhất, mạnh nhất, chặt chẽ nhất là người Gia Rai, sống ở vùng trung Tây Nguyên. Trong người Gia Rai có các nhân vật rất đặc biệt gọi là P’tao Pui, P’tao Ia và P’tao Nhinh, mà người Việt dịch là “Vua Lửa”, “Vua Nước”, “Vua Gió”, người Pháp cũng dịch là “Roi du Feu”, “Roi de l’Eau”, “Roi du Vent”. Cách dịch “Vua”, “Roi” là không chính xác. Thật ra đây là một kiểu thủ lĩnh tinh thần và tâm linh rất độc đáo trong xã hội Gia Rai, một kiểu “thầy cúng” có uy tín lớn, đóng vai trò là người giữ mối quan hệ giữa Thần linh và con người, giữa thế giới “bên trên” và xã hội trần thế, không có bất cứ quyền hành thế tục và quyền lợi ưu tiên nào, nhưng lại là một thứ trung tâm cố kết và “điều hành” toàn bộ xã hội này một cách hết sức chặt chẽ và hiệu lực, kể cả trong quan hệ đối ngoại với các “lân bang”. Trong tác phẩm nghiên cứu rất công phu và đặc sắc “P’tao, một lý thuyết về quyền lực ở người Gia Rai Đông Dương” (P’tao, une théorie du pouvoir chez les indochinois Jarai), nhà Tây Nguyên học hàng đầu Jacques Dournes đã có sự phân tích và giải thích rất sâu sắc về các nhân vật này và một kiểu quyền lực cũng hết sức độc đáo ở xã hội Gia Rai nói riêng và xã hội Tây Nguyên nói chung, còn tồn tại cho đến rất gần đây, thậm chí còn ảnh hưởng tiềm tàng đến tận ngày nay.

Các P’tao là người Gia Rai, sống ở vùng Gia Rai, nhưng tầm ảnh hưởng lan rất rộng, sâu trên nhiều vùng dân tộc khác, thậm chí sang cả Cămpuchia. Trong nhiều thời kỳ, triều đình Cămpuchia từng coi các P’tao ở Tây Nguyên như một kiểu “vua thần”, định kỳ có dâng cống vật. Người Cămpuchia gọi các P’tao là Sadet (gần với từ Samdeth). Về sau, các “Vua Nước” và “Vua Gió” giảm dần ảnh hưởng rồi mất hẳn, chỉ còn “Vua Lửa”… Chúng tôi nghĩ việc nghiên cứu hình thái tổ chức xã hội với các P’tao của người Gia Rai có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm hiểu sâu sắc Tây Nguyên, con người, văn hoá, tổ chức xã hội cổ truyền… ở vùng đất đặc biệt này. Thậm chí cũng còn có thể cho phép chúng ta hình dung chừng nào về các xã hội cổ từng tồn tại trên vùng đất nay là bán đảo Đông Dương.

Tây Nguyên quan hệ với các “lân bang” chính là qua các P’tao. Quan hệ nhiều nhất là với Cămpuchia. Trong nhiều thời kỳ dài đã thường xuyên có các đoàn “sứ giả” đi lại hằng năm giữa các P’tao và triều đình Cămpuchia, trao đổi cống vật giữa hai bên. Trong quan hệ này đáng chú ý là về phía Cămpuchia đối với các P’tao Tây Nguyên là có tính chất “dâng lên”, còn từ phía các P’tao với các vua Cămpuchia là “ban xuống”. Do địa hình và cả chủng tộc, người Lào đã có quan hệ lâu đời và sâu với các dân tộc ở Tây Nguyên. Quan hệ của Tây Nguyên với Champa lại có những nét riêng khác: Trong thực tế, triều đình Champa đối xử với Tây Nguyên như với một “lân bang” phía tây của mình, cũng có quan hệ trao đổi cống vật định kỳ (với các P’tao) nhưng không chặt chẽ bằng phía Cămpuchia. Mặt khác, người Gia Rai, dân tộc lớn nhất và quan trọng nhất ở Tây Nguyên với người Chàm đều cùng thuộc một ngữ hệ Malayo-Polynésien nên rất gần gũi nhau, thậm chí có tác giả còn cho rằng người Gia Rai chính là người Chàm dạt lên Tây Nguyên trong những điều kiện và những thời gian lịch sử nào đó. Hiện còn có một số dấu vết các tháp Chàm ở vùng Gia Rai…

Trong quá trình Nam tiến, người Việt đã mất trên ba trăm năm mới giải quyết xong vùng đồng bằng ven biển Champa, sau đó đi tiếp về nam, đứng chân được trên vùng đất Thủy Chân Lạp vừa xong thì cũng là lúc người Pháp tràn vào. Do vậy triều đình Việt chưa có thời gian quan tâm nhiều đến vùng đất cao phía tây và các bộ lạc sống trên đó. Triều đình Huế cũng có phái một số quan chức lên tìm hiểu và bắt quan hệ với các bộ lạc Tây Nguyên, tất nhiên với ý đồ chinh phục. Tuy nhiên công cuộc này cũng còn rất sơ sài, các phái viên triều đình có gặp Vua Nước, Vua Lửa, mà họ gọi là Thủy Xá, Hỏa Xá, đặt quan hệ “triều cống” định kỳ của các vị này với triều đình và “ban tước” của triều đình cho các vị này, và vì hiểu rằng đây quả thực là các “Vua” nên họ yên trí như vậy là đã nắm được toàn bộ Tây Nguyên. Có hiện tượng đáng chú ý: triều Nguyễn đã từng thiết lập một hệ thống “đồn sơn phòng” suốt dọc các tỉnh trung Trung bộ trên ranh giới giữa vùng người Việt và vùng sinh sống của các dân tộc thiểu số ở phía tây, riêng ở Quảng Ngãi còn lập cả một bờ lũy dài hơn trăm km ngăn cách giữa hai vùng, chứng tỏ triều đình coi phía bên kia là một “nước” khác, có thể là một thứ “man” chư hầu…

3 – Người Pháp với Tây Nguyên.

Quá trình xâm nhập của người Pháp vào Tây Nguyên khá lâu dài và sâu.

Đầu tiên là các nhà truyền giáo. Do chính sách “sát tả”, bài trừ Cơ đốc giáo của các vua đầu triều Nguyễn, các nhà truyền giáo Cơ đốc đã tìm đường lánh lên vùng rừng núi Tây Nguyên có thể an toàn hơn. Họ đã đi bằng nhiều đường khác nhau, sau nhiều lần thất bại cuối cùng đã lên được đến vùng người Ba Na ở Kontum và thiết lập được xứ đạo đầu tiên trên cao nguyên tại đây. Tại Đại chủng viện ở thị xã Komtum hiện nay có một bảo tàng (được gọi là “Phòng truyền thống”) minh họa khá sinh động và chính xác con đường truyền đạo Cơ-đốc lên Tây Nguyên. Nhiều nhà truyền giáo cũng là những nhà dân tộc học tận tụy và uyên bác. Chính họ đã để lại những công trình nghiên cứu đa dạng và sâu sắc về Tây Nguyên.

Đồng thời và tiếp sau các nhà truyền giáo là các “phái bộ” (mission) khảo sát, vừa là những người tiên phong đi chuẩn bị và dọn đường cho việc chinh phục, đồng thời cũng là những nhà khoa học được đào tạo rất cơ bản, ít nhất ở hai trường Dân tộc học và Trường Pháp quốc hải ngoại (École française d’Outre-mer), một số người là sĩ quan quân đội. Nhiều phái bộ như vậy đã đi hầu khắp Tây Nguyên, không bỏ sót một vùng nào, nghiên cứu hoặc một cách tổng thể về vùng đất và người này, hoặc về từng phương diện, từng tộc người, từng vùng riêng biệt. Một trong những phái bộ đó, do Henri Maitre dẫn đầu, đã để lại một tác phẩm đồ sộ đến nay vẫn là công trình khảo sát cơ bản, toàn diện và tỉ mỉ nhất về Tây Nguyên, chưa ai vượt qua được. Công trình này có tên là Les jungles Mois (Rú Mọi), gồm hai phần, phần đầu là Nhật ký hành trình của phái bộ xuyên suốt Tây Nguyên, phần hai trên cơ sở tổng kết toàn bộ các khảo sát, dựng nên bức tranh toàn diện về Tây Nguyên. Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội đã tổ chức dịch phần hai công trình này, dưới cái tên Rừng người Thượng, đang được in ở nhà xuất bản Tri Thức.

Tiếp sau các phái bộ khảo sát là các nhà cai trị, cũng được đào tạo rất cơ bản về nhân chủng học, dân tộc học trước khi sang Việt Nam. Rất nhiều người trong số này, như Sabatier, công sứ Pháp đầu tiên ở Đắc Lắc, là nhà khoa học uyên bác. Ông là người đầu tiên sưu tầm và dịch ra tiếng Pháp trường ca Đam San, cũng đã sưu tầm và hệ thống hoá toàn bộ luật tục Ê Đê. Ông từng cai trị tỉnh Đắc Lắc bằng một kiểu “Tòa án Luật tục”, kết hợp khôn khéo luật tục của người Ê Đê với luật chung cho toàn Đông Dương. Bên cạnh những viên quan cai trị này, còn có những nhà chuyên môn giỏi và tâm huyết trong nhiều lĩnh vực, như Antomarchi, một nhà ngôn ngữ học lão luyện, người đã đặt ra vần chữ cái La tinh đầu tiên cho tiếng Ê Đê. Thậm chí còn có những bác sĩ như Jouin, vừa là một thầy thuốc nổi tiếng, vừa là một nhà dân tộc học sâu sắc…

Sau cùng đến lượt các nhà khoa học chuyên nghiệp, như G. Condominas, A. de Hautecloque-Howe, Boulbet, Maurice…, thường đi sâu và ở lại lâu dài trong các vùng thực địa, để lại những công trình quan trọng hoặc về từng dân tộc hoặc về từng vấn đề dân tộc học lớn ở Tây Nguyên. Có người như Jacques Dournes, là một linh mục đến Tây Nguyên, ở lại suốt hai mươi lăm năm, cuối cùng bỏ đạo, sống theo phong tục Tây Nguyên, là một nhà Tây Nguyên học lớn…

Công cuộc chinh phục Tây Nguyên của người Pháp diễn ra song song với cuộc xâm chiếm Việt Nam và toàn Đông Dương. Ở Tây Nguyên họ cũng gặp phải sự kháng cự của các bộ lạc bản địa. Trước đây, giữa các bộ lạc ở đây vẫn thường diễn ra chiến tranh, chủ yếu để cướp tù binh bán sang các nước chung quanh làm nô lệ. Vốn là những dân tộc quen sống tự do, phóng khoáng, có ý thức tự trọng và tinh thần thượng võ cao, không chịu bất cứ sự áp bức, áp đặt nào, họ đã đứng lên chống lại những người mới đến mang tới một ách thống trị xa lạ. Tuy nhiên những cuộc kháng cự thường rời rạc, một vài phong trào liên kết được một số vùng tương đối rộng không tồn tại được lâu. Song cũng có những vùng cuộc đấu tranh diễn ra khá dai dẳng, thậm chí có nơi suốt gần trăm năm đô hộ người Pháp vẫn không hoàn toàn thiết lập được bộ máy cai trị.

Khi đã chiếm được toàn bộ Đông Dương, người Pháp đã chia bán đảo này ra thành năm xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao và Cao miên. Vậy nên phân Tây Nguyên về đâu? Họ có cái mà Jacques Dournes, trong tác phẩm P’tao… của ông, gọi là “logique du découpage” (lô gích của sự phân cắt), tất nhiên là lô gích phân cắt sao cho thuận tiện hơn cả đối với sự cai trị của chính quyền thực dân. Thấy trong các “lân bang” trước nay, người Lào đã xâm nhập vào Tây Nguyên sâu hơn cả, về mặt chủng tộc cũng tương đối gần gũi, nên họ cắt Tây Nguyên về Lào. Một thời gian sau, nhận thấy thủ đô Lào đặt ở Viêng Chăn quá xa, khó với tới Tây Nguyên, đến năm 1904 Toàn quyền Đông Dương đã ký nghị định giao Tây Nguyên về cho triều đình Huế. Như vậy về mặt pháp lý (của chính quyền thực dân), từ năm 1904 Tây Nguyên mới chính thức thuộc về Trung Kỳ, và từ đó thuộc về Việt Nam.

Chủ trương của người Pháp đối với Tây Nguyên trước sau không hoàn toàn thống nhất. Viên công sứ Pháp đầu tiên cai trị Tây Nguyên là Sabatier (lúc bấy giờ toàn bộ Tây Nguyên được coi là một tỉnh gọi là tỉnh Kontum, thủ phủ đặt ở Buôn Ma Thuột) chủ trương “bảo tồn” nguyên vẹn Tây Nguyên, ngăn không cho người Việt, người Hoa, và cả người Pháp lên sinh sống và khai thác Tây Nguyên. Ông muốn giữ không chỉ đất đai, mà cả con người, văn hoá, xã hội Tây Nguyên mà ông khá am hiểu trong trạng thái đúng như khi nó được “tìm thấy”, không để cho vùng đất, người, văn hoá và xã hội cổ truyền tốt đẹp này bị tổn thương vì sự xâm nhập của các thế lực ngoại lai. Ông kiên trì thu phục được các tù trưởng bản địa (Ama Thuột chính là một tù trưởng có ảnh hưởng lớn trong vùng Ê Đê, đã quy thuận, hợp tác với Sabatier, và làng của ông, Buôn Ma Thuột [có thể dịch sát nghĩa: Làng của Cha thằng Thuột], trở thành thủ phủ của toàn vùng. Sabatier tự biến mình thành một tù trưởng đứng đầu toàn xứ, tổ chức nhiều cuộc ăn thề kết nghĩa trung thành với các tù trưởng lớn trong vùng, thiết lập một bộ máy và một phương thức cai trị dựa trên luật tục của các dân tộc bản địa…

Chính sách “đóng cửa Tây Nguyên” của Sabatier vấp phải sự chống đối của các thế lực thực dân muốn đổ xô vào khai thác vùng đất màu mở này. Cuối cùng, do áp lực gay gắt của họ, Sabatier bị lật đổ, ông đã thất bại trong ý đồ có thể tốt đẹp nhưng ảo tưởng của ông… Từ đó các nhà thực dân Pháp mới bắt đầu khai thác Tây Nguyên, chủ yếu là lập các đồn điền cà phê, cao su, chè do người Pháp làm chủ, sử dụng một số công nhân người Việt được đưa lên đây, và dần dần có thêm ít nhiều công nhân người Tây Nguyên…

Chính trong thời gian cai trị của người Pháp, đã đào tạo được một số trí thức trong các dân tộc bản địa Tây Nguyên, chủ yếu trong hai ngành y tế và giáo dục. Hầu như tất cả các trí thức này về sau đều trở thành cán bộ nòng cốt của cách mạng ở Tây Nguyên…

Chỉ hơn một tháng sau Cách mạng Tháng Tám, quân Pháp đã trở lại đánh chiếm Nam Bộ, tiếp liền sau đó là Tây Nguyên. Đáng chú ý là suốt 9 năm chiến tranh Pháp không chiếm được vùng duyên hải Nam Trung Bộ từ nửa tỉnh Quảng Nam vào đến Phú Yên, nhưng họ lại tập trung sức quyết chiếm Tây Nguyên. Ấy là vì vị trí chiến lược hết sức quan trọng của Tây Nguyên, về mặt quân sự “ai làm chủ được Tây Nguyên thì sẽ làm chủ cả miền nam Đông Dương”. Cuộc kháng chiến 9 năm ở vùng Nam Trung Bộ (lúc bấy giờ gọi là Liên khu 5) chính là cuộc giành giật quyết liệt giữa ta và địch vùng cao nguyên chiến lược này. Chính qua cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung này mà các dân tộc Tây Nguyên đã trở nên gần gũi và gắn bó ngày càng sâu sắc với cách mạng, với cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trở thành một bộ phận khắng khít không thể tách rời của cộng đồng rộng lớn đó. Từ những cơ sở chính trị đầu tiên được kiên trì xây dựng, tiến lên thành những cơ sở du kích vũ trang, các làng chiến đấu kiên cường, đến cuối những năm kháng chiến chống Pháp Tây Nguyên đã có thể trở thành địa bàn thuận lợi cho các đơn vị chủ lực mở những chiến dịch ngày càng lớn, cho đến chiến dịch Đông- Xuân 1953-54, phối hợp với Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kontum và toàn bộ vùng Bắc Tây Nguyên…

Từ sau năm 1954 đến năm 1959-60, Tây Nguyên đã trải qua một giai đoạn rất đặc biệt. Đây là thời kỳ phong trào cách mạng ở miền Nam bị đánh phá hết sức ác liệt, tổn thất nặng nề trong các chiến dịch “chống cọng, tố cọng” của chính quyền Sài Gòn. Những cán bộ cọng sản không còn trụ lại được ở đồng bằng phải lánh lên miền núi để bảo tồn lực lượng. Họ phải lặn mình trong đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, dựa vào dân, được dân bảo vệ, nuôi dưỡng mà tồn tại. Chính trong hoàn cảnh này công tác vận động quần chúng đã được thực hiện tốt hơn cả. Để tồn tại, và là tồn tại để rồi sẽ đến lúc bùng dậy giành lại thế tấn công, những người cọng sản không chỉ dựa vào dân để được che chở mà còn phải ra sức gây dựng và phát triển tốt nhất, sâu nhất mọi mặt đời sống xã hội ở vùng dân tộc, và để làm được điều đó lại phải hiểu biết sâu sắc hơn bao giờ hết những đặc điểm quan trọng nhất của xã hội này, tôn trọng và vận dụng những đặc điểm đó trong công tác vận động quần chúng. Kết quả là trong khi phong trào cách mạng ở đồng bằng phải trải qua một giai đoạn thoái trào nghiêm trọng, thì ở miền núi và vùng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên ngược lại không hề có thoái trào, mà là phát triển mạnh mẽ và sâu sắc. Thậm chí ở một số vùng đã thực hiện được những điều kỳ lạ: như ở vùng người Cơ Tu và người Cà Dong thuộc miền núi Quảng Nam, một số cán bộ trụ bám ở lại tại đây đã tự mình mày mò sáng tạo ra chữ viết cho hai dân tộc này và từ năm 1954 đến năm 1959 đã thanh toán xong nạn mù chữ trong đồng bào dân tộc ở đây… Chính trên cơ sở đó mà khi bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ Tây Nguyên đã đạt đến một thời kỳ có thể gọi là cao trào, sự đóng góp của Tây Nguyên vào công cuộc chống Mỹ cứu nước là vô cùng to lớn. Không thể hình dung cuộc chiến đấu vĩ đại này và chiến công giải phóng Sài Gòn nếu không có Tây Nguyên…

Tóm lại, do những điều kiện lịch sử đặc trưng, các dân tộc Tây Nguyên đến với cộng đồng các dân tộc Việt Nam khá muộn, nhưng quá trình gia nhập và gắn bó với cộng đồng này lại rất nhanh và sâu sắc. Cho đến năm 1975, tình hình Tây Nguyên là rất tốt về mọi mặt.

4 – Về các dân tộc Tây Nguyên.

Tây Nguyên có khoảng 20 dân tộc khác nhau. Nói là “khoảng” vì có dân tộc theo bảng phân định dân tộc chính thức của nhà nước hiện nay được coi là một nhánh của một dân tộc chung lớn hơn, nhưng cho đến nay lại không chịu chấp nhận cách phân loại đó mà tự coi mình là một dân tộc riêng. Như người Cà Dong ở miền núi tây Quảng Nam, theo bảng phân loại dân tộc học của nhà nước là một nhánh của dân tộc Xơ Đăng, nhưng hầu hết người Cà Dong nhất định tự coi mình là một dân tộc riêng với tất cả các đặc điểm riêng của một dân tộc độc lập…

Các dân tộc ở Tây Nguyên thuộc hai ngữ hệ khác nhau: Môn-Khơme (hay Nam Á) và Malayo-Polynésien (hay Nam Đảo). Quan sát sự phân bố các dân tộc ở Tây Nguyên theo ngữ hệ có thể thấy một điều đáng chú ý: thuộc ngữ hệ Môn-Khơme có các dân tộc ở Bắc Tây Nguyên từ khoảng giữa tỉnh Gia Lai hiện nay trở ra, như các dân tộc Xơ Đăng, Cơ Tu, Dẻ Triêng, Rơ Mâm, Ba Na, Brâu…, và các dân tộc ở miền Nam Tây Nguyên từ nửa tỉnh Đắc Lắc trở vào như các dân tộc Mơ Nông, Kơ Ho, Mạ, Sre, Stiêng… Chen vào giữa, trên vùng đất từ giữa tỉnh Gia Lai hiện nay cho đến nửa tỉnh Đắc Lắc, là các dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo-Polynésien gồm người Gia Rai, người Ê Đê, người Chu Rú, người Rakglei. Người Chàm sống ở vùng duyên hải nam Trung Bộ cũng thuộc ngữ hệ này. Có tác giả đã giải thích hiện tượng này như sau: Từ xa xưa Tây Nguyên vốn là vùng đất của các dân tộc Môn-Khơme. Các dân tộc Malayo-Polynésien đã từ các đảo phía nam đến, trước tiên đổ vào dải đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ hiện nay. Các dân tộc này đã chịu ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ, trong số đó riêng người Chàm đã phát triển thành một vương quốc hùng mạnh, và ép các dân tộc ở cạnh mình ra, buộc họ phải tìm cách tràn lên vùng đất cao phía tây. Do địa hình dốc đứng trên sườn phía đông của cao nguyên này, họ chỉ có thể tràn lên theo một số đường độc đạo nhất định: người Gia Rai đã lên theo đường đèo An Khê (tức đường 19 hiện nay) và đường Bà Lá, Cà Lúi, lên Cheo Reo, Ayun Par (tức đường số 25), chiếm cao nguyên Gia Lai; Người Ê Đê lên theo đường đèo Phượng Hoàng (tức đường 26 hiện nay) chiếm cao nguyên Đắc Lắc; Người Rakglei thì tạt lên mạn tây Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận, ở đây địa hình dốc đứng cản trở họ có thể lên xa hơn. Như vậy các dân tộc Malayo-Polynésien đã từ đồng bằng nam Trung Bộ tiến về phía tây, chen vào giữa như một chiếc nêm, ép các dân tộc Môn-Khơme ra hai đầu. Đương nhiên điều này diễn ra trong những thời kỳ lịch sử rất xa xưa, có thể khi Biển Đông còn cạn, miền nam bán đảo Đông Dương có thể còn gắn liền với các đảo Nam Á.

Đông, mạnh nhất ở Tây Nguyên là dân tộc Gia Rai, rồi đến người Ê Đê, người Ba Na, người Xơ Đăng… Cũng có những dân tộc rất nhỏ như người Châu ở trong thung lũng Mường Hon của núi Ngok Linh, chỉ có khoảng 80 người…

II- Hai vấn đề lớn trong xã hội Tây Nguyên cổ truyền

A – Làng

Trong xã hội Tây Nguyên cổ truyền, vẫn còn rất đậm nét cho đến tận ngày nay, làng là đơn vị xã hội cơ bản và duy nhất. Không có đơn vị xã hội cao hơn làng. Trong nhiều ngôn ngữ các dân tộc Tây Nguyên không có từ để chỉ đơn vị cao hơn làng. Boon trong tiếng Mơ Nông, Buôn trong tiếng Ê Đê, Plei trong tiếng Gia Rai, Ba Na, Veil trong tiếng Cơ Tu… đều có nghĩa là làng. Ngày trước trong một số dân tộc có từ T’ring dùng để chỉ liên minh giữa một số làng, nhưng đấy chỉ là những liên minh tạm thời để cùng nhau đối phó với một số trở lực nào đó, khi trở lực ấy đã được giải quyết thì những liên minh đó cũng tan rã, không hề có lãnh thổ và tổ chức hành chính tương đương.

Trong xã hội cổ truyền Tây Nguyên cũng không có đơn vị nhỏ hơn làng. Ở đây ý thức về cá nhân chưa phát triển, không có cá nhân độc lập đối với làng. Khi gặp một người Tây Nguyên, hỏi anh ta tên gì, thì phản xạ tự nhiên đầu tiên của anh ta là trả lời : Tôi là người của làng X hay Y nào đấy. Gạn hỏi kỹ hơn nữa : Nhưng anh tên là gì ?, lúc đó anh ta mới trả lời rõ hơn : Tôi là A hay B ở làng X hay Y. Vẫn không thể quên làng. Con người là một bộ phận nhỏ chìm trong cộng đồng làng, hoaf tan trong làng, không thể tách rời khỏi làng. Ở Tây Nguyên, hình phạt nặng nề nhất, nổi đau đớn lớn nhất, điều nhục nhã nhất đối với một người là bị đuổi khỏi làng. Thậm chí trong trường hợp đó con người mất luôn cả tính người, không làng nào khác chấp nhận anh ta nữa, anh ta sẽ trở thành như một con thú, lang thang và chết vùi trong rừng. Nếu ta thường nói người Tây Nguyên có tính cộng đồng rất cao, thì tính cộng đồng đó là tính cộng đồng làng, thậm chí còn sâu đậm và cụ thể hơn cả ý thức về tộc người. Một người Ba Na biết mình là người Ba Na, nhưng ý thức về tộc người Ba Na không sâu đậm bằng ý thức về làng của mình. Ngày trước, trong chiến tranh bộ lạc, không phải chẳng hạn mấy làng Ba Na này liên minh lại đi đánh nhau với mấy làng Gia Rai kia, mà là hai ba làng Ba Na này liên minh với vài ba làng Gia Rai kia đi đánh hai ba làng Gia Rai khác liên minh với vài ba làng Ba Na khác.

Làng được điều hành bằng một tổ chức đặc biệt là Hội đồng già làng, gồm đại diện của các hộ trong làng. Đứng đầu Hội đồng già làng là chủ làng. Già làng là những người hiền minh nhất của làng, những người am hiểu rừng núi, đất đai, phong tục tập quán, giàu kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm sống, giỏi giang trong đối ngoại, và là người có đức độ cao, được dân làng bầu lên, có thể bị truất phế khi có những vi phạm đối với các quy định truyền thống của làng… Những người như vậy thường là những người đã cao tuổi, nhưng cũng có những người còn khá trẻ vẫn được bầu làm già làng nếu được sự tin cậy và kính trọng của toàn làng.

Hội đồng già làng quản lý làng theo một hệ thống luật pháp đặc biệt : luật tục (droit coutumier) của làng, tức những điều được cả cộng đồng công nhận và tuân theo như là luật, song lại tồn tại dưới hình thức là những phong tục. Cũng có người dịch là tập quán pháp, tức những tập quán được cả cộng đồng tuân thủ như luật. Già làng chính là những người am hiểu tường tận luật tục. Trong Hội đồng già làng thường có một người có chức năng phân xử mọi bất đồng hay vi phạm bằng hình thức tòa án luật tục của làng.

Sức sống bền vững của làng ở Tây Nguyên quả thật rất kỳ lạ, trải qua tất cả các biến động của lịch sử. Trong các cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ vừa qua, nhiều lúc làng bị đánh dữ dội, bị xé nát, bị di chuyển đi xa, nhưng rồi cộng đồng làng lại được khôi phục, hồi sinh. Cho đến nay, mặc dầu bị xáo trộn rất dữ trong những chuyển động xã hội suốt mấy mươi năm qua, về cơ bản cộng đồng làng vẫn còn. Một bằng chứng đáng chú ý là trong mấy cuộc bạo động vừa rồi ở Tây Nguyên, làng nào đã đi biểu tình thì bao giờ cũng đi nguyên cả một làng, không bao giờ có hiện tượng đi lẻ tẻ, và đã đi cả làng thì bao giờ cũng là do già làng dẫn đầu.

Trong công tác vận động quần chúng ở Tây Nguyên thời chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, kinh nghiệm thành công quan trọng nhất là phải hiểu biết sâu xa và dựa chắc vào đặc điểm xã hội này, phát huy được vai trò của làng, của già làng trong mọi việc, ở mọi tình huống. Không hiểu và nắm được làng và già làng, thì sẽ không hiểu và nắm được gì cả ở Tây Nguyên, mọi công việc ắt thất bại. Và nếu làng ở đây tan rã thì nguy cơ rối loạn xã hội sẽ rất lớn.

B – Sở hữu Đất và Rừng

Ở Tây Nguyên, rừng núi mênh mông vậy nhưng đều có chủ rành mạch, cụ thể. Không có đất và rừng vô chủ. Người chủ của đất và rừng chính là các làng, từng làng. Rừng núi, tất cả đã được “chia” cho từng làng từ xa xưa, “đã là như vậy từ tổ tiên muôn đời truyền lại”, đã được “Yang (tức Thần linh) giao cho từng làng”, có ranh giới rất rõ rệt. Đất, rừng của làng là thiêng liêng, không ai được xâm phạm, không ai được làm ô uế. Người ta gọi đó là Quyền sở hữu tập thể của cộng đồng làng đối với đất và rừng.

Sở hữu rừng của một làng gồm có những loại rừng sau đây :

– Rừng đã biến thành đất thổ cư ;

– Rừng sản xuất, tức khu rừng dân làng khai thác để làm rẫy ;

– Rừng sinh hoạt, là nơi dân làng tìm lấy những thứ cần thiết cho mọi sinh hoạt của mình : con ong, cái mật, dây mây, rau ăn, con thú để săn bẫy, gỗ để làm nhà…:

– Rừng thiêng (hay rừng ma) là nơi trú ngụ của các Yang (Thần linh), không ai được động đến, thường là rừng đầu nguồn. Đây thực chất là kinh nghiệm giữ rừng đầu nguồn được tích lũy lâu đời của người dân, bọc bên ngoài là một lớp vỏ tín ngưỡng.

Tất cả các loại rừng đó hợp thành không gian sinh tồn (espace vital), hay cũng có người như Condominas gọi là không gian xã hội (espace social) của làng. Một làng cần có đủ các loại rừng kể trên để có thể sinh tồn như một không gian xã hội, làm nên tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên.

Hội đồng già làng quản lý sở hữu tập thể này của cộng đồng làng bằng một hệ thống luật tục chặt chẽ và sinh động. Chính Hội đồng già làng chia khu rừng sản xuất cho các hộ trong làng để làm rẫy theo đúng những quy định trong luật tục, cũng theo đúng những quy định đó khai thác khu rừng sinh hoạt cho các nhu cầu hằng ngày của mình, giữ gìn khu rừng thiêng, và tôn trọng đúng các tập quán trong làng, tức trong khu rừng đã biến thành đất thổ cư, thành làng. Hằng năm, đất rừng làm rẫy có thể được điều chỉnh lại giữa các hộ nếu có người đông lên hay giảm đi. Về nguyên tắc, các hộ trong làng có thể chuyển đổi đất rừng canh tác cho nhau, nhưng tuyệt đối không được chuyển nhượng ra khỏi làng.

Như vậy, hai đặc điểm quan trọng của xã hội cổ truyền Tây Nguyên, Làng và Sở hữu tập thể của cộng đồng làng đối với đất và rừng gắn chặt với nhau. Chúng ta thấy rõ làng Tây Nguyên là “làng rừng” và là :

– một cộng đồng cư trú ;

– một cộng đồng sở hữu và lợi ích ;

– một cộng đồng tâm linh ;

– một cộng đồng văn hoá.

Quyền sở hữu tập thể của cộng đồng làng đối với đất và rừng chính là nền tảng kinh tế, vật chất của thực thể cộng đồng làng. Toàn bộ đời sống vật chất, kinh tế, văn hoá, tinh thần, tâm linh, đạo đức của làng, của con người Tây Nguyên tồn tại trên nền tảng này. Sẽ rối loạn, đổ vỡ tất cả khi nền tảng này bị tổn thương và mất đi.

III – Tây Nguyên từ sau năm 1975

A – Những chủ trương lớn đối với Tây Nguyên từ sau năm 1975

Từ sau năm 1975, đối với Tây Nguyên chúng ta có hai chủ trương chiến lược:

* Xây dựng Tây Nguyên thành một địa bàn vững chắc về an ninh và quốc phòng, tương xứng với vị trí chiến lược của vùng cao nguyên quan trọng này.

* Xây dựng Tây Nguyên thành một vùng trọng điểm kinh tế của cả nước.

Để thực hiện chủ trương chiến lược đó, đã :

– Tăng cường lực lượng lao động lớn cho Tây Nguyên bằng cách tiến hành một cuộc đại di dân chưa từng có, chủ yếu từ đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng duyên hải Nam Trung Bộ lên Tây Nguyên. Theo kế hoạch ban đầu, dự kiến sẽ đưa lên Tây Nguyên 5 triệu dân. Kế hoạch này cũng đồng thời nhằm giải toar áp lực dân số cho hai vùng đồng bằng nói trên.

– Tổ chức toàn bộ Tây Nguyên thành các đơn vị kinh tế lớn : trong 10 năm đầu là các Binh đoàn làm kinh tế, gồm 3 binh đoàn 331, 332, 333 bao trùm gần toàn bộ Tây Nguyên. Mười năm sau, quân đội giao lại cho dân sự, các binh đoàn làm kinh tế chuyển thành các Liên Hiệp Xí nghiệp Nông, Lâm, Công nghiệp (LHXNNLCN), cũng bao trùm gần hết Tây Nguyên. Sau 10 năm nữa, nhận thấy mô hình quản lý này không hiệu quả, đã giải tán các LHXNNLCN, tổ chức lại thành các nông trường, lâm trường thuộc tỉnh hoặc thuộc trung ương.

Toàn bộ đất và rừng ở Tây Nguyên được quốc hữu hoá, được lấy giao cho các binh đoàn làm kinh tế, các LHXNNLCN, các nông trường, lâm trường, và giao cho dân di cư từ đồng bằng lên. Người bản địa chỉ còn phần đất thổ cư và một ít đất làm rẫy.

B – Một số ngộ nhận hoặc hời hợt trong chủ trương, chính sách đối với Tây Nguyên

* Về quyền sở hữu đất và rừng.

Ngộ nhận lớn nhất, tai hại nhất khi lập chủ trương, chính sách đối với Tây Nguyên là ta hầu như hoàn toàn không biết, không hề quan tâm đến quyền sở hữu truyền thống ở Tây Nguyên đối với đất và rừng. Ta đã ngộ nhận đất, rừng Tây Nguyên là vô chủ, là đất giữa trời, chẳng của ai hết. Ta đã hành động ở Tây Nguyên như trên một vùng đất không có người, lấy đất và rừng từ ngàn đời nay đã “được Yang giao cho làng”, từng làng, đem giao cho các đơn vị làm kinh tế mới được lập lên và cho hàng triệu người nơi khác được đưa đến, một cách hết sức “vô tư”. Đây là điều chưa từng diễn ra trong suốt lịch sử lâu dài ở Tây Nguyên từ xưa đến nay.

* Về phương thức canh tác ở Tây Nguyên : người Tây Nguyên có du canh, du cư ?

Để làm mọi việc ở Tây Nguyên, cũng như ở nhiều vùng miền núi khác, ta đã chủ trương trước hết phải định canh, định cư. Công tác định canh, định cư được coi là biện pháp hàng đầu, quan trọng, quyết định nhất, trước khi tiến hành mọi việc khác. Chủ trương đó dựa trên nhận định người Tây Nguyên vốn du canh, du cư, và du canh, du cư, làm rẫy thì phá rừng… Vậy người Tây Nguyên có du canh, du cư, phá rừng ?

Hãy thử nhìn vào kiến trúc ở Tây Nguyên. Một số dân tộc thuộc ngữ hệ Môn-Khơ Me ở phía Bắc Tây Nguyên có kiến trúc nhà rông rất đặc sắc. Nhà rông làng Kông Rơ Bàng của người Ba Na ở Kontum, được dựng lại đúng y nguyên mẫu, đúng nguyên kích thước tại Bảo tàng Dân tộc học Hà Nội, cao đến vài chục mét, bằng một tòa nhà 5 tầng, cột nhà rông to hai người ôm, mái cao vút sừng sững. Những dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo-Polynésien không có nhà rông thì lại có kiến trúc nhà dài đặc sắc không kém. Nhà dài của ông Ama Thuột (tại thành phố Buôn Ma Thuột hiện nay) ngày trước dài đến gần 200 mét, đến nổi khi người chủ nhà muốn tập họp con cháu trong nhà thì phải thổi tù và. Các làng Ê Đê hiện nay vẫn còn những nhà dài đến vài ba chục mét, cây đòn dông trên mái nhà là một cây gỗ nguyên khối, không thể tìm thấy chỗ nối… Những dân tộc có kiến trúc vững chãi, đồ sộ như vậy chắc chắn không thể là những dân tộc sống tạm bợ, lang thang nay đây mai đó. Họ không hề du cư. Người Tây Nguyên chỉ dời làng trong mấy trường hợp : khi có dịch bệnh, chết nhiều người, “đất làng độc, có ma” ; hoặc khi mất nguồn nước uống bao giờ cũng được dẫn từ trên đỉnh núi cao xuống, bảo đảm trong sạch ; và trong trường hợp chiến tranh bộ lạc ngày trước… Còn thì làng là làng định cư ở một vị trí thuận lợi cho phương thức canh tác cũng không hề du canh. Người Tây Nguyên làm rẫy bằng cách đốt một khoảnh rừng và tỉa lúa xuống đấy. Chất mùn do lá rụng lâu năm và chất tro đốt có tác dụng phân bón. Một khoảnh đất canh tác như vậy trong hai hay ba năm thì bạc màu, người ta để hưu canh (ở Tây Nguyên gọi là “rẫy dế”), chuyển sang đốt một khoảnh rừng khác. Kỹ thuật chặt và đốt rừng làm rẫy được quy định rất chặt chẽ trong luật tục, không hề lãng phí và không bao giờ để xảy ra cháy rừng… Mỗi hộ trong làng thường có từ 10 đến 20 rẫy. Khi đã khai thác đến rẫy thứ 10 hay thứ 20, quay lại rẫy đầu tiên thì đã là 40 đến 60 năm, đủ thời gian cho rừng tái sinh. Đấy là phương thức tìm lấy thức ăn từ rừng và nuôi rừng khôn ngoan đã được tích luỹ và thử thách hàng nghìn đời. Cuốn sách nổi tiếng Chúng tôi ăn rừng… của nhà dân tộc học George Condominas chính là nói về cách sinh sống này của người Mơ Nông Gar ở nam Đắc Lắc. Đây là phương thức canh tác “luân khoảnh” – cách gọi đúng hơn “luân canh”, luân canh có thể được hiểu là năm nay trồng loại cây này sang năm chuyển sang trồng loại cây khác. Kinh nghiệm được tổng kết ở nhiều nơi trên thế giới cho thấy nếu mật độ dân số không quá 10 người / km² thì làm rẫy không hề phá rừng. Làng Tây Nguyên định cư ở tâm điểm của vòng luân khoảnh ấy. Trong thực tế những thời gian cần phải làm việc nhiều ở rẫy những người lao động chính thường sống ở chòi rẫy, trong làng chỉ còn người già và trẻ em. Hết mùa rẫy làng lại đông vui, đây cũng là mùa “Ninh Nông” (mùa không làm rẫy), mùa lễ hội tưng bừng của Tây Nguyên.

Không hiểu đúng phương thức sinh sống và canh tác truyền thống của người Tây Nguyên, nhận định một cách cảm tính rằng người Tây Nguyên du canh, du cư, làm rẫy phá rừng… thì tất yếu không thể hiểu làng, cơ cấu, nền tảng vật chất, không gian sinh tồn, vai trò, vị trí của làng, tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên. Tức cũng không thể hiểu đúng xã hội này, lại vào lúc chúng ta đang muốn tạo ra những thay đổi to lớn nhất xưa nay chưa từng có trên vùng đất và người ở đây. Cuộc vận động định canh định cư, thực chất mang nhiều tính chất ép buộc, cũng đã góp phần phá vỡ các làng Tây Nguyên cổ truyền, làm xáo trộn xã hội.

* Hiểu rừng, cội nguồn của văn hoá và đời sống tâm linh ở Tây Nguyên

Đối với người Tây Nguyên, rừng không chỉ là tài nguyên, thậm chí cũng không chỉ là “môi trường”, “sinh thái” như cách hiểu thông thường của chúng ta về môi trường, sinh thái. Người Tây Nguyên có phong tục “bỏ mả”. Khi một người chết, người ta chôn trong một ngôi mộ tạm, con người ấy còn được coi như chưa đi hẳn khỏi thế giới này. Hàng ngày, người ta vẫn mang cơm nước và các vật dụng ra mộ để “nuôi” như nuôi một người còn sống. Trong thời gian đó, lâu ngắn tuỳ theo điều kiện của từng gia đình, người ta chuẩn bị một ngôi nhà mồ thật đẹp (trên chính ngôi mộ tạm), khi mọi việc đã xong thì làm lễ bỏ mả, một trong những lễ hội lớn và quan trọng nhất ở Tây Nguyên, diễn ra trong mùa Ninh Nông. Cả làng đều tham gia, nhiều làng lân cận cũng kéo đến, người ta làm lễ tiễn đưa người chết mãi mãi đi khỏi thế gian này. Sau lễ lớn đó, ngôi mộ sẽ bị bỏ hẳn, không ai chăm sóc, viếng thăm gì nữa. Con người ấy, theo quan niệm của người Tây Nguyên, vốn là một mẩu nhỏ của rừng vô tận và trường cữu, từ trong thăm thẳm không cùng của rừng mà đi ra, nay lại mãi mãi trở về với cội nguồn của mình là rừng, được trả về cho cội nguồn đó. Con người là một bộ phận nhỏ, và cũng có thể nói là tạm thời của thực thể to lớn và vĩnh cữu là rừng. Rừng mới là tất cả, là trường tồn, con người và cuộc sống trần thế của con người chỉ là một phần rất nhỏ, thoáng qua của thực thể bao trùm kia.

Người Tây Nguyên, tự trong sâu thẳm của họ, có một tình cảm thân thiết ruột thịt và một lòng kính trọng thiêng liêng đối với rừng, họ coi từng cây rừng đúng như một sinh vật sống chẳng hề thua kém con người, cũng có linh hồn ngang bằng con người, cũng đầy cảm xúc, vui mừng, hạnh phúc, đau đớn hệt con người. Khi buộc phải chặt hạ một cây gỗ cho nhu cầu thiết yếu của mình, bao giờ người Tây Nguyên cũng ân cần làm lễ xin lỗi cây, tạ ơn rừng. Người Tây Nguyên sống “theo đạo đức của rừng”, quan niệm con người cần phải hiền minh như rừng.

Như vậy ở Tây Nguyên, rừng là cội nguồn của đời sống tâm linh, tức phần sâu xa nhất trong con người và cộng đồng người, mất rừng thì con người và cộng đồng người mất đi cái nền rộng lớn, bền chặt, sâu thẳm nhất của mình, trở nên bơ vơ, “tha hoá”, mất gốc, mất cội nguồn.

Rừng cũng là cội nguồn của văn hoá, văn hoá Tây Nguyên là văn hoá rừng, toàn bộ đời sống văn hoá ở đây đều là biểu hiện mối quan hệ khắng khít, máu thịt của con người, cộng đồng người với rừng. Khi không còn rừng thì tất yếu văn hoá sẽ chết. Còn lại chỉ là những cái xác của văn hoá, văn hoá dỏm, giả…

Hiểu rừng một cách hời hợt, coi chỉ là tài nguyên, thậm chí là môi trường, sinh thái, tất không thể hiểu đúng nền tảng sâu xa, cơ bản nhất của xã hội này, và mọi việc làm của chúng ta ở đây chắc chắn không thể thành công, chỉ trợt đi trên bề mặt của thực tế, không ăn được vào đời sống.

* Sức chịu đựng cây công nghiệp của Tây Nguyên

Tây Nguyên là vùng đất bazan lớn nhất nước và đất bazan đặc biệt thích hợp với một số cây công nghiệp như cà phê, cao su… tạo ra sản phẩm có giá trị xuất khẩu đáng kể. Chủ trương biến Tây Nguyên thành một vùng trọng điểm kinh tế trong cả nước chính là dựa phần lớn vào ưu thế này. Tuy nhiên sức chịu đựng cây công ngiệp của Tây Nguyên dẫu lớn nhưng cũng có hạn, phát triển quá một mức nào đó thì sẽ phá rừng. Hạn mức đó đối với cà phê là 500.000 hecta, hiện nay đã bị vượt quá. Rừng Tây Nguyên là rừng nhiệt đới, nhiều tầng, thảm thực vật rất dày. Các nhà khoa học cho biết lá cây rừng nhiệt đới có tác dụng hấp thu năng lượng mặt trời gấp 30 lần rừng trồng. Cây cà phê, cả cây cao su, và đến cả rừng trồng đều không thể thay thế rừng nhiệt đới nguyên sinh.

Ở Tây Nguyên còn có vấn đề nước. Đất bazan không giữ nước. Đến mùa khô Tây Nguyên hầu như hoàn toàn không có nước. Những người trồng cà phê phải khoan sâu đến hàng trăm mét lấy nước ngầm tưới cà phê. Nguồn nước ngầm bị khai thác quá mức. Đến năm 1997, tầng nước ngầm ở Tây Nguyên đã tụt xuống 20 mét. Nếu tiếp tục tình trạng này, sẽ dẫn đến hiện tượng latérite hoá, tức đá ong hoá. Chúng ta sẽ để lại cho con cháu một cao nguyên đá ong !

C – Hệ quả

Những việc làm của chúng ta ở Tây Nguyên từ sau 1975 như đã trình bày trên đã đưa đến những hệ quả :

1- Dân số Tây Nguyên tăng nhanh, đột ngột, với cường độ lớn. Năm 1975, dân số Tây Nguyên khoảng dưới 1 triệu người, đến nay đã lên 5 triệu người, tăng gấp 5 lần, là vùng tăng dân số nhiều và nhanh nhất nước. Và ở đây là tăng cơ học, tức do đưa người nơi khác đến, chứ không phải tăng tự nhiên. Tăng tự nhiên với tỷ lệ sinh đẻ quá cao cũng gây ra nhiều khó khăn, như các dịch vụ xã hội thiết yếu (giáo dục, y tế, an sinh xã hội…) không theo kịp. Nhưng tăng cơ học thì đưa đến một tình hình nghiêm trọng hơn nhiều: nó làm đảo lộn cơ cấu dân cư, và từ đó tất yếu gây ra những đảo lộn về mọi mặt. Ngay từ sau năm 1975, đã có những cảnh báo của một số nhà khoa học và nhà văn hoá, cho rằng chủ trương đưa dân lên Tây Nguyên với tốc độ và cường độ quá cao là nguy hiểm, có thể là sai lầm chiến lược, nhưng lời cảnh báo đã không được nghe. Theo kinh nghiệm của thế giới, tăng dân số cơ học đến 3% / năm là mức báo động. Trong thực tế, suốt hơn 30 năm qua dân số Tây Nguyên đã tăng cơ học từ 7 đến 10% / năm.

Xét cơ cấu dân cư Tây Nguyên trong một thế kỷ qua, có thể thấy :

Đầu thế kỷ XX, các dân tộc bản địa chiếm 95% dân số.

Đến năm 1975, tỷ lệ này là 50%.

Hiện nay người bản địa chỉ còn 15-20% trên toàn địa bàn (Ở tỉnh Dắc Lắc, người bản địa còn 15%, tỉnh Đắc Nông còn 10%, tỉnh Kontum còn khoảng 50-55%… Người Tày ở Đắc Lắc đã đông hơn người Ê Đê bản địa). Người bản địa đã trở thành thiểu số, không phải trong cộng đồng Việt Nam nói chung, mà là thiểu số với tỷ lệ rất nhỏ, ngày càng nhỏ ngay chính trên quê hương ngàn đời của mình. Có thể nói, chính ở Tây Nguyên trong hơn 30 năm qua đã diễn ra những biến động xã hội lớn và sâu sắc nhất so với cả nước, nhưng những biến động đó lại rất âm thầm, hầu như không ai biết (cho đến ngày tình hình đột ngột mất ổn định).

2 – Sự tan vỡ của làng Tây Nguyên

Từ sau năm 1975, quyền sở hữu tập thể truyền thống của cộng đồng làng đối với đất và rừng nghiểm nhiên bị xoá bỏ, tất cả đất và rừng đều bị quốc hữu hoá. Như đã thấy ở trên, quyền sở hữu này chính là nền tảng vật chất, kinh tế của làng ; bị bứng mất đi nền tảng này, làng, tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên, tất yếu tan vỡ. Đây là sự đổ vỡ chưa từng có ở Tây Nguyên từ xưa đến nay, tác động đến tận gốc rễ của xã hội này. Càng đáng chú ý là làng, pháo đài bền vững của sức đề kháng xã hội ở Tây Nguyên trong suốt lịch sử lâu dài, nay lại bị phá vỡ đúng vào lúc Tây Nguyên, cũng như bất cứ vùng nào khác trong cả nước, đang phải đối mặt với những thách thức lớn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, của hội nhập, ở Tây Nguyên đương nhiên càng nặng nề, khó khăn hơn bất cứ nơi nào khác. Chúng ta đã vô tình triệt tiêu mất sức đề kháng cơ bản của Tây Nguyên bằng cách phá vỡ các “chốt” đề kháng vốn bất khả chiến thắng của nó đúng vào lúc nó phải đương đầu với biến động lớn nhất. Theo một cách nào đó có thể nói trạng thái xã hội ở Tây Nguyên vừa qua và hiện nay là trạng thái của một cơ thể bị tước mất sức đề kháng sâu tận trong từng tế bào, hết sức dễ bị tổn thương.

Tình hình đó tất yếu dẫn đến những hệ quả tiếp theo không thể tránh :

3 – Môi trường bị tàn phá nghiêm trọng

Như đã nói ở trên, sau năm 1975, đất rừng ở Tây Nguyên được lấy giao cho các binh đoàn quân đội làm kinh tế, sau đó cho các LHXNNLCN, rồi đến các nông trường, lâm trường. Cho đến năm 1997, 90% đất rừng Tây Nguyên nằm trong tay các tổ chức quốc doanh. Thực tế hơn 30 năm qua đã chứng minh tất cả các chủ sơ hữu đó đều không giữ được rừng, trái lại là tác nhân phá rừng dữ dội nhất. Mỗi loại chủ sở hữu đó có cách phá rừng khác nhau, và đều nghiêm trọng như nhau.

Một phần lớn diện tích rừng còn lại được lấy giao cho dân di cư từ đồng bằng lên, lúc đầu là di cư theo kế hoạch của nhà nước, từ năm 1979 trở đi là dân di cư tự do, gồm cả đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía bắc (kể từ sau chiến tranh biên giới năm 1979). Những người mới đến lập tức cần có ngay lương thực để sinh sống, họ liền phá rừng để làm lương thực; sau đó lại tiếp tục phá để khai thác gỗ đem bán. Những người này cũng có tập quán canh tác hoàn toàn khác người Tây Nguyên. Người Việt vốn rất sợ rừng (“rừng thiêng nước độc”, “ăn của rừng rưng rưng nước mắt”…). Khác với người Tây Nguyên vốn sống chìm trong rừng, tự hoà tan mình trong rừng, coi rừng thân thiết như mẹ, người Việt đến đâu thì liền thấy có nhu cầu phá rộng ra cho trống chung quanh. Người Việt không có văn hoá rừng, bao giờ cũng thấy chật chội, rất sợ chìm đắm trong rừng. Ngay những người thuộc các dân tộc thiểu số phía bắc đến cũng có tập quán canh tác khác hẳn. Người Hmông chẳng hạn (là một dân tộc đổ lên Tây Nguyên rất mạnh, rất quyết liệt) đúng là một dân tộc du cư du canh, đến đâu là họ cạo trọc ngay toàn bộ rừng nơi họ đổ ập vào, không gì ngăn cản được. Hết khu rừng này, họ tiến sang khu rừng khác, triệt phá sạch đến cùng. Cũng cần phân biệt “rẫy” với “nương”, làm rẫy và làm nương là hai phương thức canh tác hoàn toàn khác nhau. Làm rẫy, như đã nói, là cách quảng canh luân khoảnh trong điều kiên mật độ dân số không cao. Còn nương là rẫy đã được chuyển sang canh tác cố định và chăm sóc như vườn. Trên rẫy bao giờ người ta cũng giữ lại một số cây hay gốc cây lớn để chống xói mòn, còn trên nương thì phải dọn sạch, san phẳng hoàn toàn, làm cho đất tơi ra (do đó rất dễ bị xói mòn). Làm nương cũng là cạo sạch rừng, từ nay ở đấy tuyệt đối không còn có rừng nữa, rừng đã vĩnh viễn trở thành đất canh tác, chẳng khác gì ruộng. Trái lại bản chất của làm rẫy là giữ rừng, mượn tạm rừng của Mẹ Tự nhiên để xin lấy cái ăn, rồi trân trọng trả lại cho Tự nhiên. Jacques Dournes đã gọi làm rẫy là lối canh tác “sang trọng” (de luxe) trong điều kiện mật độ dân số không cao. Cũng có thể gọi là lối canh tác nhân ái, thân thiện.

Các dân tộc bản địa Tây Nguyên, với mật độ dân số trong vùng tăng lên quá cao như hiện nay, cũng không còn có thể làm rẫy luân khoảnh, vừa tìm lấy cái ăn từ rừng vừa nuôi rừng như xưa. Họ lại bị những người nơi khác đến, năng nổ và khôn ngoan hơn, chiếm lấy những vùng đất thuận lợi nhất, màu mỡ, bằng phẳng, gần sông, gần đường…, phải lùi vào rừng ngày càng sâu, và không còn đủ đất để luân khoảnh được nữa, bây giờ họ thật sự biến thành những người du canh du cư và phá rừng !…

Cho đến nay, trừ một vài vùng nhỏ như một ít khu vực quanh núi Ngok Linh, vùng Komplong…, có thể nói về cơ bản rừng Tây Nguyên đã bị phá sạch, hậu quả về nhiều mặt không thể lường.

4 -Người bản địa bị mất đất.

Tình hình trên tất yếu đưa đến việc người bản địa bị mất đất. Rất đáng chú ý là việc mất đất này diễn ra chính là sau khi thực hiện việc giao đất giao rừng, cấp sổ đỏ cho người dân. Lúc bấy giờ, một số cơ quan chức năng như Viện Dân tộc học và một số nhà khoa học đã có kiến nghị : ở Tây Nguyên không nên giao đất cho hộ như ở đồng bằng mà là giao cho làng, để làng quản lý theo kinh nghiệm truyền thống, và cấm không được chuyển nhượng đất cho “người khác tộc” (cũng tức là không được chuyển nhượng ra khỏi làng), nhưng kiến nghị này không hề được chú ý. Đất vẫn được giao cho các hộ với đầy đủ 5 quyền. Kết quả :

Vì người bản địa nay đã trở thành thiểu số với tỷ lệ rất thấp, nên trong thực tế đất đã được giao rất nhiều cho người nơi khác đến ;

Người Tây Nguyên, như đã nói, chưa phát triển ý thức về cá nhân, về sở hữu cá thể, nên cũng không có ý thức khư khư giữ đất cho cá nhân, cho hộ.

Đất lại được giao hệt như ở vùng Kinh, chỉ gồm phần đất thổ cư, một ít đất làm rẫy, người bây giờ lại đã quá đông, không còn đất để thực hiện luân khoảnh, nên chỉ sau vài ba mùa, rẫy bạc màu, người ta rất dễ dàng đem bán với giá rất rẻ, thậm chí có thể đem cho không chỉ sau một bữa rượu ! Nhân cơ hội này, một số cán bộ đã dùng quyền lực chiếm rất nhiều đất.

Cuối cùng, đất từ tay người dân tộc bản địa chuyển dần hết sang tay người nơi khác đến. Người bản địa mất đất, chỉ còn hai con đường : lùi vào núi sâu, ngày càng khốn đốn, hoặc ở lại tại chỗ và đi làm thuê cho người nơi khác đến, chủ yếu là người Kinh, ngay trên mảnh đất truyền lại từ tổ tiên của mình. Chẳng khác tình cảnh làm cu li thời sau Sabatier. Điều nghịch lý của Tây Nguyên là các chỉ số phát triển ở đây đều khá cao so với nhiều vùng khác nhưng người bản địa, chủ nhân lâu đời của vùng đất này, lại bị bần cùng hoá, bị đẩy vào thế cùng. Tức phát triển lãnh thổ nhưng không phát triển được chủ thể trên lãnh thổ ấy.

Việc mất đất, không phải trong một xã hội bình thường mà là từ tay người dân tộc bản địa sang tay người nơi khác đến là người Việt, đã khiến vấn đề đất đai trở thành vấn đề dân tộc. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp của sự mất ổn định nghiêm trọng đã và đang diễn ra ở Tây Nguyên.

(Kinh nghiệm lịch sử : Luật Hồng Đức thời Lê Thánh Tông, khôn ngoan hơn chúng ta, đã biết chú ý và có những quy định riêng sáng suốt cho vùng dân tộc thiểu số khác với những quy định chung cho cả nước. Chẳng hạn có điều luật cấm không được cho vay mượn giữa người Kinh và người Man Liêu (tức các dân tộc thiểu số), vì hiểu rằng quan niệm về giá trị, về quyền sở hữu giữa hai bên khác nhau, sự vay mượn giữa hai bên tất dễ sinh những bất đồng, lừa đảo, lạm dụng…)

5 -Văn hoá Tây Nguyên bị mai một.

Việc mất rừng, tan vỡ của làng, cơ cấu dân cư bị đảo lộn lớn và đột ngột, người bản địa bị mất đất và mất gốc rễ trở thành lang thang trên chính quê hương ngàn đời của mình… tất yếu đưa đến đổ vỡ về văn hoá. Khi nói đến văn hoá Tây Nguyên, người ta thường nói đến nhà rông, nhà dài, cồng chiêng, các loại nhạc cụ độc đáo, các lễ hội…, không sai, nhưng đó là những biểu hiển ra bên ngoài, trên bề mặt của văn hoá, nếu tách những cái đó ra khỏi làng và rừng, mất rừng và mất làng, thì tất cả chỉ còn là những cái xác của văn hoá, những cái xác không có hồn. Mà ai cũng biết, văn hoá là hồn chứ không phải xác. Nên chú ý khi công nhận di sản văn hoá thế giới ở Tây Nguyên, UNESCO đã rất tinh, không phải công nhận cồng chiêng, cũng không phải âm nhạc cồng chiêng, mà là “không gian văn hoá cồng chiêng”, không gian ấy tức là rừng và làng.

Hiện nay trong lĩnh vực văn hoá ở Tây Nguyên, có hai điều đáng lo :

Hầu như không còn văn hoá thật của Tây Nguyên, chỉ có văn hoá giả Tây Nguyên, khai thác chất lạ (exotique) của Tây Nguyên, tạo nên một thứ văn hoá diễn, thu hút khách du lịch hám lạ, trong khi đời sống văn hoá thật của con người Tây Nguyên thì nghèo nàn, cằn cỗi. Đi dọc Tây Nguyên bây giờ chỉ còn thấy các kiến trúc của người Việt cố pha chút “độc đáo” nào đó, như làm mái cao vút lên, nhô nhọn ra… để giả chất Tây Nguyên. Nhà rông thì do nhà nước xây cho các làng, mà nhà rông là thứ “không thể đem cho”. Ở Tây Nguyên, khi lập một làng mới, việc quan trọng và thiêng liêng nhất là già làng chọn địa điểm và điều khiển việc cất nhà rông. Nhà rông là trái tim, là linh hồn của làng, chưa có nhà rông thì một làng chưa thực sự thành làng, và nhà rông bao giờ cũng phải do dân làng tự tay mình làm nên. Một nhà rông của nhà nước đem cho thì dù đẹp đến mấy cũng không thể trở thành nhà rông của làng, dân làng sẽ không bao giờ sử dụng, không thèm bước chân vào, sẽ để mốc meo, tàn tạ. Thật ra điều này cũng chẳng có gì lạ, đối với người Việt cũng hoàn toàn đúng như thế. Một cái miếu ở làng quê chẳng hạn bao giờ cũng được lập nên bắt đầu từ một sự tích nào đấy, một người có công với làng với nước, nay chết đi, nhân dân nhớ ơn mà lập miếu thờ. Hoặc thậm chí một cô gái thất tình, chết oan uổng trong một hoàn cảnh éo le nào đấy, bỗng trở nên linh thiêng, người ta cất miếu thờ. Một cái miếu do nhà nước tự dưng cất lên giữa đồng, một cái miếu “quốc doanh” thì chắc chắn chẳng ai đến hương khói làm gì!..

Ở Tây Nguyên hiện nay chúng ta đang “chơi” những cái xác văn hoá như vậy !

Mặt khác, hiện đại hoá, toàn cầu hoá và hội nhập cũng tất yếu đưa những luồng văn hoá lạ xâm nhập vào Tây Nguyên. Một sự xâm nhập như vậy là tự nhiên, không thể tránh. Điều đáng nói là nó diễn ra đúng vào lúc nền tảng và tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên, do những sai lầm của chúng ta nhiều năm qua, bị phá vỡ, khiến sức đề kháng và khả năng thích nghi của nó bị triệt tiêu. Văn hoá bản địa bị lai căng. Quan sát lớp người trẻ trong các dân tộc bản địa, có thể thấy có hiện tượng “đứt gãy” về văn hoá rất đáng lo ngại. Những thanh niên người dân tộc khi đã bị hư hỏng thì lại hư hỏng nặng hơn, tha hoá, lưu manh hoá dữ hơn cả những người cùng lứa tuổi ở vùng Kinh. Họ bị đổ vỡ vì mất nền. Chính điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định xã hội. Đi vào các làng Tây Nguyên hiện nay, rất đau lòng thấy thanh niên hầu như không còn uống rượu cần làm bằng ngũ cốc lên men được chiết từ các loại lá, vỏ, rể cây trong rừng, đậm đà, mà say tuý luý rượu đế, thậm chí khi không đủ tiền mua rượu đế thì pha cả cồn ra để uống. Thanh niên Tây Nguyên, vốn có cơ thể cường tráng và tuyệt đẹp, nay đang bị suy thoái cả về thể chất, sự suy thoái nòi giống sẽ không còn xa.

6 – Cảnh báo sớm của một nhóm nghiên cứu về tình hình Tây Nguyên.

Năm 1997, một nhóm nghiên cứu thuộc Viện Dân tộc học Việt Nam gồm các tác giả Vũ Đình Lợi (nay đã mất), Bùi Minh Đạo và Vũ Thị Hồng đã hoàn thành một công trình có tên là Sở hữu và sử dụng đất đai ở Tây Nguyên, được giáo sư Đặng Nghiêm Vạn viết lời giới thiệu vào năm 1999, và ấn hành tại nhà xuất bản Khoa học Xã hội vào năm 2000. Sau khi đã trình bày các dữ liệu, phân tích toàn diện và tỉ mỉ tình hình đất và rừng ở Tây Nguyên từ sau năm 1975, các tác giả đã đưa ra lời cảnh báo mạnh mẽ như sau :

Sẽ là không quá sớm khi đưa ra lời cảnh báo rằng nếu không kịp thời có giải pháp khắc phục những khiếm khuyết của quá trình khai thác và sử dụng đất đai thì “vấn đề dân tộc” sẽ rất có thể phát sinh trong thực tế nay mai ở Tây Nguyên, chí ít là mất ổn định, nghiêm trọng là máu lại đổ, với sự can thiệp vừa kín đáo, vừa trắng trợn của kẽ thù dưới chiêu bài bảo vệ người dân tộc, bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Một khi vấn đề dân tộc và tôn giáo quyện vào nhau thì nguy cơ tới thật khó lường”.

Đây thật sự là một lời cảnh báo đầy trách nhiệm, trung thực, dũng cảm và đã được chứng tỏ là hoàn toàn chính xác. Rất tiếc là nó đã hoàn toàn bị bỏ ngoài tai, thậm chí cả sau khi những điều cảnh báo đã thành hiện thực !

Như vậy, sau hơn 30 năm triển khai, hai mục tiêu chiến lược được đề ra từ đầu đối với Tây Nguyên đã không thực hiện được. Tây Nguyên đã trở thành một vùng mất ổn định nhất trong cả nước ; và việc xây dựng một vùng trọng điểm phát triển kinh tế trên một cơ sở mất ổn định như vậy chắc chắn không thể bền vững. Lãnh thổ tuy có được phát triển – cũng là một cách méo mó – nhưng chủ nhân của lãnh thổ thì bị bần cùng hoá và bế tắc. Tìm một con đường khắc phục những thực trạng đó hiện nay ở Tây Nguyên đã trở nên rất khó khăn.

IV – Phát triển bền vững ở Tây Nguyên

A – Phát triển bền vững là yêu cầu sống còn đối với Tây Nguyên.

* Hơn ở bất cứ nơi nào khác, phát triển bền vững là yêu cầu sống còn đối với Tây Nguyên.

Không thể nhìn và xử trí đối với Tây Nguyên tách rời với tất cả các vùng xung quanh và với cả nước.

Tây Nguyên là mái nhà của toàn bộ nam Đông Dương, chi phối có tính quyết định về nhiều mặt đối với toàn bộ khu vực rộng lớn này, ảnh hưởng nặng nề và sâu sắc đến sự an toàn về khí hậu, môi trường, sinh thái… cho đến ổn định xã hội ở toàn vùng này.

Xây dựng Tây Nguyên thành một trong những vùng trọng điểm kinh tế là đúng, nhưng không thể phát triển kinh tế ở Tây Nguyên với bất cứ giá nào. Tây Nguyên có nhiều tiềm năng về cây công nghiệp, đặc biệt là cây cao su và cà phê, nhưng tiềm năng đó không phải là vô tận. Cho đến nay, Tây Nguyên đã bị khai thác quá mức. Ngay bây giờ, tác hại của việc mất gần hết rừng Tây Nguyên đã khá rõ rệt. Chắc chắn trong những thiên tai lũ lụt ngày càng lớn, càng dữ, càng dày ở vùng Nam Trung Bộ, Đông và Tây Nam Bộ có phần nguyên nhân quan trọng từ rừng Tây Nguyên bị tàn phá đến kinh hoàng. Một số dự án lớn đang tiếp tục đe dọa nghiêm trọng Tây Nguyên, như dự án khai thác bauxit ở các tỉnh Đắc Nông, Lâm Đồng, Kontum từ nay đến năm 2025, chắc chắn sẽ vĩnh viễn bóc sạch và san phẳng rừng ở nhiều vùng rộng lớn thuộc các tỉnh này; chúng ta sẽ chỉ còn một vùng đất nham nhở và khô cằn ngay trên đầu nguồn nhiều con sông quan trọng của Nam Trung Bộ và Nam Bộ, kể cả sông Sài Gòn. Về lâu dài, nguy cơ Tây Nguyên bị đá ong hoá, sa mạc hoá là viễn cảnh thực tế, hầu như không thể tránh nếu cứ tiếp tục đà này, và sẽ là tai họa khó lường cho cả vùng nam Đông Dương rộng lớn.

Thật sự có một câu hỏi lớn cần trả lời : ở Tây Nguyên giữa phát triển và bảo tồn, bên nào nên trọng bên nào nên khinh ? Nếu phát triển ở Tây Nguyên mà không coi trọng bảo tồn, thậm chí lấy bảo tồn làm chính, thì sẽ không xa lắm khi đến một lúc không còn gì để phát triển nữa. Tiềm năng về nhiều mặt của Tây Nguyên là lớn, nhưng tiềm năng ấy không vô tận. Lại cũng không thể tính toán các kế họach phát triển ở Tây Nguyên tách rời các mối quan hệ hữu cơ có tính quyết định của Tây Nguyên đối với các vùng chung quanh. Một ví dụ rất cụ thể : cách đây 30 năm trong chương trình hợp tác với khối SEV, đã có kế hoạch khai thác quặng bauxit có trữ lượng khá lớn và chế biến nhôm ở Tây Nguyên, nhưng sau một thời gian khảo sát chính các chuyên gia Liên Xô, Hungari, Ba Lan… đã khuyên cáo không nên làm nữa, vì sẽ gây tàn phá lớn đối với môi trường ở Tây Nguyên và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường ở Nam Trung Bộ. Đến nay dự án khai thác bauxit mấy chục năm trước lại đang được vực dậy. Với kế hoạch to lớn này, chắc chắn chúng ta sẽ hoàn thành việc phá tan môi trường Tây Nguyên và hủy hoại cả môi trường không chỉ Nam Trung Bộ mà cả một khu vực không nhỏ ở Nam Bộ. Kế hoạch gọi là hoàn thổ, trồng lại rừng trên vùng rừng đã bị phá sạch và bóc lên để khai thác quặng bauxit… của các nhà đầu tư chỉ là một thứ lý thuyết suông, nói cho qua chuyện, cho được việc, nhắm mắt lại mà làm, hết sức vô trách nhiệm, và chắc chắn sẽ để lại hậu quả đến mức thảm họa cho tận mai sau.

Giữ gìn môi trường Tây Nguyên là vì chính lợi ích của phát triển không chỉ của Tây Nguyên hôm nay, và mai sau.

* Tây Nguyên là vùng đặc biệt nhạy cảm về mặt dân tộc. Như đã thấy ở trên, những điều kiện đặc thù của Tây Nguyên về địa lý, lịch sử đã khiến Tây Nguyên có nhiều điểm khác với các vùng dân tộc khác trong cả nước. Những nghiên cứu về các đặc điểm này cho đến nay không ít, nhưng quả thật đã không hề được quan tâm trong khi hoạch định các chủ trương, chính sách từ lớn đến nhỏ đối với Tây Nguyên. Chúng ta thật sự đã hành động ở Tây Nguyên giống hệt như ở bất cứ vùng nào khác trong cả nước, chẳng hề khác chút nào với ở các vùng người Việt, và điều đó đã để lại những hậu quả nặng nề. Đến nay cách hành xử này cũng chưa có thay đổi gì đáng kể. Trong nhiều dự án lớn đang và dự tính triển khai ở Tây Nguyên, như dự án gọi là “Thiên đường cà phê”, dự án khai thác bauxit…, rất đáng kinh ngạc là hầu như không hề thấy tính đến mặt xã hội, không hề chú ý đến việc Tây Nguyên là một vùng dân tộc rất đặc thù, đặc biệt không hề quan tâm đến những chủ nhân lâu đời là các dân tộc bản địa Tây Nguyên, truyền thống lịch sử và văn hoá của họ, lợi ích của họ, việc họ chấp nhận các dự án đó như thế nào, chúng sẽ ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đến họ ra sao. Không hề thấy có dự án nào đưa người dân tộc bản địa tham gia như một chủ thể quan trọng của dự án. Họ hầu như hoàn toàn bị gạt ra ngoài, may lắm cũng chỉ có thể trở thành những người làm thuê khốn khổ cho những chủ nhân mới. Chắc chắn những dự án như vậy khó lòng thành công, nếu không nói rất có thể đến một lúc nào đó chúng sẽ bị chính những chủ nhân lâu đời của vùng đất này phản ứng, chống lại và huỷ hoại.

Như vậy không chỉ môi trường tự nhiên mà cả môi trường xã hội, cụ thể là vấn đề dân tộc, là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên.

* Về lâu dài hơn, cũng không thể không tính đến sự biến đổi khí hậu toàn cầu đến nay không còn là dự báo mà đã là một thực tế, với mực nước biển dâng cao và Việt Nam sẽ là một trong những nước bị ảnh hưởng nặng nhất, sẽ mất nhiều vùng đồng bằng quan trọng. Trong điều kiện đó, Tây Nguyên sẽ là vùng đất dự trữ cho cả nước. Đây cũng là một tham số quan trọng trong các bài toán lớn nhỏ về Tây Nguyên hiện nay và sắp đến.

B – Đất, Rừng và vấn đề dân tộc ở Tây Nguyên.

Như đã thấy, vấn đề dân tộc ở Tây Nguyên liên quan chặt chẽ với vấn đề đất đai (ở đây tức là rừng), và làng, quyền sở hữu tập thể của cộng đồng làng đối với đất và rừng. Làng bị vỡ do mất đi nền tảng là quyền sở hữu ấy, tất xã hội sẽ rối loạn. Vấn đề đất và rừng, và trên nền tảng đó sự tan rã của làng, đã trở thành vấn đề dân tộc, và trên một vùng đất có nhiều đặc trưng về nhiều mặt như thế này, nếu vấn đề dân tộc không yên thì không thể có ổn định xã hội. Mầm mống mất ổn định nhất định sẽ âm ỉ lâu dài, và có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Vì vậy, muốn khôi phục ổn định ở đây, nhất thiết phải tìm mọi cách trả lại đất và rừng cho làng, khôi phục lại làng. Xã hội chỉ có thể ổn định khi tế bào cơ bản của nó là làng ổn định. Tình hình hiện nay đã trở nên hết sức phức tạp do sự xáo trộn tự chúng ta gây ra suốt hơn 30 năm qua.

Có một hiện tượng có thể rất đáng chú ý, nhưng lại không được các cơ quan làm chính sách, kể cả Ban Chỉ đạo Tây Nguyên hiện nay quan tâm : Kontum hiện là tỉnh có tỷ lệ phát triển đạo Tin lành vào loại cao nhất trên Tây Nguyên, nhưng lại là tỉnh có tình hình xã hội tương đối ổn định, trong mấy cuộc bạo loạn vừa qua không có vấn đề gì lớn. Vì sao ? Rất có thể chính vì ở Kontum người dân tộc bản địa còn đến trên 50 % trong dân số, việc người dân tộc bản địa mất đất vào tay người nơi khác đến không nghiêm trọng bằng các nơi khác, mâu thuẫn dân tộc chưa quá nặng nề. Rừng ở đây cũng vào loại còn khá nhất, một số khu rừng nguyên sinh rộng lớn còn được giữ khá tốt. Làng chưa bị tan rã hoàn toàn. Phải chăng đây là một bài học thực tế rất đáng để suy nghĩ.

Vậy nên bằng mọi cách trả lại rừng cho làng, để khôi phục lại làng, trước mắt và lâu dài, là con đường duy nhất để dần đi đến ổn định tình hình và phát triển ở đây. Có thể có những câu hỏi :

Làng có còn để được trả lại đất và rừng không ? Lấy đất, rừng ở đâu để trả lại cho làng ? Và bằng cách nào ? Tây Nguyên đương nhiên cũng không thể đứng ngoài sự phát triển chung trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của cả nước, vậy trong quá trình đó làng sẽ biến đổi như thế nào, xã hội này sẽ biến đổi như thế nào ?

Quả thực đây là những câu hỏi rất khó, vừa do những sai lầm kéo dài của chúng ta, vừa do sự thúc đẩy của phát triển tất yếu ngày nay. Giải quyết tình hình Tây Nguyên hiện nay, theo chúng tôi, cần một sự nghiên cứu vừa cơ bản vừa cấp bách, một quyết tâm và tận tuỵ rất lớn, thậm chí còn khó hơn cả những thời kỳ khó khăn, ác liệt nhất trong chiến tranh trước đây. Không thể có một giải pháp chung, đơn giản, tức thì. Tuy nhiên có thể có một số điểm chung và cơ bản cần khẳng định :

Một là, bất chấp tất cả, làng vẫn còn, thực thể làng vẫn còn. Ở những vùng như miền núi các tỉnh Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, hoặc một số vùng ở Kontum, do địa hình tương đối hiểm trở, người Kinh đổ lên trong những năm qua không quá nhiều, làng của người dân tộc bản địa còn khá nguyên vẹn. Ở những vùng khác, dầu cơ cấu của làng đã trở nên phức tạp hơn nhiều, trộn lẫn người nhiều dân tộc khác nhau trong một làng, nhưng thực thể làng bản địa tuy âm thầm mà vẫn còn, bằng chứng chính là dấu hiệu bộc lộ trong một số cuộc biểu tình vừa qua : người ta đi biểu tình từng làng (người bản địa) chứ không bao giờ đi xé lẻ. Tức thực thể cộng đồng làng vẫn sống một cách thật mạnh mẽ, tuy buộc phải âm thầm. Vậy vẫn còn làng để cho chúng ta trả lại đất và rừng, khôi phục lại tế bào cơ bản này của xã hội.

Ở Tây Nguyên hiện nay đất đai đã vào tay người Kinh rất nhiều, không thể động đến phần đất này, sẽ có thể gây ra rối loạn khác. Tuy nhiên đến nay vẫn còn 40% đất và rừng trong tay các nông trường, lâm trường quốc doanh, những nông, lâm trường này phần lớn làm ăn không hiệu quả, liên tục thua lỗ, cũng không giữ được rừng. Vậy tức là còn đất và rừng có thể lấy lại để trả cho các làng.

Trả cụ thể như thế nào, đương nhiên không thể có một cách thức chung, phải dựa vào dân trong từng trường hợp cụ thể mà giải quyết. Kinh nghiệm ở miền núi Quảng Nam cho thấy khi người dân đã biết và tin ở chủ trương trả lại đất và rừng cho làng thì họ sẽ chủ động nghĩ ra và bày cho ta giải pháp thích hợp nhất trong từng trường hợp cụ thể, kể cả cách thức quản lý rừng và làng sau khi rừng được trả. Vấn đề cốt yếu ở đây là thật sự trao lại quyền tự chủ cho người bản địa, không ai có thể hiểu tình hình cụ thể và biết cách gỡ rối cụ thể hơn họ.

Về việc trả rừng cho làng có hai điều cần chú ý :

Lâu nay vẫn có việc gọi là “giao rừng cho dân”, dân được giao giữ rừng, 1 hecta rừng mỗi năm trước đây được trả 50.000 đồng, nay là 100.000 đồng, nhưng đấy là nhà nước thuê dân giữ rừng cho nhà nước, chứ không thật sự là trả quyền làm chủ rừng cho dân, chính do đó mà rừng vẫn mất. Người ta chỉ giữ đến cùng cái gì thật sự là của người ta. Trả rừng phải là trả quyền sở hữu thật sự và toàn vẹn của tập thể cộng cồng làng đối với đất và rừng.

Thứ hai : không gian sinh tồn của làng ở Tây Nguyên, như đã nói, gồm ít nhất cả bốn loại rừng : rừng đã biến thành đất thổ cư, rừng làm rẫy, rừng sinh hoạt và rừng thiêng, không có đủ bốn loại rừng ấy thì làng không thể tồn tại như một đơn vị xã hội hoàn chỉnh. Giao cho làng Tây Nguyên chỉ một miếng đất để ở và một khoảnh đất để làm một cái rẫy thì chẳng nghĩa lý gì cả, làng sẽ cằn cỗi và chết.

Ở Quảng Nam trong một số năm qua đã thí điểm trả rừng cho làng. Rừng được trả triệt để, gồm đủ các loại rừng theo truyền thống, và trở thành tài sản thực sự của làng : kiểm lâm chỉ quản lý rừng về mặt sinh thái, quyết định cây nào đến đúng tuổi nào mới được chặt, nhưng chặt hay không, chặt cây nào là quyền của làng. Nhà nước muốn lấy một cây trong rừng thì phải hỏi mua của làng và được làng đồng ý, thuận mua vừa bán. Làng được quản lý theo một hương ước được thoả thuận giữa chính quyền, tổ chức Đảng và Hội đồng Già làng. Kết quả đầu tiên sau hai năm thí điểm : làng đã giữ được rừng nguyên vẹn, tuyệt đối không mất một cây gỗ nào, điều tất cả các chủ sở hữu trước đây (quân đội, nông trường, lâm trường, kiểm lâm…) đều bất lực. Vấn đề tiếp theo hiện nay là phải xác định được quy chế hưởng lợi của người dân làng đối với rừng đã được giao trả ; và dân làng sẽ làm ăn khá giả lên như thế nào trên tài sản rừng nay đã thuộc về mình. Xa hơn nữa là vấn đề Tây Nguyên, cơ cấu xã hội của nó, làng Tây Nguyên, đất và rừng Tây Nguyên, con người Tây Nguyên… sẽ chuyển động như thế nào trong chuyển động chung của cả nước trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay ? Tất nhiên đấy còn là những bài toán rất khó, song có một nguyên tắc : chính chủ thể con người Tây Nguyên sẽ tự mình tìm ra lời giải cho những bài toán ấy trong thực tế, chứ không phải những tổ chức áp đặt từ bên ngoài vào có thể “sáng suốt” nghĩ thay, làm thay.

Vấn đề dân tộc ở Tây Nguyên, cũng như ở nhiều dân tộc khác trong cả nước trước nay, theo một cách nào đó chính là vấn đề thực sự tôn trọng các dân tộc bản địa, chống lại tư tưởng dân tộc lớn dưới mọi hình thức từ thô lỗ đến tinh vi, thực sự tin và kiên quyết trao quyền tự chủ cho người bản địa, trao quyền làm chủ, tôn trọng và tin tưởng ở sức sống và sức tự chủ, sức tự phát triển của xã hội và con người ở đây. Được trả lại quyền tự chủ thật sự – cụ thể là quyền sở hữu đất đai theo truyền thống – xã hội Tây Nguyên sẽ tự minh tìm được con đường, dẫu còn rất khó nhọc, cùng cả nước đi lên trong công cuộc phát triển chung. Mọi toan tính kiểu khác đều tất yếu thất bại, như thực tế mấy chục năm qua đã chứng minh.

C – Một tầng lớp trí thức mới cho Tây Nguyên.

Như đã thấy ở trên, trong suốt lịch sử lâu dài, xã hội Tây Nguyên đã được quản lý, điều hành hiệu quả, tồn tại và phát triển bền vững trải qua bao nhiêu thách thức lớn nhỏ bằng một cơ chế truyền thống độc đáo, xem ra là “thông minh” nhất trong điều kiện đặc trưng về nhiều mặt của vùng đất và người này. Trong cơ chế quản lý và điều hành đó nổi bật lên vai trò của già làng. Một trong những sai lầm quan trọng và tai hại nhất của ta trong thời gian qua là chúng ta đã không nghiên cứu, thấu hiểu, tôn trọng, tận dụng, đề cao lực lượng có ý nghĩa quyết định này, thậm chí còn muốn xoá bỏ, không công nhận, hạn chế uy tín và vai trò của họ… Gần đây, sau một số biến động, giật mình nhìn lại, mới có một số hoạt động nhằm tỏ ra tôn trọng, đề cao các già làng : mời ra trung ương gặp các vị lãnh đạo này nọ v.v… Những việc ấy cũng là cần, và cũng có tác dụng nhất định. Nhưng có chỗ cần suy nghĩ : những già làng này hiện nay còn thật sự có vai trò, vị trí dẫn dắt cộng đồng như trước đây không ? Nhất là trong tình hình hiện nay và trong phát triển tất yếu của Tây Nguyên sắp tới ? Vậy nên cần nghiên cứu kỹ già làng ở Tây Nguyên thực chất là ai ? Vì sao họ có thể có vai trò lớn như đã thấy ?

Như đã nói ở phần trên, già làng chính là những người có tri thức toàn diện nhất, uyên bác nhất, tích tụ được nhiều kinh nghiệm nhất trong đời sống giữa một thiên nhiên vừa bao dung vừa khắc nghiệt, giữa một xã hội vừa hài hòa vừa gay gắt là xã hội Tây Nguyên trải qua các chuyển biến lịch sử, lại là những người có đức độ cao, là những bậc hiền triết của làng. Người Pháp dịch “Hội đồng già làng” là “Conseil des sages”, Hội đồng của các bậc hiền nhân. Cũng cần chú ý, gọi là già làng nhưng già làng không nhất thiết là người cao tuổi nhất trong làng. Ông Núp ở làng S’tơr, ông Mết ở làng Xóp Dùi, rất nổi tiếng, nhưng khi làm già làng cũng chỉ khoảng 30 tuổi. Tuổi tác không phải là tiêu chuẩn chính. Theo ngôn ngữ ngày nay, có thể gọi đó là những bậc trí thức của làng. Xã hội Tây Nguyên trong suốt lịch sử lâu dài đã được quản lý, điều hành hết sức hiệu quả bởi một tầng lớp trí thức độc đáo như vậy. Lớp “trí thức” đó, trong biến chuyển và đi tới của xã hội Tây Nguyên hôm nay vẫn còn có uy tín và sức tập họp nhất định, nhưng không còn đủ sức ứng phó với những thách thức mới. Vậy phải chăng có vấn đề : cần thiết đào tạo một tầng lớp trí thức mới để dắt dẫn xã hội này trong công cuộc phát triển mới hiện nay và tương lai ?

Có thể đào tạo được một tầng lớp trí thức bản địa như thế không ? Có hiện tượng nhiều nhà giáo ở Tây Nguyên, qua kinh nghiệm thực tế của họ, cho rằng học sinh người dân tộc bản địa chỉ có thể học khá đến khoảng cấp 2, lên đến cấp 3 thì đuối. Có đúng thế không ? Chúng tôi không cho là như vậy, vấn đề có thể là ở sự cứng nhắc, giáo điều trong chương trình và cách dạy của chúng ta, không khai thác và phát huy đúng cách những thế mạnh của học sinh dân tộc bản địa. Vừa qua có một ví dụ cụ thể rất sinh động và thuyết phục : Cách đây vài năm, Viện Văn hoá Dân gian (nay là Viện Văn hoá) thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã mở một lớp thạc sĩ về văn hoá và dân tộc học cho 12 sinh viên cao học toàn người dân tộc bản địa Tây Nguyên, Ba Na, Ê Đê, Xơ Đăng, Mơ Nông, Hơ Re, Kơ Ho, Mạ v.v. Kết quả thật tuyệt: cả 12 người đều đạt xuất sắc, có người như chị Phạm Thị Trung, người Xteng, một nhánh nhỏ của dân tộc Xơ Đăng đã trình một luận văn tuyệt vời thậm chí rất hiếm được thấy ở một sinh viên cao học người Kinh. Trong quá trình học và làm luận văn, các sinh viên này đã phải tiếp xúc với các tác phẩm kinh điển của các nhà nhân học, dân tộc học hàng đầu thế giới, những C. Lévy-Strauss, E. Durkheim, A. van Ghenep, R. Tylor. G. Condominas, J. Dournes…, qua bản dịch và qua cả nguyên bản, họ đã tỏ rõ khả năng nắm vững các trí thức bác học cao nhất từng có, lại liên hệ vận dụng rất nhuần nhuyễn và sáng tạo vào thực tiễn xã hội của dân tộc mình, cả trong quá khứ và trong thách thức hiện tại, mà chắc chắn không ai hiểu sâu sắc được bằng họ… Rõ ràng có thể đào tạo một tầng lớp trí thức mới như vậy cho Tây Nguyên, nếu chúng ta có nhận thức đúng, có sự tận tụy, quyết tâm và kiên trì. Vai trò của cán bộ người Kinh, ở bất cứ cấp nào tại Tây Nguyên hiện nay không phải là làm thay, cũng không phải “cầm tay chỉ việc” như thường được nghe nói, mà là giúp tổ chức công việc đào tạo đó, cấp bách trước mắt, và lâu dài, một công việc có tính cách cơ bản và chiến lược. Phải tạo ra cho được một tầng lớp “già làng” kiểu mới của Tây Nguyên, và không cách nào khác, thực sự trao quyền giải đáp những bài toán lớn nhỏ của sự phát triển Tây Nguyên hiện nay vào tay họ. Đó là con đường duy nhất.

D – Tổ chức nghiên cứu Tây Nguyên.

Tất cả tình hình vừa qua chứng tỏ một vùng dân tộc đặc biệt như Tây Nguyên đòi hỏi một sự nghiên cứu có tính khoa học rất nghiêm túc, chặt chẽ, lâu dài, vừa cơ bản vừa cập nhật, để làm cơ sở cho mọi chủ trương, chính sách và việc làm lớn nhỏ của chúng ta ở đây. Quả thật chúng ta chưa triển khai được một công tác nghiên cứu như vậy, và một số công trình nghiên cứu của một số nhóm hoặc cá nhân các nhà nghiên cứu đã có, với những cố gắng đáng trân trọng, thì lại bị bỏ qua, hầu như hoàn toàn không được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và có trách trách nhiệm quan tâm, vận dụng. Có thể nói một cách không quá đáng, suốt hơn 30 năm qua – cũng chính là thời gian chúng ta triển khai những chủ trương chiến lược lớn trên vùng đất này – mọi việc làm của chúng ta đều khá tuỳ tiện, vội vã, dựa trên những cảm nhận bên ngoài hời hợt, chủ quan, kể cả khi tình hình đã trở nên rất bất ổn thì những ứng phó cũng là chắp vá, áp đặt, không thật sự tính đến những hệ quả lâu dài, không chịu quay lại tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa, không thèm nghe ý kiến tâm huyết của các chuyên gia. Những ứng phó như vậy có khi còn làm cho tình hình dẫu có thể tạm ổn trước mắt, trên bề mặt, nhưng về lâu dài, trong chiều sâu, lại càng xấu hơn, nặng nề, nguy hiểm hơn. Một số chủ trương mới rất lớn (chẳng hạn việc tận khai bauxit ở Đắc Nông và nhiều vùng khác tại Tây Nguyên) có thể mang tính chất phiêu lưu lớn, hậu quả về nhiều mặt thật khó lường…

Công tác tổ chức nghiên cứu cơ bản về Tây Nguyên do vậy là cấp bách.

Hiện nay và về lâu dài cần :

Thứ nhất : Tập họp các nghiên cứu của các nhà khoa học, các tổ chức trong nước đã có từ trước đến nay, trong đó rất cần chú ý đến một số nghiên cứu có giá trị và khá nghiêm túc của các tác giả miền Nam trong các thời kỳ (như các nghiên cứu của Toan Ánh, Nghiêm Thẫm…).

Thứ hai : Tổ chức dịch các công trình nghiên cứu của người Pháp về Tây Nguyên. Cho đến nay, những nghiên cứu tốt nhất, cơ bản, tương đối toàn diện, đồng thời chuyên biệt, chi tiết, sâu sắc nhất về Tây Nguyên là của các tác giả Pháp, bao gồm từ các nhà thám hiểm đầu tiên, đến các nhà truyền giáo, các nhà cai trị và các nhà khoa học. Các công trình này hoặc đã được in thành sách, hoặc còn nằm rải rác trong các tạp chí khoa học (như tạp chí BEFEO của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp – đã được đưa lên mạng, tạp chí BAVH của Tổ chức Những người bạn của cố đô Huế…). Cần có một tổ chức chuyên tập họp và chăm lo việc biên dịch thành một tủ sách chuyên đề về Tây Nguyên, có thể đặt chẳng hạn tại một Trung tâm nghiên cứu ở một trường Đại học thuộc khu vực Miền Trung hay Tây Nguyên (có thể nên là ở Miền Trung vì nghiên cứu Tây Nguyên không thể tách khỏi nghiên cứu liên quan đến vùng duyên hải).

Người Mỹ chưa triển khai nghiên cứu được bao nhiêu về Tây Nguyên, ngoài vài tác phẩm của Hickey, chủ yếu tập họp, cô động các công trình đã có của Pháp, có bổ sung thêm một số dữ liệu mới thời chiến tranh sau này. Cũng nên tổ chức dịch để tham khảo.

Thứ ba : Cần có một tổ chức nghiên cứu toàn diện và cơ bản song song với nghiên cứu những vấn đề cụ thể, cấp thời về Tây Nguyên, có thể thành một Viện Nghiên cứu Tây Nguyên thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Viện này sẽ là trung tâm nối liền các tổ chức nghiên cứu đã nói ở điều thứ nhất và thứ hai.

Thứ tư : Cần có ngay một bộ phận tư vấn khoa học bên cạnh Ban Chỉ đạo Tây Nguyên hiện nay, gồm các chuyên gia về Tây Nguyên, đặc biệt các chuyên gia là người dân tộc bản địa, không phải là không có và lâu nay chưa hề được dùng.

***

Vấn đề Tây Nguyên về nhiều phương diện là một vấn đề lớn lại có những đặc trưng riêng trong sự phát triển chung của cả nước. Vấn đề này vốn đã không hề đơn giản, nay đã càng trở nên hết sức phức tạp, khó khăn, có thể còn khó khăn lâu dài, với những diễn biến cũng có thể còn chưa lường được hết và còn bất ngờ. Song vấn đề cũng có thể trở nên đơn giản hơn, vẫn có thể có lối ra, nếu ta dám thật sự nhìn lại tình hình một cách khách quan, nhận ra sai lầm lớn lẽ ra hoàn toàn có thể không mắc phải nếu biết tôn trọng thực tế và biết lắng nghe, từ đó nghiêm túc xác định lại quan điểm đúng, để có cách nhìn và cách hành xử thích hợp, đặc biệt biết thật sự tôn trọng các dân tộc bản địa Tây Nguyên, một bộ phận tuy có đến chậm hơn nhưng từng gắn bó rất sâu sắc, có đóng góp hết sức to lớn trong tiến trình lịch sử gian nan mấy thế kỷ qua của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ở Tây Nguyên nếu không thật sự đặt quyền lợi của các dân tộc bản địa lên trên hết, là mục tiêu hàng đầu của mọi kế hoạch phát triển, thì chắc chắn không việc gị có thể thành công, sẽ thất bại tất yếu, thậm chí có thể đi đến thảm họa.

Nhà Tây Nguyên học xuất sắc Jacques Dournes có một câu bất hủ khi nói về Tây Nguyên, ông viết : “Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu”. Đối với Tây Nguyên, cần một sự hiểu biết và một tình yêu đầy sự tôn trọng thật sự, một sự tôn kính chân thành và đấy ưu tư đối với một vùng đất và một vùng văn hoá vào loại độc đáo nhất còn lại trên đất nước ta và trên thế giới ngày nay.

Cần có một tình yêu đầy tôn trọng như vậy, để ra sức tìm hiểu sâu sắc vùng đất và người hết sức quan trọng và vô cùng đặc sắc này, từ đó mà có chủ trương và hành động đúng, mới mong có thể thoát ra khỏi bế tắc hiện tại, đưa Tây Nguyên vững chắc vào tiến trình phát triển chung của đất nước, vì Tây Nguyên, và vì cả nước.

Nguyên Ngọc

xem tiếp Đến với Tây Nguyên mới

Video yêu thích
Ta đã thấy gì trong đêm nay‘, nhạc và lời Trịnh Công Sơn, giọng ca Hoàng Trang.
Những bài hát hay nhất của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (25 bài)
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn Kim on Facebook, Kim on Twitter