Tỉnh thức cùng tháng năm

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/tinh-thuc-cung-thang-nam/

CNM365 Tình yêu cuộc sống https://hoangkimlong.wordpress.com; #hoangkimlong, #cltvn; #hoanggia; #Thungdung, #dayvahoc, #vietnamhoc; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Đêm Yên Tử; Văn chương ngọc cho đời; Ai bảo chăn trâu là khổ? Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Ban mai chào ngày mới; Tỉnh thức cùng tháng năm; Sự chậm rãi minh triết; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Câu chuyện ảnh tháng 12; Có một ngày như thế; Mười thói quen mỗi ngày; Giấc mơ lành yêu thương; 500 năm nông nghiệp Brazil; Ngọc Phương Nam ngày mới; Vui bước tới thảnh thơi; Minh triết sống phúc hậu; Sự chậm rãi minh triết;Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Đi bộ trong đêm thiêng; Ngày 17 tháng 12 năm 1819 là ngày Simón Bolívar tuyên bố nền độc lập của Đại Colombia tại Angostura thuộc Venezuela ngày nay. Simón Bolívar (1783 – 1830) là nhà cách mạng nổi tiếng người Venezuela, người lãnh đạo các phong trào giành độc lập ở Nam Mỹ đầu thế kỷ 19. Ông được tôn vinh là George Washington của Nam Mỹ, Người Giải phóng, đại anh hùng dân tộc. Những cuộc chiến đấu do ông lãnh đạo đã lật đổ sự thống trị của Tây Ban Nha, giành độc lập cho sáu quốc gia ngày nay là: Venezuela, Colombia, Panama, Ecuador, Peru, và Bolivia. Ngày 17 tháng 12 năm 1770 là ngày sinh của nhà soạn nhạc cổ điển thiên tài người Đức Ludwig van Beethoven (mất năm 1827). Ông sống chủ yếu ở Viên, Áo và là biểu tượng âm nhạc quan trọng của thời kỳ âm nhạc cổ điển chuyển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ông được coi là người mở đường của thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Beethoven được khắp thế giới công nhận là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất, nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhiều nhất tới những nhà soạn nhạc, nhạc sỹ, và khán giả về sau. Ngày 17 tháng 12 năm 1927 là ngày sinh của giáo sư Hoàng Tụy (mất ngày 14 tháng 7 năm 2019 tại Hà Nội), nhà toán học tiêu biểu hàng đầu của Việt Nam. Giáo sư Hoàng Tụy cùng với Giáo sư Lê Văn Thiêm là người tiên phong trong việc xây dựng ngành Toán học Việt Nam và được coi là cha đẻ của lĩnh vực Tối ưu hóa toàn cục (Global Optimization) trong Toán học Ứng dụng; Bài chọn lọc ngày 17 tháng 12: #hoangkimlong, #hoanggia; #Thungdung, #dayvahoc, #cltvn; #vietnamhoc; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Đêm Yên Tử; Văn chương ngọc cho đời; Ai bảo chăn trâu là khổ? Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Ban mai chào ngày mới; Tỉnh thức cùng tháng năm; Sự chậm rãi minh triết; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Câu chuyện ảnh tháng 12; Có một ngày như thế;; Mười thói quen mỗi ngày; Giấc mơ lành yêu thương; 500 năm nông nghiệp Brazil; Ngọc Phương Nam ngày mới; Vui bước tới thảnh thơi; Minh triết sống phúc hậu; Sự chậm rãi minh triết; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Đi bộ trong đêm thiêng; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-12; 
https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-17-thang-12;

LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
Hoàng Kim

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấu hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
 
“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)
  

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (2)  

Non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông ….  

1) Thơ Nguyễn Trãi
2) Bản dịch thơ Nguyễn Trãi của Hoàng Kim  

ĐI BỘ TRONG ĐÊM LÊN YÊN TỬ
Hoàng Kim  

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấu hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/tinh-thuc-cung-thang-nam/

TRÚC LÂM TRẦN NHÂN TÔNG
Hoàng Kim

Trần Nhân Tông (1258-1308)  là một trong những vị vua anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Người tên thật là Trần Khâm, vua Trần thứ ba (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Với 50 năm cuộc đời, vua Phật Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306) là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với kiệt tác thơ Thiền Trần Nhân Tông và thắng tích Trúc Lâm Yên Tử; 4) Người thầy chiến lược vĩ đại muôn đời của kế sách một chữ “đồng” “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, nhược thắng cường, yếu thắng mạnh, nước nhỏ thắng nước lớn, sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

Kiệt tác thơ thiền đức Nhân Tông là đỉnh cao thơ Thiền thời Trần:

Cư trần lạc đạo phú
Đại Lãm Thần Quang tự
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
Đăng Bảo Đài sơn
Đề Cổ Châu hương thôn tự
Đề Phổ Minh tự thủy tạ
Động Thiên hồ thượng
Họa Kiều Nguyên Lãng vận
Hữu cú vô cú
Khuê oán
Lạng Châu vãn cảnh
Mai
Nguyệt
Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ
Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính
Sơn phòng mạn hứng
I
II
Sư đệ vấn đáp
Tán Tuệ Trung thượng sĩ
Tảo mai
I
II
Tặng Bắc sứ Lý Tư Diễn
Tây chinh đạo trung (tái chinh Ai Lao)
Thiên Trường phủ
Thiên Trường vãn vọng
Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai
Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng
Trúc nô minh
Tức sự
I
II
Vũ Lâm thu vãn
Xuân cảnh
Xuân hiểu
Xuân nhật yết Chiêu Lăng
Xuân vãn

Lên non thiêng Yên Tử, khảo sát điền dã những chứng tích lịch sử văn hóa lưu dấu mãi với thời gian. “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.). Đức Nhân Tông viết về sự đạt ngộ với người thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ . “Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy”. “Soi sáng lại chính mình” chứ không tìm kho báu ở đâu khác là trí tuệ siêu việt của vua Phật Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông.

;

Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…

Trần Nhân Tông

TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG
Hoàng Kim


Người ơi con đến đây tìm
Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
Núi cao trùng điệp nhấp nhô
Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

Thầy còn dạo bước cõi tiên
Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
Mang cây lộc trúc về Nam
Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

Cư trần lạc đạo, Người ơi
Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

An Kỳ Sinh trấn giữa trời
Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
Hoàng Kim


Lên non thiêng Yên Tử
Đêm trắng và bình minh
Khi nhớ miền đất thiêng
Lại thương vùng trời thẳm

Đi đường thấu non cao
Tầm nhìn ôm biển rộng
Thương Nhân Tông Bảo Sái
Đỉnh mây vờn Trúc Lâm

Dạo chơi non nước Việt
Non xanh bên bạn hiền
Thung dung cùng cây cỏ
Xuống núi thăm người quen.

ĐÊM YÊN TỬ
Hoàng Kim


Nhà thơ Trần Đăng Khoa khuyến khích tôi viết về Đêm Yên Tử. Tôi cũng tự nhận thấy, đây là một trong những trãi nghiệm quý giá nhất đời mình nhưng mãi đến nay mới tỉnh thức được đôi điều. Hôm trước tôi đã phác thảo bài này trong “Sách Nhàn đọc dấu câu có câu không” và phác thảo Đêm Yên Tử trên facebook Notes. Nay nhân đọc “Gai và Hoa” (1) của Thu Nguyệt và họa vần “Dịu dàng hoa cỏ” (Thu Nguyệt VN) , một tấm lòng nhân hậu và cây bút vàng rất được yêu thích một thời ở báo Tuổi trẻ và nay “tu tại tâm” làm những công việc mẫu mực thầm lặng hoa cỏ đời thường Tâm Minh giáo dưỡng trẻ thơ. Tôi xin chép về đây Đêm Yên Tử để trò chuyện cùng thầy bạn.

@Hoàng Kim Cám ơn bác đã yêu quý cậu Khoa. Nhưng chuyện đã qua lâu rồi, chúng ta hãy để cậu “yên giấc ngàn thư”, vì cu cậu cũng đã xong phận sự. Tôi chỉ tò mò, sao bác lên Yên Tử giữa đêm? Bác lại có nhiều vốn liếng về Yên Tử và Trần Nhân Tông, giá bác làm thơ hay viết bút ký, tùy bút về Đêm Yên Tử thì hay biết mấy. Đặc biệt là không khí Yên Tử. Đã có nhiều bài thơ, ca khúc rất hay viết về vùng đất này. Thêm một tấm lòng và góc nhìn nữa của Hoàng Kim cũng sẽ làm cho Yên Tử phong phú thêm đấy. ( * Phản hồi từ: TRẦN ĐĂNG KHOA [Bạn đọc] http://Blogtiengviet.net/Lão Khoa 30.09.11@07:28)

Cảm ơn Trần Đăng Khoa đã khuyến khích mình viết về Yên Tử. Hôm trước Bùi Anh Tấn, tác giả của cuốn sách Đàm đạo về Điếu Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông) 405 trang, được nhiều người yêu thích, cũng đã khuyến khích mình như ý của Khoa . Mình sẽ cố gắng và rất mong được sư góp ý thẩm định của các bạn.

ĐÊM YÊN TỬ NGHĨ VỀ CÔN SƠN

Tôi viết cảm nhận này trực tiếp trên trang mạng của Khoa . Ý nghĩ chảy nhanh ra đầu bút. Tôi đang đánh máy bài thơ Em kể chuyện này chưa kịp lưu thì cảm nhận của Khoa hiện ra: “@Hoang Kim. Cám ơn bác đã cho tôi những tư liệu rất hay về nhà thơ Xuân Diệu. Động tác và tính cách là rất chuẩn. Xuân Diệu đúng như vậy. Hy vọng dịp nào chúng ta gặp nhau. Chúc bác thành công trong sự nghiệp Dạy và Học”.

Hãy khoan, Khoa ơi để mình kể bạn nghe chuyện Đêm Yên Tử nghĩ về Côn Sơn nhé. Mình ám ảnh chuyện này quá. Chuyện này ví như: Sự ghi ơn người khai sinh chữ quốc ngữ; Nguyễn Du đâu chỉ đại thi hào; Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn; Bác có nhầm lẫn kẻ phi thường; Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Tâm linh đọc lại và suy ngẫm … Đó đều là những bí ẩn lịch sử cần người minh triết để thấu hiểu để trao lại… Mình nếu như không viết được vào ô cảm nhận này, vào chính thời điểm này thì hình như ít người hiểu thấu. Đêm Côn Sơn của Khoa là đêm lạ lùng !

Đêm Yên Tử nghĩ về Côn Sơn là đêm thiêng kỳ lạ. “Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử. Để thấm hiểu đức Nhân Tông. Ta thành tâm đi bộ . Lên tận đỉnh chùa Đồng. Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc.” Hình như bí ần của Nhân Tông và Nguyễn Trãi đã mách Khoa ở Đêm Côn Sơn và đã gợi cho mình nhìn thấy một chút dấu hiệu nhận biết để mách cho Khoa và chính mình ghi lại. Thơ văn Lý Trần, Lê, Mạc, đặc biệt là các tác gia Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ, Nguyễn Du đều cần những chuyên luận kỹ.

Năm trước khi “Chân dung và đối thoại” vừa mới ra lò. Mình nhớ cái chi tiết của Khoa khi nói về Đêm Côn Sơn trong đó có bốn câu:

“Ngoài thềm rơi cái lá đa.
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Mờ mờ ông bụt ngồi nghiêm.
Nghĩ gì ông vẫn ngồi yên lưng đền”.

Khoa viết rằng Xuân Diệu khen Khoa nghe tinh, có giác quan tinh tế, và Xuân Diệu đã thay một chữ “nghĩ” cho chữ “sợ”mà ông Bụt hóa thành cơ thể sống, đã thành sự sống. Sự thẩm thơ tinh tưởng của Xuân Diệu là vậy. Ông chỉ thay đổi một chữ mà bài thơ biến đổi cả thần thái. Chữ “nghĩ “ này hay tương tự chữ “đi” trong câu thơ “Trái đất ba phần tư nước mắt/ Đi như giọt lệ giữa không trung” làm đổi thần thái câu thơ “Trôi như giọt lệ giữa không trung” mà Khoa đã bình luận. Mình muốn bình thêm cái ý “thần đồng” nghĩa là “tuổi nhi đồng mà làm được những điều như có thần mách bảo”. Khoa né tránh bình luận chuyện này và viết “bây giờ thì y đã già và dứt khoát không phải là kẻ đắc đạo, vậy mà y vẫn phải còng lưng , ý ạch vác cái cây thánh giá ở lứa tuổi trẻ con.” Thực ra, phải nhìn nhận rằng Khoa có những câu thơ rất quý và rất lạ , lúc trẻ con mà đã viết được những câu “thần đồng” như trên mà người lớn không thể viết nổi.

Mình đã có cảm giác thật kỳ lạ khi một mình lúc ba giờ khuya ngồi ở dưới chân Bụt Trần Nhân Tông nơi vòm đá hang cọp phía sau chùa Bảo Sái gần đỉnh chùa Đồng. Nơi đó và giờ đó là lúc Trần Nhân Tông mất. Người từ chùa Hoa Yên lúc nữa đêm đã nhờ Bảo Sái – một danh tướng cận vệ và đại đệ tử thân tín – cõng Người lên đây. Bảy trăm năm sau, giữa đêm thiêng Yên Tử, ngồi một mình trong đêm lạnh, đúng nơi và đúng vào khoảng ba giờ khuya lúc đức Nhân Tông mất, mình lắng nghe tiếng lá cây gạo trên 700 tuổi rơi rất mỏng lúc canh khuya. Bóng của Phật Nhân Tông mờ mờ ngồi nghiêm ngồi yên bình thản lưng đền. Lúc đó vụt hiện trong đầu mình bài kệ “Cư trần lạc đạo” của đức Nhân Tông và bài thơ Yên Tử “đề Yên Tử sơn, Hoa Yên Tự” của Nguyễn Trãi văng vẳng trong thinh không thăm thẳm vô cùng.

Bài thơ chiêu tuyết Nguyễn Trãi “đêm Côn Sơn” của Khoa chính hợp với sự kiện này. Tôi phục Khoa quá! Khoa ơi, hãy tin tôi đi. Những câu thơ thần đồng sức người không viết được. Khoa đã may mắn chạm được mạch tâm linh dân tộc, như tiếng đàn bầu ngân lên từ ruột trúc, mới viết được những câu thơ hay và lạ đến thế. Khoa ngẫm xem những câu thơ sau đây của Nguyễn Trãi tả Bình minh trên Yên Tử thật đúng là thần bút: “Non thiêng Yên Tử, đỉnh kỳ phong. Trời mới ban mai đã rạng hồng. Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả. Nói cười lồng lộng giữa không trung.” Nguyễn Trãi viết thơ trên đỉnh Yên Tử lúc ban mai. Vậy Người leo núi từ khi nào? Đi từ hôm trước hay đi từ lúc nửa đêm như đức Nhân Tông? E chỉ có Yên Tử trả lời.

LÊN NON THIÊNG YÊN TỬ

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc

“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng. (2)

* Non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông …

(1) Thơ Nguyễn Trải
(2) Bản dịch thơ Hoàng Kim

Nửa đêm, ngày Mồng một tháng Mười một năm Mậu Thân (1308), sao sáng đầy trời, Trúc Lâm hỏi: “Bây giờ là mấy giờ?”. Bảo Sát thưa: “Giờ Tý”. Trúc Lâm đưa tay ra hiệu mở cửa sổ nhìn ra ngoài và nói: “Đến giờ ta đi rồi vậy”. Bảo Sát hỏi: “Tôn sư đi đâu bây giờ?”. Trúc Lâm nói: “Mọi pháp đều không sinh. Mọi pháp đều không diệt. Nếu hiểu được như thế. Chư Phật thường hiện tiền. Chẳng đi cũng chẳng lại”. ( trước đó) sách “Tam tổ thực lục”, bản dịch, Tư liệu Viện Khảo cổ học, ký hiệu D 687, trang 12 ghi: “Ngày 18 ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn núi Kỳ Đặc, Ngài thấy rức đầu. Ngài gọi hai vị tì kheo là Tử Danh và Hoàn Trung lại bảo: ta muốn lên núi Ngoạ Vân mà chân không thể đi được thì phải làm thế nào? Hai vị tỳ kheo bạch rằng hai đệ tử chúng tôi có thể đỡ đại đức lên được. Khi lên đến núi, ngài cảm ơn hai vị tỷ kheo và bảo các ngươi xuống núi tu hành, đừng lấy sự sinh tử làm nhàm sự. Ngày 19 ngài sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử giục Bảo Sát đến ngay núi Ngoạ Vân….. Ngày 21, Bảo Sát đến núi Ngoạ Vân, Ngài thấy Bảo Sát đến mỉm cười nói rằng ta sắp đi đây, sao ngươi đến muộn thế?” Sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Nhà Xuất Bản Văn hoá Thông tin, 2004, trang 570 chép “Mùa đông tháng 11, … ngày mồng 3, thượng hoàng (Trần Nhân Tông) băng ở Am Ngoạ Vân Núi Yên Tử”.

TRÚC LÂM YÊN TỬ VÀ NGHÊ VIỆT

“Thầy còn dạo bước cõi tiên. Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn. Mang cây lộc trúc về Nam ken dày phên giậu ở miền xa xôi”. Tôi ngưỡng vọng đức Nhân Tông nên mang Trúc Lâm về trồng ở đất phương Nam và cảm khái viết bài thơ Ngọc phương Nam (Am Ngọa Vân) đối họa với Thuyền độc mộc.

Am Ngoạ Vân (hay Chùa Ngoạ Vân) nay thuộc thôn Tây Sơn, xã Bình Khê huyện Đông Triều, Quảng Ninh. Chùa nằm ở sườn Nam của ngọn núi cao thuộc dãy núi Yên Tử, núi có tên chữ là Bảo Đài Sơn hay núi Vảy Rồng hoặc Vây Rồng như cách gọi của nhân dân địa phương ngày nay. Chùa nằm ở độ cao khoảng 600m so với mặt nước biển. Đó là những kết quả, tư liệu và bằng chứng khoa học thu được qua quá trình điều tra, khảo sát của Nguyễn Vân Anh ở Viện Khảo cổ học, với tư cách là người trực tiếp tham gia cuộc điều tra nghiên cứu quần thể di tích Ngoạ Vân và Hồ Thiên, xã Bình Khê, Đông Triều Quảng Ninh.

Thuyền độc mộc, Ngọc phương Nam

Thuyền độc mộc
Trịnh Tuyên

Quên tên cây
làm thuyền
Tận cùng nỗi cô đơn-
độc mộc! Khoét hết ruột
Chỉ để một lần ngược thác
bất chấp đời
lênh đênh…

Ngọc phương Nam
Hoàng Kim

Hứng mật đời
thành thơ
Việc nghìn năm hữu lý
Trạng Trình Đến trúc lâm
Đạt năm việc lớn hoàng thành
Đất trời xanh
Yên Tử …

Vị Thiền sư Trúc Lâm Yên Tử hỏi và tôi trả lời: “- Người đi đâu tối qua? – Con trở về tự thân. – Người thấy gì đêm thiêng? – Con ngộ khi ngày mới. – Đêm Yên Tử là bài học lớn – Tình yêu cuộc sống thật kỳ diệu. Nghê Việt là rồng thiêng ẩn ngữ. Sách Nhàn đọc dấu lúc có lúc không”. YênTử là hình ảnh không lời. Trúc Lâm Yên Tử là tìm lại chính mình.

Đọc lại và suy ngẫm “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”. Thời nhà Tùy, sách vở chưa có dấu chấm câu. Bình thường vì không có dấu chấm nên một câu văn thường xuất hiện nhiều loại nghĩa khác nhau. Trịnh Ngôn Khánh đọc Luận Ngữ đành sắp xếp lại đặt dấu câu vào trong đó. “Soán Đường là sách mới của tác giả Canh Tân trên trang đọc truyện online. Sống trong thời loạn thế, thân thế khó bề phân biệt. Trong lòng ta không hướng tới phú quý nhưng không biết vì sao phú quý lại liên tục xuất hiện. Đây là một câu chuyện một người hiện đại xuyên Việt về Tùy Đường“. Hoàng Kim đọc chơi trang sách, chợt dưng lại nhớ về đời Trần và đức Nhân Tông “Đường Trần ta lại rong chơi. Vui thêm chút nữa, buồn thôi lại về“. “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”, “giấu” hay là “dấu” đây?

Hữu cú vô cú -有句無句- của Trần Nhân Tông
Nguyên văn chữ Hán phiên âm Hán Việt

有句無句,Hữu cú vô cú,
藤枯樹倒。Đằng khô thụ đảo.
幾個衲僧,Kỷ cá nạp tăng,
撞頭嗑腦。Chàng đầu hạp não,
有句無句,Hữu cú vô cú,
體露金風。Thể lộ kim phong.
兢伽沙數,Căng già sa số.
犯刃傷鋒。Phạm nhẫn thương phong.
有句無句,Hữu cú vô cú
立宗立旨。Lập tông lập chỉ.
打瓦鑽龜,Đả ngõa toàn quy,
登山涉水。Đăng sơn thiệp thủy.
有句無句,Hữu cú vô cú,
非有非無。Phi hữu phi vô.
刻舟求劍,Khắc chu cầu kiếm,
索驥按圖。Sách ký án đồ.
有句無句,Hữu cú vô cú,
互不回互。Hỗ bất hồi hỗ.
笠雪鞋花,Lạp tuyết hài hoa,
守株待兔。Thủ chu đãi thố.
有句無句,Hữu cú vô cú,
自古自今。Tự cổ tự kim.
執指忘月,Chấp chỉ vong nguyệt,
平地陸沉。Bình địa lục trầm.
有句無句,Hữu cú vô cú,
如是如是。Như thị như thị.
八字打開,Bát tự đả khai,
全無巴鼻。Toàn vô ba tị.
有句無句,Hữu cú vô cú,
顧左顧右。Cố tả cố hữu.
阿刺刺地,A thích thích địa,
鬧聒聒地。Náo quát quát địa.
有句無句,Hữu cú vô cú,
忉忉怛怛。Điêu điêu đát đát.
截斷葛藤,Tiệt đoạn cát đằng,
彼此快活。Bỉ thử khoái hoạt.
—-
DỊCH NGHĨA
Câu hữu câu vô,
Như cây đổ, dây leo héo khô.
Mấy gã thầy tăng,
Đập đầu mẻ trán.
Câu hữu câu vô,
Như thân thể lộ ra trước gió thu.
Vô số cát sông Hằng,
Phạm vào kiếm, bị thương vì mũi nhọn.
Câu hữu câu vô,
Lập công phái, ý chỉ.
Cũng là dùi rùa, đập ngói,
Trèo núi lội sông.
Câu hữu câu vô,
Chẳng phải hữu, chẳng phải vô,
Khác nào anh chàng khắc mạn thuyền mò gươm,
Theo tranh vẽ đi tìm ngựa ký.
Câu hữu câu vô,
Tác động qua lại với nhau.
Nón tuyết giày hoa,
Ôm gốc cây đợi thỏ.
Câu hữu câu vô,
Từ xưa đến nay,
Chỉ chấp ngón tay mà quên vầng trăng,
Thế là chết đuối trên đất bằng.
Câu hữu câu vô,
Như thế như thế!
Tám chữ mở ra rồi,
Hoàn toàn không còn điều gì lớn nữa.
Câu hữu câu vô,
Quay bên phải, ngoái bên trái.
Thuyết lý ầm ĩ,
Ồn ào tranh cãi.
Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt.
Nguồn: Wikisource

TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG

Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…
(Trần Nhân Tông)

Người ơi con đến đây tìm
Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
Núi cao trùng điệp nhấp nhô
Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

Thầy còn dạo bước cõi tiên
Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
Mang cây lộc trúc về Nam
Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

Cư trần lạc đạo Người ơi
Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

An Kỳ Sinh trấn giữa trời
Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

Nghê Việt là biểu tượng rồng ẩn, một trong những sáng tạo đỉnh cao của văn hóa Việt. “Sách Nhàn đọc dấu câu có câu không” ẩn hiện như tiềm long, một trong chín đứa con của rồng (long sinh cửu tử) theo thời mà biến hóa.

Bài viết và ảnh của Huỳnh Thiệu Phong Mấy vấn đề về nguồn gốc, đặc điểm của biểu tượng “Nghê” trong văn hóa Việt Nam đã nhận xét: “Nghê” chính là một sáng tạo nghệ thuật đỉnh cao, phản ánh rõ nét nhân sinh quan của người Việt trong những giai đoạn lịch sử của dân tộc“. Tôi rất đồng tình. Nghê là linh vật rồng ẩn thuần Việt trong “chín đứa con của rồng” (Long sinh cửu tử) và được phổ biến rộng trong dân gian thời Trần và được đúc kết bởi tác phẩm ““Tiềm Xác Loại Thư” của Trần Nhân Tích. Toan Nghê là linh vật có sức mạnh phi thường giống như sư tử, như mèo thần, thích nghỉ ngơi, điềm tĩnh, chăm chú chọn cơ hội, nhưng khi ra tay thì cực kỳ mau lẹ, dũng mãnh và hiệu quả. Kim Nghê là linh vật giống như kỳ lân, trâu ngựa thần, có tài nuốt lửa nhả khói, nội lực thâm hậu, nhanh mạnh lạ lùng, dùng để cưỡi đưa chủ nhanh đến đích. Nghê Dân Gian là linh vật gác cổng giữ nhà hiền lành, tin cẩn như chó nhà và hung dữ, nguy hiểm, tinh khôn như chó sói. Nghê Thường là linh vật ngây dại như trẻ thơ, nhởn nhơ như nai rừng, tin yêu như thục nữ nhưng vô cùng quý hiếm.

Đêm Yên Tử, rừng trúc thăm thẳm huyền thoại, vững chãi cây tre Việt Nam ngoan cường, như Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ năm 1363, bức họa Phật Hoàng Trần Nhân Tông do Trần Giám Như vẽ, trôi nổi trong nhân gian, như Nghê Việt ẩn tàng sức mạnh văn hóa Việt.

THU NGUYỆT GAI VÀ HOA

“Ngồi buồn làm phát chơi ngông Lôi ra một chậu xương rồng, đếm gai. Đếm qua đếm lại đếm hoài. Vẫn dư ra một cái gai là mình! Cái gai tuy mập mà xinh (?). Cho nên thiên hạ tưởng mình là hoa. Thật ra thật ra thật ra. Tận cùng bản chất nó là cái gai! Ủa mà gai có gì sai. Không gai sao cái đám này có hoa! . Hahaha…”

HOÀNG KIM HOA VÀ ONG

Hahaha… Thật ra thật ra thật ra. Tận cùng bản chất nó là không gai. Có không mọi chuyên ở đời. Dịu dàng hoa cỏ là nơi tìm về. Đêm Yên Tử lắng tai nghe. Mỏng như chiếc lá nghiêng về thinh không. Ẩn sau một đám xương rồng, Tìm đi tìm lại em không thấy mình. Thoắt rồi hiện trước em xinh, Gai đâu chẳng thấy, chỉ mình là ta. Hahaha …, Hahaha…”

Hoàng Kim mời các bạn đọc “Đêm Yên Tử” đã bổ sung và hiệu đính: “Lần nhỡ ấy xuýt đi xa, chơi cùng bạn quý la đà khói sương, mới hay mưa nắng vô thường mây che nắng sớm còn vương cõi trời. Thung dung bước tới thảnh thơi, An nhiên thế sự về nơi thanh nhàn. Trời đất vạn vật phong quang, trọn đời vui giữa nhân gian ân tình !… (* Thơ Hoàng Kim); Trời đất vạn vật phong quang là trích lời và ảnh của VDAT **: “… Thiên – Địa – Vạn Vật. Mới rồi, có “người” đã trao cho anh chìa khóa thứ nhất: Vạn vật, để anh tự khai sáng mình và anh cần khai thông kinh mạch lạc trong tối thiểu là 3 năm. Anh phải tích cực rèn luyện hơn nữa, sẽ có người trao cho anh cái chìa khoa thứ hai. Sau khi tu luyện mình hết chặng thứ hai, khi ấy anh sẽ thấy bài thơ này là chìa khóa thứ 3 đi vào giác ngộ…”; Mời bạn đọc tiếp bài “Minh triết sống phúc hậu

Hôm nay Thu Nguyệt có bài thơ ‘Bà già dưới chân đồi’ cảm hứng cho “Đêm Yên Tử” tìm lại:

BÀ GIÀ DƯỚI CHƯN ĐỒI

Xưa có một bà già
Ngụ dưới chưn ngọn đồi
Và nếu không qua đời
Thì bà vẫn còn sống

THE OLD WOMAN UNDER A HILL.

There was an woman
Who lived under a hill;
And if she’s not gone
She live there still.

NGÀY MỚI
Ngọc Phương Nam

Ai vui tựa gốc lộc mai
Thung dung năm tháng
Miệt mài đồng xuân!

Bình minh như thể bóng hồng
Nắng mưa … chẳng ngại
Thinh không … nói gì?!

Tùy cơ tùy thế tùy nghi
Trúc Lâm thời vận mệnh ghi Hoàng Thành

Câu thơ hạt ngọc long lanh
Tìm trong cát đá
Trờì dành lộc xuân
Đông 2021
Kính cậu mợ Hoàng Gia Cương vui khỏe, cháu Hoàng Kim thật vui thích họa vần thơ cậu và cháu xin được chép về https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngoc-phuong-nam/…/

LÀM THƠ
Hoàng Gia Cương


Một đời tấp tễnh làm thơ
Mình như thợ vụng …
Bây giờ rỗng không !

Thơ hay như thể bông hồng
Khen, chê … chẳng khó
Ươm, trồng … dễ đâu ? !

Suy tư bạc trắng mái đầu
Mà câu thơ nghẹn nỗi đau chưa thành !

Đâu tìm hạt ngọc long lanh ?
Bon chen sỏi đá …
Thôi đành mặc ai !
Đông 1989

NGỌC PHƯƠNG NAM
Hoàng Kim

hứng mật đời
thành thơ
việc nghìn năm hữu lý
trạng Trình

đến Trúc Lâm
đạt năm việc lớn Hoàng Thành
đất trời xanh
Yên Tử …

(*) Hoàng Kim họa đối
THUYỀN ĐỘC MỘC
Trịnh Tuyên


Quên tên cây
làm thuyền
Tận cùng nỗi cô đơn
– độc mộc!

Khoét hết ruột
Chỉ để một lần ngược thác
bất chấp đời
lênh đênh…‘ (*)

YÊN TỬ TRẦN NHÂN TÔNG
Ngọc Phương Nam

Lên non thiêng Yên Tử
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Lời dặn của Thánh Trần
Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ

Hiểu ‘sách nhàn đọc giấu
Biết ‘câu có câu không
Nghê Việt am Ngọa Vân

Tảo Mai nhớ Nhân Tông

Ân tình đất phương Nam
Nhân Tông Đêm Yên Tử
Chuyện cổ tích người lớn
Hoa Đất thương lời hiền

Yên Tử Trần Nhân Tông,

cropped-dsc00927.jpg

A NA BÀ CHÚA NGỌC
Hoàng Kim

A Na Bà Chúa Ngọc tại tháp Po Nagar, Nha Trang, có văn bia do cụ Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) , bản dịch của Quách Tấn, ông bà Lê Vinh tạc năm 1970. Hình tượng Mẹ thật tuyệt vời này trong tín ngưỡng Đạo Mẫu Việt Nam với văn hóa Việt Chăm. Những công trình nghiên cứu lịch sử văn hóa gần đây của các tác giả Ngô Đức Thịnh 2009, Lê Đình Phụng 2015, Huỳnh Thiệu Phong 2016 và những người khác giúp soi thấu nhiều góc khuất để tích cũ viết lạị bài A na Bà Chúa Ngọc. Cám ơn các tác giả của những tài liệu đã trích dẫn (HK).

BÀ THIÊN Y A NAN
Lược sử


Xưa tại núi Đại An (Đại điển) có hai vợ chồng Ông tiều đến cất nhà và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín thường hay bị mất.

Một hôm ông rình, bắt gặp một thiếu nữ trạc chừng chín mười tuổi hái dưa rồi giỡn dưới trăng. Thấy cô gái dễ thương ông đem về nuôi. Hai ông bà vốn không con cái, nên đối với thiếu nữ thương yêu như con ruột.

Một hôm trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã thiếu nữ lấy đá chất ba hòn dã sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi đứng ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một tiên nữ giáng trần đang nhớ cảnh Bồng lai. Đã buồn thêm bực nhân thấy khúc kỳ nam theo nước nguồn trôi đến tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ, để mặc cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ rũ đến xem. Thấy gỗ tốt xứm nhau khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi.

Thái tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực, thấy khúc gỗ không lớn lắm lẽ gì nặng đến nỗi giở không lên, Thái Tử bèn lấy tay nhấc thử. Chàng hết sức lạ lùng vì khúc gỗ nhẹ như tờ giấy, bèn đem về cung, trân trọng như một bảo vật.

Một đêm, dưới bóng trăng mờ. Thái Tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam. Nhưng lại gần xem thì tứ bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất mùi hương thanh thanh từ khúc kỳ bay ra. Chàng quyết rình xem mấy đêm liền không hề thấy khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm, đêm vừa quá nửa, bốn bề im phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt từ trong khúc kỳ nam bước ra.

Thái Tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân đành theo Thái Tử về cung và gho biết rõ lai lịch.

Giai nhân xưng là Thiên Y A Na.

Thái Tử vốn đã trưởng thành nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý. Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường bèn tâu phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà vua xin bói cát hung. Trúng quẻ “đại cát” liền cử lễ thành hôn.

Vợ chồng ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai, một gái, trai tên Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngô.

Thời gian qua trong êm ấm Nhưng một hôm lòng quê thúc giục Thiên Y bồng hai con nhập vào kỳ nam trở về làng cũ.

Núi Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông tiều đã về cõi âm Thiên Y bèn xây đắp mồ mã cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn dã man, bà đem văn minh Trung Hoa ra giáo hóa, dạy cày cấy, dạy kéo vải, đệt sợi .. và đặt ra lễ nghi .. từ ấy ruộng nương mở rộng đời sống của nhân dân mỗi ngày mỗi thêm phúc túc phong lưu công khai phá của bà chẳng những ở trong địa phương và các vùng lân cận cũng được nhờ. Rồi một năm vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh một con chim hạc từ trên mây bay xuống, bà cùng hai con lên lưng hạc bay về tiên.

Nhân dân địa phương nhớ ơn đức xây tháp tạc tượng vào năm 817 phụng thờ và mỗi năm vào ngày bà thăng thiên 23. 3 âm lịch tổ chức lễ múa bóng dâng hương hoa rất long trọng. Ở Bắc hải Thái Tử trông đợi lâu ngày không thấy vợ con trở về bèn sai một đạo binh dong thuyền sang Đại an tìm kiếm. Khi thuyền đã đến nơi thì bà đã trở về Bồng đảo. Người Bắc hải ỷ đông hà hiếp dân địa phương ngờ rằng dân địa phương nói dối bèn hành hung không giữ lễ xúc phạm thần tượng, nhân dân bèn thắp nhang khấn vái. Liền đó gió thổi đá bay đánh đắm thuyền của Thái Tử Bắc hải.

Nơi đây nổi lên một hòn đá lớn tục gọi là đá chữ.

Ngày 20 5 năm Tự Đức thứ 9 ‘1857’ PHAN THANH GIẢN
Thượng thư Lễ nghi thảo văn, theo bản dịch Quách Tấn

Văn bia viết về Thiên Y A Na tại tháp Po Nagar, Nha Trang do cụ  Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) – bản dịch của Quách Tấn – ông bà Lê Vinh tạc năm 1970 (Thiên Y A NA Wikipedia Tiếng Việt), văn bản đánh máy của Hoàng Kim sao y văn bản tại tháp Po Nagar, Nha Trang.

30 Hoàng Diệu, Võ Miếu Việt Nam
30 Hoàng Diệu, Võ Miếu Việt Nam

30 HOÀNG DIỆU VÕ MIẾU VIỆT NAM
Hoàng Kim

Hoàng Diệu là quan Tổng đốc của nhà Nguyễn sinh năm 1829, mất ngày 25 tháng 4 năm 1882 khi ông quyết tử bảo vệ thành Hà Nội chống lại Pháp tấn công. Trận đánh không cân sức, vì sự phòng thủ không được tăng cường, hỏa mai thô sơ không cản nổi đại bác, súng trường. Trong tình thế tuyệt vọng, Hoàng Diệu vẫn bình tĩnh dẫn đầu quân sĩ chiến đấu chống lại giặc Pháp. Đến lúc thành không thể giữ, ông lệnh cho tướng sĩ rút lui để tránh thương vong, và cắn ngón tay lấy máu viết di biểu gửi vua Tự Đức: “Thành mất không sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện xin theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng“. Sau đó, ông ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 54 tuổi.

Võ Nguyên Giáp là Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, mất ngày 4 tháng 10 năm 2013. Ông là một trong những người góp công thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được chính phủ Việt Nam đánh giá là “người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, là chỉ huy chính trong các chiến dịch và chiến thắng chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) đánh bại Thực dân Pháp, Chiến tranh Việt Nam (1960– 1975) chống Mỹ, thống nhất đất nước và Chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979)chống quân Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc. Ông được đánh giá là một trong những vị tướng kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam và thế giới.

30 Hoàng Diệu là nơi ở của đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngôi đền thiêng Võ miếu  của dân tộc Việt, nơi lưu dấu hình ảnh của bậc anh hùng “Nghệ thuật quân sự Việt Nam là dám đánh và biết  thắng”.”Chúng tôi trả lời là từ “lo sợ” không có trong tư duy quân sự của chúng tôi”. Võ Nguyên Giáp là  người đã cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo quân dân Việt kháng chiến chống Pháp thành công, rửa sạch làu nỗi nhục mất nước của dân tộc Việt  trong Chiến tranh Pháp – Đại Nam (1858 -1884) kết thúc bằng thắng lợi của Đế quốc thực dân Pháp chiếm toàn bộ lãnh thổ Đại Nam và thiết lập bộ máy cai trị thời kỳ Pháp thuộc.  Chiến tranh Pháp – Đại Nam (1858-1884) 26 năm và Chiến tranh Đông Dương (1946 – 1954) 9 năm, nguyên nhân mất nước và giành lại được chủ quyền là bài học lớn. Nói theo Binh pháp Tôn Tử là  phải tìm hiểu và đánh giá thật kỹ thực lực và nội tình đôi bên về  ” thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tướng soái, quân kỷ “. Nguyên nhân sự mất nước của triều vua Tự Đức nhà Nguyễn trong 26 năm đối trận chủ yếu thua là do “trang bị vũ khí  triều Nguyễn kém xa quân đội đế quốc Pháp”, “nền văn minh nông nghiệp Á Đông  quá lạc hậu so với nền văn minh khoa học phương Tây”, “tham vọng thực dân của đế quốc Pháp cướp chủ quyền, tài nguyên, nhân lực nước ta”; “sự lúng túng của vua quan nhà Nguyễn không tìm ra được cách đánh và kế sách biết thắng”.  Cụ Nguyễn Tri Phương, cụ Hoàng Diệu đều là người dám đánh nhưng chỉ đến thời cụ Hồ, tướng Giáp thì mới vừa “dám đánh và biết thắng”. Toàn dân đồng sức, trên dưới đồng lòng, tận dụng tốt  “thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tướng soái, quân kỷ” mà thành công.

Đọc và suy ngẫm về Hoàng DiệuTướng Giáp nhân ngày mất bi tráng của Tổng đốc Hoàng Diệu ngày 25 tháng 4 năm 1882. Hoàng Diệu được đông đảo sĩ phu, nhân dân Hà Nội và Bắc Hà khâm phục thương tiếc. Ông được thờ trong đền Trung Liệt (cùng với Nguyễn Tri Phương) trên gò Đống Đa với câu đối: Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa. Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên Dịch: Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất/ Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh. Vua Tự Đức mặc dầu không ủng hộ Hoàng Diệu trong việc chống đối với quân Pháp tại thành Hà Nội, vẫn phải hạ chiếu khen ông đã tận trung tử tiết, sai quân tỉnh Quảng Nam làm lễ quốc tang. Tôn Thất Thuyết, một đại biểu nổi tiếng của sĩ phu kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông trong hai câu đối: Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện. Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm. Dịch: Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước. Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm. Cụ Phó bảng Nguyễn Trọng Tỉnh có bài thơ điếu Hoàng Diệu, ghi lại trong Lịch sử vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe như sau: Tay đã cầm bút lại cầm binh. Muôn dặm giang sơn nặng một minh. Thờ chúa, chúa lo, lo với chúa. Giữ thành, thành mất, mất theo thành. Suối vàng ắt hẳn mài gươm bạc. Lòng đỏ thôi đành gửi sử xanh. Di biểu nay còn sôi chính khí. Khiến người thêm trọng bút khoa danh.

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết: Tôi có đi thăm mộ cụ Hoàng Diệu ở giữa cánh đồng Xuân Đài. Mộ không bề thế như tôi tưởng, còn quá nhỏ so với lăng mộ của những viên quan lớn vô tích sự trên triều đình Huế mà tôi vẫn thường thấy. Mộ là một nắm vôi khô nằm vùi giữa đồng cỏ voi, xa khu dân cư…Hồi nhỏ nhà nghèo, mẹ chăn tằm dệt lụa nuôi con ăn học. Hoàng Diệu lớn lên bằng tuổi trẻ gian khổ ở làng quê, buổi sáng sớm đi học chỉ súc miệng và nhịn đói, trưa về ăn một chén bắp nấu đậu, đến tối cả nhà chia mỗi người một bát cơm. Ngày nghe tin chồng tuẫn tiết, bà Hoàng Diệu đang cuốc cỏ lá de, ngất xỉu ngay trên bờ ruộng…Làm quan Tổng đốc mà nhà còn nghèo đến thế, huống là nhà dân… Nhà văn Sơn Nam viết: “Đi thăm mộ Hoàng Diệu, (nghe) lúc làm quan, có lần ông gửi về cho mẹ một vóc lụa. Bà mẹ không nhận, gửi trả lại cho con, kèm theo một nhánh dâu, tượng trưng cho ngọn roi, để cảnh cáo đứa con đừng nhận quà cáp gì của dân.

Những người nặng lòng với nước đều biết rút tỉa bài học trong thịnh suy, thành bại để mưu cầu hạnh phúc cho dân.

Dám đánh và biết thắng là tinh hoa nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Hoàng Kim

NGỌC PHƯƠNG NAM NGÀY MỚI
Hoàng Kim


Ai đến
nơi nao
xa
thăm thẳm
chia nửa
vầng trăng
khuyết lại tròn,
mưa
níu ngày dài
thêm nỗi nhớ
ngóng cửa
chờ nhau
ai
nhớ ai …

Cứ đợi
cứ chờ
thương
mòn mỏi
gìn vàng
giữ ngọc
nắng mai
nay,
Chút thôi
mưa sớm
trời
quang lại,
sương đọng
mi ai
lặng lẽ
hoài …

(Ngọc Phương Nam, hè 2013)

TỰ SỰ
Chunhac Nguyen


Người về
phương ấy
xa
lăm lắm
để lại
mình tôi
với mùa hè,
nắng
tuy chưa gắt
nhưng dai dẳng
của nỗi chờ trông
nắng
sắt se…

Chẳng biết
bao giờ
người
trở lại
bồi hồi
ngõ nhỏ
tĩnh lặng
xưa,
hiu hắt
nắng chiều
xiên
quán lá,
điệu nhạc
ai
sầu
da diết
đưa…

(Bình Dương . hè 2011)

KÊNH ÔNG KIÊT GIỮA LÒNG DÂN
Hoàng Kim

Giống sắn KM94, KM98-1, giống lúa gạo thơm ngon KĐM 135 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới ở Tri Tôn, Tịnh Biên đã mang lại niềm vui cho người nghèo tại vùng đất này; chính nhờ kênh ông Kiệt mới bảo tồn và phát triển tốt được. Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi là ký ức lắng đọng mãi trong lòng tôi

Thơ cho em giữa tháng năm này
Là lời người dân nói vể kênh ông Kiệt
Là con kênh xanh mang dòng nước mát
Làm ngọt ruộng đồng Tứ giác Long Xuyên

Con kênh T5 thoát lũ xả phèn
Dẫn nước ngọt về vùng quê nghèo khó
Tri Tôn, Tịnh Biên trong mùa mưa lũ
Giữa hoang hóa, sình lầy, thấm hiểu lòng dân

Nguyễn Công Trứ xưa khẩn hoang đất dinh điền
Thoại Ngọc Hầu mở mang kênh Vĩnh Tế
Kênh ông Kiệt giữa lòng dân bền bỉ
Ân nghĩa cuộc đời lưu dấu nghìn năm

Em ơi khi nuôi dạy con
Hãy dạy những điều vì dân, vì nước
Người ta sinh ra cho đến khi nhắm mắt
Đọng lại trong nhau vẫn chỉ những CON NGƯỜI.

KenhVoVanKiet

Kênh ông Kiệt giữa lòng dân

Hệ thống thủy lợi nội đồng nối với “Kênh ông Kiệt” đã mang nguồn nước ngọt về ruộng

Giống lúa KĐM 135 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới đã mang lại niềm vui cho người nghèo.

Các giống cây màu rau đậu trồng vụ khô sau khi thu hoạch lúa đã giúp nâng cao đời sống người dân.

Khoa học kỹ thuật bám dân bám ruộng âm thầm nhưng hiệu quả làm đổi thay vùng Tri Tôn Tịnh Biên.

Ông Nguyễn Minh Nhị (nguyên Chủ tịch tỉnh) cùng anh Ngô Vi Nghĩa với giống mì ngắn ngày trên ruộng tăng vụ.

“Kênh ông Kiệt” và vùng đất An Giang cũng là nôi nuôi dưỡng phát triển của các giống mì ngắn ngày KM98-1, KM140 đươc chọn tạo để đáp ứng nhu cầu né lũ nay đã phát triển rộng khắp toàn quốc (ảnh Thầy Lê Minh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang, Phó Chủ tịch tỉnh An Giang với giống mì KM98-1)

Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phú hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận được thực hiện ngày nay là sự bảo tồn và phát triển chuỗi kinh nghiệm quý Cách mạng sắn Việt Nam.
xem tiếp Chọn giống sắn Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-viet-nam/

*

Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho các cháu uống vacxin phòng bệnh ở Đà Nẵng. (Ảnh: Minh Đạo)

MỘT NÉN HƯƠNG THÀNH KÍNH
Việt Phương

Bài viết này của cố nhà thơ Việt Phương lúc ông 85 tuổi nhớ về cố Thủ tướng Võ Vă Kiệt

Tôi không phải là người được biết đồng chí Võ Văn Kiệt – Sáu Dân từ sớm, cũng không phải người được giúp việc anh Sáu Dân lâu năm.

Khi tôi bắt đầu là một chuyên gia tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, tôi 65 tuổi và anh Sáu Dân 71 tuổi. Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi thấy cái tên Sáu Dân thật hợp với tính cách của anh. Tôi trân trọng người lãnh đạo và yêu quý CON NGƯỜI anh.

Sáu Dân từ sớm có ý thức về dân tộc, về đất nước, từ năm 17 tuổi. Ý thức ấy ngày càng sâu sắc, trở thành tâm niệm góp phần giải phóng dân tộc, làm giàu đẹp nước Việt Nam, người Việt Nam, toàn dân tộc và từng người dân.

Sáu Dân là con người biết người, biết mình, phục thiện, theo lẽ phải, có lỗi thì nhận lỗi và sửa chữa, thẳng thắn, chân thành, từ khi là con nhà nghèo ở đợ, không được vào trường học đến khi là Thủ tướng Chính phủ. Anh biết mình có năng khiếu, sở trường ở những điểm nào, có khiếm khuyết, hẫng hụt ở những điểm nào, biết mình có một sứ mệnh và biết mình không toàn bích.

Sáu Dân có đức tính lắng nghe và biết chọn, có đòi hỏi tự thân được chia sẻ, trao gửi việc làm và tâm tình với đồng bào, đồng chí, có khả năng cảm thông với mọi tầng lớp, mọi con người.

Trong đời mình, càng về sau càng nổi bật, Sáu Dân coi trọng báo chí, đỡ đầu, hướng dẫn, khi cần thì bênh vực, che chắn cho những tờ báo, những nhà báo chân chính, dũng cảm, sáng tạo, và bản thân Sáu Dân là một nhà báo viết nhiều, viết cẩn trọng, đầy trách nhiệm, không chỉ viết bằng mực mà viết bằng máu, bằng tâm huyết của mình.

Sáu Dân có một chất người, một nhân cách phong phú, nhiều chiều cạnh, yêu sống, biết sống và dám sống, nhưng thiếu điều kiện, cả điều kiện bên ngoài và điều kiện bản thân, để phát huy mình đích đáng hơn nữa.

Nhược điểm của Sáu Dân là tuy hiểu biết và từng trải sâu rộng, nhưng còn thiếu một trình độ triết học và chính trị, thiếu một nền tảng văn hóa nghĩa rộng ở tầm cần có của người đứng đầu Chính phủ và nền hành pháp Việt Nam trong thời đại ngày nay.

Khuyết điểm của Sáu Dân là tuy sáng suốt trong đánh giá con người, mà lại cả tin nhiều khi đến ngây thơ, biết bảo vệ, gìn giữ cho bạn hữu, mà chưa biết bảo vệ, giữ gìn đủ mức cho mình.

Đối với tôi, Sáu Dân là một người anh lớn, một người bạn thân, mà bài học và kỷ niệm sống thấm thía trong tôi qua từng đoạn đường đời, qua mọi vui buồn của cuộc sống.

Nếu chỉ nói một câu về Sáu Dân, thì tôi xin nói rằng: Cầu mong và tin tưởng dân tộc ta có những con người, có những người cầm quyền có đức, có tài, tốt và đẹp như Sáu Dân.

MƯỜI THÓI QUEN MỖI NGÀY
Hoàng Kim

1. Vui khỏe phúc hậu, an nhàn vô sự là tiên
2. Biết dưỡng sinh, sống quen thanh đạm nhẹ mình
3. Hưởng ánh nắng, khí trời và sương mai mỗi sáng
4. Dạy và học tình yêu cuộc sống cnm365 mỗi ngày
5. Đi bộ và dọn vườn, tập thể dục mỗi ngày nữa giờ
6. Tắm rửa sạch sẽ mỗi ngày có lợi cho sức khỏe
7. Luyện thói quen đi lại ít phút sau mỗi giờ làm việc
8. Sau khi đi làm về cần nghĩ ngơi 15 phút mới tắm
9. Khi người mệt mỏi tốt nhất ngủ ngon và nghỉ ngơi
10 Buông bỏ những dư thừa và hư danh giả tạm

I have a dream

GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

nhắm mắt lại đi em
để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
trời thanh thản xanh
đêm nồng nàn thở
ta có nhau trong cuộc đời này
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh

nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh

nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành.

Nhắm mắt lại đi em
Giấc ngủ ngoan
giấc mơ hạnh phúc
Em mãi bên anh,
Đồng hành với anh
Bài ca yêu thương
Bài ca hạnh phúc

Giấc mơ lành yêu thương
Ta có nhau trong cuộc đời này.
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh

nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh

nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành

Nhắm mắt lại đi em
Giấc mơ cuộc đời
giấc mơ hạnh phúc
ngôi nhà tâm thức
Giấc mơ lành yêu thương

Có cánh cửa khép hờ
Có bãi cỏ xanh non.
Đất nước cây và hoa
Một khu vườn tĩnh lặng.
Chim sóc chó mèo gà
luôn quấn quýt sớm hôm.

Ban mai ửng
nghe chim trời gọi cửa.
Hoàng hôn buông
trăng gió nhẹ lay màn.

Ta về với ruộng đồng
Vui giấc mơ hạnh phúc
Hoa Người Hoa Đất 
Một giấc mơ con

Giấc mơ lành yêu thương

Hà Nội ngày trở lại
Thăng Long sen Tây Hồ
Vui trong ngày tình yêu
Thấm bài thơ nghị lực

Một gia đình hạnh phúc
Giấc mơ lành yêu thương

MÌNH VỀ VỚI MÌNH THÔI
Hoàng Kim

Mình về với chính mình thôi
Về nơi bếp núc, nói lời yêu thương
Hành trình của chính linh hồn
Giấc mơ hạnh phúc con đường tình yêu.

Thênh thênh đồng rộng trời chiều
Nụ cười mãn nguyện, bao điều ước mong
Dẫu rằng xuân đến tự xuân
Vượt qua đông lạnh đã dần sương tan.

Lời nguyền cùng với nước non
Hiếu trung trọn nghĩa, lòng son vẹn tình
Yêu thương phúc hậu hi sinh
Đường xuân chung lối hương linh muôn đời.

NGẮM VẦNG TRĂNG CỔ TÍCH
Hoàng Kim

Trăng rằm

Trăng sáng lung linh trăng sáng quá
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm.

Đêm mai là trăng rằm

Em đi chơi cùng Mẹ
Đêm mai là trăng rằm
Thảo thơm vui đầy đặn
Ân tình cùng nước non.

Trăng khuyết rồi lại tròn
An nhiên cùng năm tháng
Ơi vầng trăng cổ tích
Soi sáng sân nhà em.

Đêm nay là đêm nao?
Ban mai vừa ló dạng
Trăng rằm soi bóng nắng
Bạch Ngọc trời phương em.

Ngôi sao khuya may mắn

Em đọc lại truyện Sao Kim em nhé
Bài ca thời gian câu chuyện cuộc đời
Một giấc mơ Người đi tìm kho báu
Theo ước mơ mình tới chốn xa xôi …

Bậc tiên tri biết nhìn sâu khát vọng
Khuyến khích em theo mơ ước tuổi hoa
Đi tới cuối con đường hạnh phúc
Hãy là chính mình, ta chính là ta.

Em thấu hiểu có ngôi sao may mắn
Luôn bên em lấp lánh phía chân trời
Nơi bảng lãng thơ tình Hồ núi Cốc
Giấc mơ đưa ta về cổ tích xa xôi …

Ta hẹn em ngắm trăng

Ta hẹn em uống rượu ngắm trăng
Mấy khi đời có một người tri kỷ?
Nâng chén nhé!
Trăng vàng như giọt lệ
Buồn ư em?
Trăng vằng vặc trên đầu!

Ta nhớ anh ta xưa mưa nắng dãi dầu
Khi biệt thế gian chọn trăng làm bạn
“Trăng tán trời mưa, trăng quầng trời hạn”
Dâu bể cuộc đời đâu chỉ trăm năm?

Mười lăm trăng qủa thật tròn
Anh hùng thời vận hãy còn gian nan
Đêm trăng nhát cuốc xới vàng
Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm
Đất vàng, vàng ánh trăng đêm
Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn (1)

Ta mời em uống rượu ngắm trăng
Mấy khi đời có một người tri kỷ?
Nâng chén nhé!
Trăng vàng như giọt lệ
Vui ư em?
Trăng lồng lộng trên đầu!

Ta nhớ bạn ta vào tận vùng sâu
Để kiếm tìm ta, người thanh xứ núi
Cởi bỏ cân đai xênh xang áo mũ
Rượu đế, thưởng trăng, chân đất, đũa tre.

Hoa mận chờ trăng nhạt bóng đêm
Trăng lên vời vợi vẫn êm đềm
Trăng qua vườn mận, trăng thêm sáng
Mận đón trăng về, hoa trắng thêm

Ta cùng em uống rượu ngắm trăng
Ta có một tình yêu lặng lẽ
Hãy uống đi em!
Mặc đời dâu bể.
Trăng khuyết lại tròn
Mấy kẻ tri âm?

Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm

Chuyên muôn năm còn kể

Trăng thu

Quốc Khánh nhớ thơ Trăng của Bác
Bốn lăm tuổi Đảng học theo Người
Tâm sáng đức cao chăm việc tốt
Chí bền trung hiếu được tin yêu.

Trăng nhớ Bác

Trăng rằm đường sáng dạo chơi giăng,
Nhớ Bác đôi câu hỏi chị Hằng:
“Thế nước thịnh suy sao đoán định?
Lòng dân tan hợp biết hay chăng?
Vành đai thế biến nhiều mưu hiểm,
Con đường lực chuyển lắm lăng nhăng?
Dân Nam Tiếng Việt nhiều gian khó
Hưng thịnh làm sao hỡi chị Hằng?”.
*
“Bác Hồ thơ ‘Chơi giăng’ đó ông
Vầng trăng cổ tích sáng non sông,
Tâm sáng đức cao chăm việc tốt
Chí bền trung hiếu quyết thắng không?
Nội loạn dẹp tan loài phản quốc
Ngoại xâm khôn khéo giữ tương đồng.
Khó dẫu vạn lần dân cũng vượt.
Lòng dân thế nước chắc thành công”.

Ngày một bữa đỏ lửa

Ngày một bữa đỏ lửa
Ngày một bữa luốc lem
Ngày một bữa thổi nhen
Ngày một bữa lường gạo
Ngày một bữa tần tảo
Ngày một bữa nấu ăn.

Lời anh Hai dặn em

“Nhá củ lòng anh nhớ các em
Đang cơn lửa tắt khó thắp đèn
Cảnh cũ chưa lìa đeo cảnh mới
Vơi ăn, vơi ngủ, với vơi tiền”

“Cảnh mãi đeo người được đâu em
Hết khổ, hết cay, hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”

Sao khuya thức em dậy

Đã bốn giờ sáng
Ta phải dậy rồi
Sao Mai chơi vơi
Khoe hào quang sáng

Ta kêu Kim dậy
Nó đã cựa mình
Vớ vẫn van xin
Cho thêm chút nữa.

Thức, lôi, kéo, đỡ
Nó vẫn nằm ỳ
Giấc ngủ say lỳ
Biết chi trời đất

Tiếc giấc ngủ mật
Chẳng chịu học hành
Tuổi trẻ không chăm
Làm sao nên được

Đêm ni, đêm trước
Biết bao là đêm
Lấy hết chăn mền
Nó say sưa ngủ

Ta không nhắc nhủ
Nó ra sao đây
Khuyên em đã dày
Nó nghe chẳng lọt

Giờ đây ta guyết
Thực hiện nếp này
Kêu phải dậy ngay
Lay phải trở dậy

Quyết tâm ta phải
Cố gắng dạy răn
Để nó cố chăm
Ngày đêm đèn sách

Ta không chê trách
Vì nó tuổi thơ
Ta không giận ngờ
Vì nó tham ngủ

Quyết tâm nhắc nhủ
Nhắc nhủ, nhăc nhủ …

Chuyện đời sao nỡ quên

Hôm nay anh được chén cơm ngon
Cửa miệng anh ăn, nuốt chả trơn
Bởi lẽ ngày dài em lam lũ
Mà sao chỉ có bữa cơm tròn.

Trăng rằm thương nhớ anh

Trăng xưa cùng anh cuốc đất
Trăng nay mình em làm thơ
Không gian một vầng trăng tỏ
Trăng rằm rọi sáng giấc mơ ...

VUI BƯỚC TỚI THẢNH THƠI
Hoàng Kim

Chân trần bước tới thảnh thơi
Trăng rằm cổ tích nhớ lời của Anh:

“Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ hết cay hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”.
(Khát vọng, Hoàng Ngọc Dộ)

Vui về với ruộng đồng
Vui sống giữa thiên nhiên
Vui đến chốn thung dung
Vui bước tới thảnh thơi

Vui đi dưới mặt trời
Lên Trúc Lâm Yên Tử
Giấc mơ thiêng cùng Goethe
Giấc mơ lành yêu thương

Minh triết cuộc rong chơi
Đường trần đi không mỏi
Lắng nghe cuộc sống gọi
Việt Nam con đường xanh

Ngắm vầng trăng cổ tích
Một gia đình yêu thương
Một niềm tin thắp lửa
Mình về với chính mình
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vui-buoc-toi-thanh-thoi/

THƯ TRẢ LỜI THÙY HƯƠNG
Hoàng Kim

Vũ Thùy Hương bạn đọc “Phạm Minh Giắng thay lời Thúy Vân” đã gửi cho tôi một câu hỏi cần sự giải đáp1 Đó là một câu hỏi lớn, rất hay và khó, về Tình yêu cuộc sống1, Truyện Kiều, Kim Vân Kiều2, Nguyễn Du trăng huyền thoại3, Nguyễn Du Hồ Xuân Hương4, và Văn chương Ngọc cho đời5. Trước câu hỏi này, tôi không nỡ im lăng, đối với một người lớp trẻ mà tôi chưa hề quen nhưng linh cảm là điều lành vì lời giải liên quan tới một chủ đề lớn. Thái sử công Tư Mã Thiên coi “Thư trả lời Nhâm An” là sự bộc bạch tâm sự của chính ông và hoàn cảnh cần sử ký để lưu lại. Tôi, Hoàng Kim, thầy nghề nông chiến sĩ, với bình sinh ý nguyện lại thích nghiệp ngọc văn chương, ham dạy và học tình yêu cuộc sống, giáo dục, văn hóa, khoa học cây trồng và du lịch Việt. Tôi trả lời Vũ Thùy Hương chính là viết Lời ngõ CNM365 Tình yêu cuộc sống https://hoangkimlong.wordpress.com web vừa hoàn thành.

1
CNM365 TÌNH YÊU CUỘC SỐNG

Vũ Thùy Hương <huongvu362006@gmail.com> đã viết:

Gửi ông Hoàng Kim. Cháu tên là Thùy Hương. Cho cháu gửi lời chào và lời hỏi thăm sức khỏe đến ông và gia đình.

Cháu biết đến ông qua bài viết “Phạm Minh Giắng thay lời Thúy Vân” trên blog hoangkimlong.worspress.com. Bản thân cháu là một học sinh học chuyên hóa nhưng có niềm yêu thích, đam mê với văn học. Không giấu gì ông, cháu rất thích nhân vật Thúy Vân trong truyện Kiều, dù không phải người hâm mộ Nguyễn Du nhưng cháu cũng tìm hiểu khá nhiều về truyện Kiều vì mong muốn được hiểu thêm về nhân vật cháu yêu thích. Cháu có tìm đọc được bài viết của ông trên web và đọc được các bài thơ, đặc biệt là bài thơ của ông Phạm Minh Giắng.

Cháu xin có đôi ba lời thắc mắc. Thoạt đầu khi đọc bài thơ cháu thấy khó chịu lắm, nghe cứ như mỉa mai, xỉa xói mắng mỏ nàng Vân là loại vô tri, vô tình. Nhưng cháu đọc đi đọc lại, đọc kĩ hơn. Cháu càng bối rối với ý nghĩa của bài thơ. Chưa dám bài luận gì nhiều vì sợ rằng suy nghĩ non nớt, chưa chạm đến được suy nghĩ tác giả. Cháu mong ông nếu nhận được email này sẽ giải đáp thắc mắc cho cháu.

Thân gửi,

Cháu Thùy Hương

Phạm Minh Giắng thay lời Thúy Vân, nguyên văn bài thơ ấy như sau

Thay lời Thúy Vân
Phạm Minh Giắng


Người đời thương cái duyên em
Kết hôn thay chị, chắc thèm tình yêu?
Em xin thưa tỏ đôi điều
Trời cho nhan sắc em nhiều phần xinh.

Vô tâm vụng tính, chút tình
Lấy người thương chị em mình…em nương
Giấc xuân giữa cảnh đau thương
Tình phần em sướng, hiếu nhường chị đeo.

Người ta yêu mộng mơ nhiều
Chồng mình ôm chặt mình yêu mặn nồng
Cảm ơn chị hiểu thấu lòng
Thương em, chị chẳng lòng thòng cố nhân


Cho em trọn chỗ ấm thân:
“Một cây cù mộc, một sân quế hòe”.
Cái em cần, nói em nghe,
Với em trăng gió màu mè bỏ đi


Em nào có tủi buồn chi
Tố Như thánh thiện nhầm gì chị ơi.”


Tôi, Hoàng Kim, hoàn toàn đồng tình với tâm sự này của anh Phạm Minh Giắng. Lới bình xin đọc Phạm Minh Giắng bạn tôi cuối bài này https://hoangkimlong.wordpress.com/category/van-chuong-ngoc-cho-doi/

Điều thật sự lạ lùng đó là bài thơ “Thay lới Thúy Vân” và “Thầy tôi” của anh Phạm Minh Giắng gửi cho tôi là hai di cảo thơ sau cùng tôi nhận được từ anh Giắng như một lời ký thác và tôi đã nâng niu quý trọng như một báu vật văn chương vô giá của anh Phạm Minh Giắng gửi cho tôi, ẩn tàng một nghiệp lực di sản cao vọi Ngọc cho đời, mà tôi viết rõ hơn ở phần 5

Ban mai chào ngày mới; #cltvn; A Na tìm được Ngọc; Tỉnh thức cùng tháng năm; ngày hôm nay chính thức chuyển pháp luân, tiếp nối hai trang web mà mười năm nay tôi đã cặm cụi để sớm hoàn thành trước ít ngày so với cuối năm CNM365 https://cnm365.wordpress.com Tình yêu cuộc sống https://hoangkimlong.wordpress.com Ký Tế xong rồi Vị Tế chưa xong chuyên đời luôn tiếp tục đi tới mãi.

2
TRUYỆN KIỀU, KIM VÂN KIỀU

Bấy lâu đáy biển tìm kim, Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa“.Truyện Kiều, Kim Vân Kiều là kiệt tác văn chương Việt bền vững với thời gian, là ẩn ngữ cuộc sống giữa đời thường. Nguyễn Du tư liệu quý; Linh Nhạc thương lời hiền; Trung Liệt đền thờ cổ; “Bang giao tập” Việt Trung; Nguyễn Du niên biểu luận giúp soi tỏ nhiều góc khuất. Tên sách Truyện “Thúy Kiều” sách Cương Mục triều Nguyễn viết: “Du rất giỏi về thơ, làm thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về, có tập thơ “Bắc hành” và truyện “Thúy Kiều” lưu hành ở đời”. Tên sách truyện “Thúy Kiều” biến cải Kim Vân Kiều nhiều tranh cãi, rồi Đoạn trường tân thanh, có bản kinh bản phường, rồi sách Nguyễn Du truyện “Thúy Kiều” rồi sách Truyện Kiều ngày nay. Vịnh Thúy Kiều (xem thêm Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ), nguyên mẫu Thúy Kiều là ai? bình sinh hành trang cuộc đời Thúy Kiều thế nào chưa giãi mã đầy đủ , Kim Trọng và Thúy Vân lại càng ít được giải mã hơn (so với truyện Nhị Kiều và hậu duệ hai bà ở Giang Đông thời Tam Quốc). Sách Nguyễn Du Truyên Thúy Kiều do Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo là chỉ dẫn văn bản trong sách “200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều”, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Giấy phép xuất bản số 698/CXB ngày 12/5/2005. 1998 trang, năm 2005, trang 392-397.và tài liệu “Trung Liệt đền thờ cổ” là chỉ dẫn địa lý nơi mà Nguyễn Du và em trai đã lập đền thờ cho những người Trung Liệt Nhà Hậu Lê ở 124 Thụy Khuê, Hà Nội khi Nguyễn Nể đi sứ cho nhà Tây Sơn được thành công trở về và dinh thự họ Nguyễn Tiên Điền ở Hà Nội được tu sửa khôi phục lại. “Kim Vân Kiều” bản phường, với Phạm Quý Thích (tên khác là Lê Quý Thích, người đã cắt máu ăn thề với vua Lê) có bài tựa tại đầu sách này.Truyện Thúy Kiều do Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo là một chỉ dấu tìm hiểu.

3
NGUYỄN DU TRĂNG HUYỀN THOẠI

1 Nguyễn Du thơ chữ Hán
Kiếm bút thấu tim Người,
Đấng danh sĩ tinh hoa,
Nguyễn Du khinh Thành Tổ,
Bậc thánh viếng đức Hòa

2 Nguyễn Du tư liệu quý
Linh Nhạc thương người hiền,
Trung Liệt đền thờ cổ,
“Bang giao tập” Việt Trung,
Nguyễn Du niên biểu luận

3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương
“Đối tửu” thơ bi tráng,
“Tỏ ý” lệ vương đầy,
Ba trăm năm thoáng chốc,
Mại hạc vầng trăng soi.

4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ
Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”,
Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”,
Bến Giang Đình ẩn ngữ,
Thời biến nhớ người xưa.

5 Nguyễn Du thời Tây Sơn
Mười lăm năm tuổi thơ,
Mười lăm năm lưu lạc,
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ,
Tình hiếu thật phân minh

6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều
Câu cá và đi săn,
Ẩn ngữ giữa đời thường,
Nguyễn Du ức gia huynh,
Hành Lạc Từ bi tráng

7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn
Mười tám năm làm quan,
Chính sử và Bài tựa,
Gia phả với luận bàn.
Bắc hành và Truyện Kiều

8 Nguyễn Du tiếng tri âm
Hồ Xuân Hương là ai,
Kiều Nguyễn luận anh hùng,
Thời Nam Hải Điếu Đồ,
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ

9 Nguyễn Du trăng huyền thoại
Đi thuyền trên Trường Giang,
Tâm tình và Hồn Việt,
Tấm gương soi thời đại.
Mai Hạc vầng trăng soi,

Cuộc đời và tác phẩm Nguyễn Du là sử thi soi thấu thời Hậu Lê Trịnh, thời Tây Sơn và thời đầu triều Nguyễn. Sự thấu hiểu nhân cách, tài năng, bình sinh, hành trạng, bối cảnh lịch sử, phép ứng xử và thời vận của từng nhân vật giúp sự hiểu sâu hiểu đúng và dự ngôn đúng. Lối kiến giải “Thay lời Thúy Vân” của Phạm Minh Giắng ‘trực chỉ chân tâm’ đi thẳng vào lòng người nên dự cảm hợp lý và đúng đắn. Dẫu vậy việc đọc rộng thêm những sự thật lịch sử được giải mã trên đây góp phần cũng cố vững chắc thêm nền tảng tư tưởng và tuệ giác.

4
NGUYỄN DU HỒ XUÂN HƯƠNG

Nguyên mẫu Thúy Kiều là ai? Nguyên mẫu Thúy Vân là ai? Mời đọc Nguyễn Du Hồ Xuân Hương và những suy luận kiến giải liên quan.

Nguyễn Du (1776-1820) không chịu theo Nguyễn Huệ như Ngô Thì Nhậm. Ông cũng không sớm theo Nguyễn Ánh như Đặng Trần Thường mà chỉ chấp nhận ra làm quan với triều Gia Long sau mười lăm năm lưu lạc (1781-1796) trong đó có năm năm làm Nam Hải điếu đồ (người đi câu ở biển Nam 1791-1796). Nguyễn Du là người trong cuộc. Ông biết rõ Mẫn Đế bị nhà Đại Thanh bán đứng, và ông đã làm Mai Hạc vầng trăng soi, là ẩn ngữ của Nguyễn Du lưu lại. Nguyễn Du cũng đã trãi qua thời Hồng Sơn Liệp Hộ (người đi săn ở núi Hồng 1797- 1802) Ông biết rõ cơ trời, thế nước khó có thể làm gì khác hơn. Nguyễn Du cuộc đời sau mười lăm năm lưu lạc và sau năm năm thời Hồng Sơn Liệp Hộ đã chọn làm nhà hiền triết giữa đời thường và giữa chốn quan trường. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802-1820) làm Tri huyện Sơn Nam, Cai bạ Quảng Bình, Hàn Lâm Đại học sĩ, Chánh sứ triều Nguyễn sang sứ nhà Thanh, và làm Hữu Tham Tri Bộ Lễ (tương đương với các chức vụ ngày nay là Chủ tịch huyện, Tỉnh trưởng, Bộ trưởng Giáo dục, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Văn phòng Phủ Thủ tướng; và cố vấn cao cấp cho Chủ tịch Nước/ Tổng Bí Thư thời nay). Nguyển Du viết sách “Bắc Hành” và “Truyện Thúy Kiều” là kiệt tác ngoại giao và sử thi.

Thúy Kiều là nguyên mẫu của Hồ Phi Mai (bút hiệu Hồ Xuân Hương) một nhân vật có thật trong lịch sử. Bài viết này tóm tắt năm luận điểm chính: 1) “Đối tửu” thơ bi tráng 2)“Tỏ ý” lệ vương đầy; 3) Ba trăm năm thoáng chốc; 4) Mai Hạc vầng trăng soi. 5) Nguyễn Du niên biểu luận (sự kiện thời thế và cuộc đời Nguyễn Du theo từng năm về bình sinh hành trạng Nguyễn Du)

ĐỐI TỬU THƠ BI TRÁNG

Đối tửu
Nguyễn Du

Bên cửa xếp bằng ngất ngưởng say
Cánh hoa rơi phủ thảm rêu đầy
Sống chưa vơi nửa lưng ly rượu
Chết hỏi rằng ai tưới mộ đây?
Xuân đã xa dần oanh bỏ tổ
Tháng năm bàng bạc tóc màu mây
Trăm năm chỉ ước say mềm mãi
Thế sự bèo mây…ngẫm đắng cay

(Bản dịch thơ của Hoa Huyền)

對酒

趺坐閒窗醉眼開,
落花無數下蒼苔。
生前不盡樽中酒,
死後誰澆墓上杯。
春色霑遷黄鳥去,
年光暗逐白頭來。
百期但得終朝醉,
世事浮雲眞可哀。

Đối tửu
Nguyễn Du

Phu toạ nhàn song tuý nhãn khai,
Lạc hoa vô số há thương đài.
Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,
Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi ?
Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,
Niên quang ám trục bạch đầu lai.
Bách kỳ đãn đắc chung triêu tuý,
Thế sự phù vân chân khả ai.

Dịch nghĩa

Ngồi xếp bằng tròn trước cửa sổ, rượu vào hơi say mắt lim dim,
Vô số cánh hoa rơi trên thảm rêu xanh.
Lúc sống không uống cạn chén rượu,
Chết rồi, ai rưới trên mồ cho ?
Sắc xuân thay đổi dần, chim hoàng oanh bay đi,
Năm tháng ngầm thôi thúc đầu bạc.
Cuộc đời trăm năm, chỉ mong say suốt ngày.
Thế sự như đám mây nổi, thật đáng buồn.

“Đối tửu” của Nguyễn Du là bài thơ thật bi tráng của bậc anh hùng, trong tình thế cùng cực.

Bản đồ Hình thế Đại Việt đàng Trong và đàng Ngoài năm 1760 (vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam) và các thông tin chi tiết đã xác định rõ Nguyễn Du từ năm Tân Sửu (1781) lúc mười sáu tuổi đã làm Chánh Thủ hiệu quân Hùng Hậu ở Thái Nguyên. Trước đó Nguyễn Du đã được danh tướng Hoàng Ngũ Phúc tặng bảo kiếm và Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến tướng trấn thủ Thái Nguyên ( tướng tâm phúc thân tùy của Nguyễn Nhiễm với tên gọi Hà Mỗ trong Gia Phả họ Nguyễn Tiên Điền) nhận làm cha nuôi Nguyễn Du. Tướng trấn thủ Sơn Tây là Nguyễn Điền là anh cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du, Tướng trấn nhậm Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ đều là học trò Nguyễn Nhiễm. Bắc Hà là đất tổ nghiệp của nhà Nguyễn Tiên Điền. Thế lực họ Nguyễn Tiên Điền với Nguyễn Nhiễm làm Tể tướng. Sau khi Nguyễn Nhiễm mất, đến năm 1783 Nguyễn Khản kế tiếp công nghiệp của cha, đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng, Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa. Anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ (sinh 1761) đỗ đầu thi Hương ở điện Phụng Thiên, được bổ thị nội văn chức, khâm thị nhật giảng, sung Nội Hàn Viện cung phụng sứ, phó tri thị nội thư tả lại phiên, Thiên Thư Khu mật viện Đức Phái hầu, cai quản đội quân Phấn Nhất của phủ Chúa. Vừa lúc Thuận Châu khởi binh, phụng sai hiệp tán quân cơ của đạo Sơn Tây. Nhà Nguyễn Tiên Điền thực sư hùng mạnh “gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà” “năm năm hùng cứ một phương hải tần” (1781- 1786) “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” . Vua Lê và chúa Trịnh do sự chia rẽ đặc biệt nghiêm trọng thời thái tử Lê Duy Vĩ (cha của vua Lê Chiêu Thống) và chúa Trịnh Sâm.Thái tử Lê Duy Vĩ đã bị Trịnh Sâm bức hại mà chết và ba con bị giam cầm 15 năm. Đến thời loạn kiêu binh vua Lê Chiêu Thống (tên thật là Lê Duy Kỳ con trai của Lê Duy Vĩ) quyết nắm lại thực quyền thì Nguyễn Hữu Chỉnh đã rước quân Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất năm 1787 gieo kế li gián khiến nhà Nguyễn Tiên Điền bị nghi ngờ không được vua Lê dùng nên Nguyễn Huệ mới ra Bắc thành công.

Ở đằng Ngoài, năm 1987 Nguyễn Huệ theo kế Nguyễn Hữu Chỉnh bất ngờ đánh ra Nghệ An và thuận thời đột kích Thăng Long thắng lợi, chiếm được Bắc Hà mà không kịp xin lệnh Nguyễn Nhạc, sau đó Nguyễn Huệ cưới công chúa Lê Ngọc Hân con vua Lê Hiển Tông. Nguyễn Nhạc với quyết sách tạo thành hai nước Bắc Nam hòa hiếu đằng Trong đằng Ngoài nên đã cấp tốc ra Bắc, thay đổi tướng hiệu và cùng Nguyễn Huệ về Nam. Vua Lê Chiêu Thống dùng mưu thần Nguyễn Hữu Chỉnh và trung thần Lê Quýnh đuổi Trịnh Bồng quyết giành lại thực quyền từ tay nhà chúa, sau đó tiếp tục mưu việc giành lại Nghệ An. Tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm con rể Nguyễn Nhạc trấn thủ Quảng Bình đã cùng Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân theo lệnh Nguyễn Huệ kéo đại quân ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh. Vua Lê Chiêu Thống trốn chạy vào rừng ở Yên Thế Thái Nguyên Tuyên Quang chống lại Tây Sơn. Vũ Văn Nhậm không bắt được Lê Chiêu Thống nên đã lập chú vua là Lê Duy Cận làm Giám Quốc. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân kỵ gấp đường ra Thăng Long, nửa đêm đến nơi bắt Vũ Văn Nhậm giết đi, đổi đặt quan quân, đặt quan lục bộ và các quan trấn thủ, vẫn để Lê Duy Cẩn làm Giám Quốc, chủ trương việc tế lễ để giữ tông miếu tiền triều, dùng Ngô Thì Nhậm làm Lại bộ tả thị lang, cùng bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc Hà, còn Nguyễn Huệ thì trở về Nam. Mẹ vua Lê Chiêu Thống đã cầu xin nhà Thanh viện binh giúp vua Lê phục quốc. Vua Càn Long lợi dụng tình hình cho Tôn Sĩ Nghị, Ô Đại Kinh, Sầm Nghi Đống ba cánh quân của Lưỡng Quảng, Quý Châu – Vân Nam, Điền Châu chia đường sang cứu viện và nhân tiện cướp Đại Việt. Quân Thanh vào đến Thăng Long đã theo kế Càn Long lập Lê Chiêu Thống lên làm An Nam quốc vương để chống lại nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ tại Phú Xuân nhận được tin cấp báo đã lên ngôi Hoàng Đế để chính danh phận và lập tức kéo quân ra Bắc. Nhà Nguyễn Tiên Điền và những cựu thần nhà Lê trừ số theo vua bôn tẩu ra ngoài đều không được vua Lê tin dùng vì Nguyễn Khải anh Nguyễn Du vốn và thầy chúa Trịnh mà họ Trịnh có thù rất sâu nặng giết cha giam con đối với chính vua Lê Chiêu Thống. Nguyễn Huệ dụng binh như thần, khéo chia rẽ và mua chuộc nên nhiều cựu thần nhà Lê như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, và kể cả Nguyễn Nễ là anh trai Nguyễn Du và Đoàn Nguyễn Tuấn là anh vợ Nguyễn Du đều lần lượt ra làm quan với nhà Tây Sơn. Riêng Nguyễn Du thì không ra. Năm Kỷ Dậu (1789) Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Sầm Nghi Đống tự sát ở gò Đống Đa, Tôn Sĩ Nghị tháo chạy về Bắc, cánh quân của Ô Đại Kinh rút chạy, Đồn Ngọc Hồi với toàn bộ quân Thanh và danh tướng Hứa Thế Hanh giữ đồn này đều bị diệt. Vua Quang Trung chiều ngày 5 Tết đã khải hoàn ở kinh thành Thăng Long. Các anh của Nguyễn Du ra làm quan với nhà Tây Sơn. Phủ đệ của họ Nguyễn Tiên Điền bên hồ Tây được sửa lại. Nguyễn Huệ sau khi đại phá quân Thanh, bằng mưu kế ngoại giao của nhà Tây Sơn với vua Càn Long nên được phong làm An Nam quốc vương, Lê Chiêu Thống phát động cuộc chiến ở tây Nghệ An và Trấn Ninh, Lào nhưng bị thua bởi danh tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu. Vua Lê cũng bị bại ở trận chiến Cao Bằng Tuyên Quang do quân mỏng lực yếu. Vua Lê Chiêu Thống và các trung thần tiết nghĩa nhà hậu Lê đã bị “bán đứng” bởi vua Càn Long và tướng Phúc Khang An do bí mật kho báu ở đỉnh Tuyết Sơn núi Tuyết (mời đọc Kho báu đỉnh Tuyết Sơn). “Nhà vua bị người ta lừa gạt, bị giám buộc ở quê người đất khách, đến nỗi lo buồn phẫn uất, ôm hận mà chết, thân dẫu chết, nhưng tâm không chết, kể cũng đáng thương! (trích lời phê của vua Tự Đức).

Ở đằng Trong, nhân lúc Bắc Hà biến loạn, Nguyễn Huệ phải lo đối phó từ hai phía, vua Lê trốn vào rừng và phát chiếu cần vương, quân Thanh có thể can thiệp bất cứ lúc nào, Nguyễn Ánh công phá và bình định Sài Gòn – Gia Định ngày Đinh Dậu tháng 8 năm Mậu Thân (9.1788). Đông Định Vương Nguyễn Lữ bị rơi vào mưu kế chia rẽ của Nguyễn Ánh đối với Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ nên đã phải rút chạy về Quy Nhơn. Phạm Văn Tham tướng Nguyễn Nhạc lui về giữ những điểm trọng yếu ở Ba Thắc và Biên Hòa, đồng thời cấp báo về Quy Nhơn xin viện binh. Nguyễn Nhạc không dám phát binh vì sợ Nguyễn Ánh thừa cơ mang thủy quân ra đột kích miền Trung. Nguyễn Vương nhân cơ hội này đã đánh rộng ra chiếm trọn Nam Bộ. Thất bại chiến lược này của nhà Tây Sơn do trước đó, năm 1787 Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đã bất hòa rất nghiêm trọng về việc Nguyễn Huệ chống đối Nguyễn Nhạc không chịu sung vào quân lương số vàng bạc châu báu rất lớn mà quân Bắc Bình Vương đã cướp được từ kho chúa Trịnh, đồng thời Nguyễn Huệ đòi quyền quản lý Quảng Nam. Nguyễn Nhạc uất ức chán nản vì em của ông tuy tài trí xuất chúng đánh giỏi và cơ trí hơn người nhưng mãnh liệt hung bạo và khó chế ngự, không còn tin theo phương lược của ông là chỉ nên tranh hùng với chúa Nguyễn ở đất phương Nam mà tạm thời chưa dòm ngó phương Bắc vì cựu thân tôn phò nhà Lê còn rất mạnh. Nhà Thanh lại ủng hộ nhà Lê. Mầm họa nhà Tây Sơn tăng dần và sự bất hòa này đã bị Nguyễn Ánh triệt để lợi dụng. Nguyễn Ánh lợi dụng tình hình Bắc Hà rối loạn nên đã chiếm trọn đất phương Nam.

Nguyễn Du cùng Lê Quýnh dựng cờ phù Lê, vận động ngoại giao xin chiếu vua Càn Long, liên thủ với vùng Nam Trung Quốc và Nghệ Tĩnh, giao kết kẻ sĩ, xây dựng lực lượng, trầm tĩnh theo chuyển biến thời cuộc để chớp thời cơ hành động. Nguyễn Du sau khởi nghĩa Tư Nông thất bại ông đã sang căn cứ Nam Trung Quốc thực hiện việc vận động ngoại giao. Nguyễn Du năm ấy đi lại giữa Thăng Long, Quảng Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Nghệ An nhưng đang là lúc “ngọa hổ tàng long” nên Nguyễn Du hành tung bí mật, rất ít lộ diện. Những sử liệu dưới đây cho thấy các địa điểm ẩn hiện của ông: Trong “Lê Quý Kỷ Sự” của Nguyễn Thu có nói đến cuộc khởi nghĩa tại Tư Nông của cựu Trấn Thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến, tước Quản Vũ Hầu, bị tướng Tây Sơn bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm. Nhậm trọng sự khí khái nên dụ hàng, sau đó cũng tha bổng và cho phép muốn đi đâu thì đi. Họ đi sang Vân Nam. Nguyễn Quýnh quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi, dinh thự và làng Tiên Điền bị đốt sạch. Đến Vân Nam, Nguyễn Du bị bệnh ba tháng mùa xuân. Hết bệnh, họ đi Liễu Châu và chia tay, Nguyễn Đại Lang về thăm quê nhà vùng Quế Lâm, cao sơn lưu thủy. Nguyễn Du đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc trong áo mũ nhà sư mang danh Chí Hiên, từ Quảng Tây theo thuyền đi dọc sông và Hồ Động Đình đến Hán Khẩu, rồi theo sông Hán rồi lên Trường An viết bài Dương Quý Phi, Bùi Tấn Công mộ, Phân Kinh thạch đài, rồi lại theo kinh Đại Vận Hà đến Hàng Châu. Năm 1790 Nguyễn Du cư ngụ tại chùa Hổ Pháo bên Tây Hồ, tại Hàng Châu, nơi Từ Hải tức Minh Sơn Hoà thượng từng tu hành, trước khi đi giang hồ thành cướp biển. Nguyễn Du tại đây có được bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Ông gặp lại Nguyễn Đại Lang tại miếu Nhạc Phi cũng bên cạnh Tây Hồ. Chính nơi đây Nguyễn Du viết 5 bài thơ, một bài Nhạc Phi, hai bài Tần Cối và hai bài Vương Thị, sau đó Nguyễn Du cùng Nguyễn Đại Lang đi Yên Kinh gặp vua Lê Chiêu Thống, và trở về Hàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn cùng với sứ đoàn Tây Sơn tại một lữ quán. Tại đây, Nguyễn Du bàn chuyện về hồng nhan đa truân và Đoàn Nguyễn Tuấn đã viết hai bài thơ tặng văn nhân họ Nguyễn. Nguyễn Du về Long Châu và trở về Thăng Long. Ba năm 1791-1793, Nguyễn Du ở với Nguyễn Nể, đang làm quan Tây Sơn tại Bắc Thành giữ chức Hàn Lâm thị thư, sung chức Phó sứ tuế công. Năm 1791, Nguyễn Nễ đi sứ về, đã xây dựng lại một phần dinh thự Bích Câu, tại đây Nguyễn Du nghe cô Cầm, người nhạc nữ cũ cung vua Lê đánh đàn. Nguyễn Du không chịu ra làm quan nhà Tây Sơn khi vua Lê Chiêu Thông đã bị nhà Thanh dùng kế ‘bán đứng”. Ông cam lòng ẩn nhẫn câu cá làm “Nam Hải điếu đồ” tại ao vườn của anh là Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân. Chính nơi đây, Nguyễn Du cùng Xuân Hương (tức Hồ Phi Mai) có ba năm vẹn 1790-1992 sống cùng nhau để trầm tĩnh nhìn thời thế biến chuyển. Câu chuyện luận anh hùng của họ là trong thời điểm này. Những ẩn ngữ Lưu Hương ký và Truyện Thúy Kiều, Nhân vật Từ Hải và Thúy Kiều chính là từ hình mẫu của Nguyễn Du và Hố Xuân Hương. Cuối năm 1793 Nguyễn Du vào Phú Xuân tìm cách giúp cho hai anh Nguyễn Nễ và Đoàn Nguyễn Tuấn thoát ra khỏi họa diệt tộc khỏi dính líu quá sâu vào triều Tây Sơn, khi Nguyễn Du đã đọc nghìn lần kinh Kim Cương và đã nhìn thấy mối họa khó bề cứu vãn của triều đại Tây Sơn.

Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương luận anh hùng” thể hiện rõ nét qua “Truyện Thúy Kiều” và “Lưu Hương Ký” Hồ Xuân Hương viết: “Ngước mắt trông lên thấy bảng treo. Kìa đền Thái thú đứng cheo leo. Ví đây đổi phận làm trai được. Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu” “Giương oai giễu võ thật là kinh. Danh tiếng bao lăm đã tận rồi. Thoáng ngửi thoáng ghê hơi hương lửa. Tài trí ra sao hỏi tính tình”. Hồ Xuân Hương căm ghét quyết liệt đối với cái ác, cái xấu, vô văn hóa, giả đạo đức, mất nhân tính. Bà căm ghét khinh bỉ những kẻ tính tình hung bạo thủ đoạn nham hiểm, liên tưởng tới dòng họ Nguyễn Du ở Tiên Điền bị quân Tây Sơn sát hại toàn gia tộc sau khởi nghĩa thất bại của Nguyễn Quýnh năm 1791 ở tây Nghệ An, bị truy sát đến Trấn Ninh và liên lụy đến vua Lào và đại tướng Lào . Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương luận anh hùng qua đối thoại của Từ Hải và Thúy Kiều: “Thưa rằng: Lượng cả bao dong/ Tấn Dương được thấy mây rồng có phen/ Rộng thương cỏ nội hoa hèn/ Chút thân bèo bọt, dám phiền mai sau!/ Nghe lời vừa ý gật đầu/ Cười rằng tri kỷ trước sau mấy người/ Khen cho con mắt tinh đời /Anh hùng đoán giữa trần ai mới già/ Một lời đã biết đến ta/ Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau/ Hai bên ý hợp tâm đầu/ Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân/ Ngõ lời cùng với băng nhân/ Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn/ Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn/ Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên/ Trai anh hùng gái thuyền quyên/ Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.”

TỎ Ý” LỆ VƯƠNG ĐẦY

“Tỏ ý”,“Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là kiệt tác thơ tình yêu của Hồ Xuân Hương thuộc dạng thơ hát nói (ca trù/ ví dặm ân tình). Hồ Xuân Hương đã “Tỏ ý” với Nguyễn Du. Chuyện tình cảm động Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương thể hiện rõ nét trên tác phẩm Lưu Hương Ký, di cảo đích thực của Hồ Xuân Hượng tại bài “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương tặng Mai Sơn Phủ Nguyễn Du.

TỎ Ý
Hồ Xuân Hương tặng Mai Sơn Phủ (Nguyễn Du)
(Bản dịch của Hoàng Kim)

Hoa rung rinh,
Cây rung rinh,
Giấc mộng cô đơn nhớ hương tình,
Đêm xuân bao cảm khái.

Hươu nơi nao
Nhạn nơi nao
Mình ước trong nhau ban mai nào
Lòng em thương nhớ ai thấu sao!

Sông mênh mông
Nước dạt dào
Lòng hai chúng mình đều ao ước
Nước mắt thầm rơi mặn chát.

Thơ thương thương,
Lòng vương vương,
Ấm lạnh lòng ai thấu tỏ tường,
Bút người tả xiết chăng?

Mây lang thang
Trăng mênh mang
Trăng gió xui ai luống đoạn tràng
Đâu là gác Đằng Vương ?

Mây vương vương
Nước sương sương
Mây nước chung nhau chỉ một đường
Dặm trường cách trở thương càng thương.

Ngày thênh thênh,
Đêm thênh thênh,
Đêm ngày khắc khoải nhớ thương anh,
Người ơi đừng lỡ hẹn sai tình.

Gió bay bay
Mưa bay bay
Mưa gió giục em viết thơ này
Bút xuân gửi đến người thương nhớ

Anh đồng lòng
Em đồng lòng
Mộng hồn tương luyến liễu hoa âm (*)
Thơ cùng ngâm
Rượu và trăng
Thăm thẳm buồn ly biệt
Vầng trăng chia hai nữa
Cung đàn ly khúc oán tri âm (**),
Thôi đành bặt tiếng hồ cầm
Núi cao biển sâu đằng đẳng
Xin chớ tủi buồn mà than cổ kim.

Chàng hẹn gì
Ta hẹn gì
Hai ta đều muộn nói năng chi
Trà mà chi
Bút mà chi
Lời và chữ còn đó
Ai là kẻ tình si
Hiểu nhau trong dạ khó khăn gì
Hãy nên trao gửi mối duyên đi
Lòng son ai nỡ phụ.

Hồ Xuân Hương (Hồ Phi Mai) với ngón hồ cầm tuyệt diệu hát nói ca trù chính là Thúy Kiều gẩy đàn cho Kim Trọng nghe “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như nước suối vừa sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài. Tiếu mau sầm sập như trời đổ mưa. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ. Khiến người ngồi đấy cũng ngơ ngẫn sầu. Khi tựa gối khi cúi đầu. Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày” (Truyện Kiều, Nguyễn Du). Truyện Thúy Kiều soi thấu những góc khuất của Lưu Hương Ký và ngược lại.

Hồ Xuân Hương với kiệt tác Lưu Hương Ký có một bài thơ khác đã xác nhận thơ bà viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu chính là Nguyễn Du.

NHỚ CHUYỆN CŨ
Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu

感舊兼呈勤政學士阮侯 – Nhớ chuyện cũ viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu (*).

Hồ Xuân Hương

Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu mấy,
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.

(*) Sau đầu đề trên, tác giả có chú: “Hầu, Nghi Xuân, Tiên Điền nhân” 侯宜春仙田人 (Hầu người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân). Như vậy, ở đây Nguyễn Hầu đúng là Nguyễn Du tiên sinh. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền ghi rõ mùa hè năm Kỉ Tỵ (1809), Nguyễn Du được bổ làm cai bạ Quảng Bình. Tháng 2 năm Quý Dậu (1813) ông được phong Cần chánh điện học sĩ, rồi được cử làm chánh sứ đi Trung Quốc tuế cống.

Kiều – Nguyễn Du
Ca trù hát nói Việt Nam

Non xanh xanh

Nước xanh xanh
Sớm tình tình sớm, trưa tình tình trưa
Áy ai tháng đợi năm chờ
Mà người ngày ấy bây giờ là đây…

Hồng Hồng Tuyết Tuyết ca trù hát nói tinh hoa cổ văn chương Việt) NS Quách Thị Hồ

Nguyên tác:




鹿








































Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ

Hoa phiêu phiêu,
Mộc tiêu tiêu,
Ngã mộng hương tình các tịch liêu,
Khả cảm thị xuân tiêu.

Lộc ao ao,
Nhạn ngao ngao,
Hoan thảo tương kỳ tại nhất triêu,
Bất tận ngã tâm miêu.

Giang bát bát,
Thủy hoạt hoạt,
Ngã tứ quân hoài tương khế khoát,
Lệ ngân chiêm hạ cát.

Thi tiết tiết,
Tâm thiết thiết,
Nồng đạm thốn tình tu lưỡng đạt,
Dã bằng quân bút phát.

Phong ngang ngang,
Nguyệt mang mang,
Phong nguyệt linh không khách đoạn tràng,
Hà xứ thị Đằng Vương?
Vân thương thương,
Thuỷ ương ương,
Vân thuỷ na kham vọng nhất trường,
Nhất trường dao vọng xúc hoài mang.

Nhật kỳ kỳ,
Dạ trì trì,
Nhật dạ thiên hoài lữ tứ bi,
Tứ bi ưng mạc ngộ giai kỳ.

Phong phi phi,
Vũ phi phi,
Phong vũ tần thôi thái bút huy,
Bút huy đô thị phó tình nhi.

Quân hữu tâm,
Ngã hữu tâm,
Mộng hồn tương luyến liễu hoa âm.
Thi đồng ngâm,
Nguyệt đồng châm.
Nhất tự sầu phân ly,
Hà nhân noãn bán khâm.
Mạc đàn ly khúc oán tri âm,
Trực tu khí trí thử dao cầm.
Cao sơn lưu thuỷ vãn tương tầm,
Ưng bất hận ngâm thán cổ câm.

Quân hà kì,
Ngã hà kì,
Lữ đình lai đắc lưỡng thê trì.
Dánh tần phi,
Bút tần huy,
Nhất trường đô bút thiệt,
Hà xứ thị tình nhi?
Hảo tư tâm thượng các tương tri,
Dã ưng giao thác thử duyên đề,
Phương tâm thệ bất phụ giai kỳ.

Bài từ theo điệu Ức Giang Nam.

Kể ý mình và trình bạn là Mai Sơn Phủ

Hoa xiêu xiêu
Cây xiêu xiêu
Giấc mộng tình quê thảy tịch liêu
Đêm xuân cảm khái nhiều.

Hươu ao ao
Nhạn ngao ngao
Vui sướng hẹn nhau một sớm nào
Tả hết được tình sao!

Sông bát ngát
Nước ào ạt
Ý thiếp lòng chàng cũng vu khoát
Lệ rơi thêm mặn chát.

Thơ da diết
Lòng thê thiết
Đậm nhạt tấc lòng ai thấu hết
Liệu bút chàng tả xiết?

Mây lang thang
Trăng mênh mang
Trăng gió xui ai luống đoạn tràng
Đâu là gác Đằng Vương?
Mây tơ vương
Nước như sương
Mây nước trôi đâu chỉ một đường
Một đường xa khuất rộn lòng thương

Ngày chậm rì
Đêm chậm rì
Sáng tối chạnh buồn lữ khách si
Nhớ thương đừng lỡ hẹn, sai kì.

Mưa trôi đi
Gió trôi đi
Mưa gió giục hoài cất bút thi (thơ)
Viết thi gửi tới khách “tình si”

Chàng có tâm
Thiếp có tâm
Mồng hồn lưu luyến bóng hoa râm
Thơ cùng ngâm
Rượu cùng trăng
Tự lúc buồn chia biệt
Ai người ấm nửa chăng?
Chớ đàn li khúc oán tri âm,
Đành xem như hết tiếng dao cầm
Hẹn nhau nơi non nước muộn mằn!
Chớ buồn mà than thở cổ câm (kim).

Chàng hẹn gì
Ta hẹn gì
Hai ta đều muộn, nói mà chi
Trà mà chi
Bút mà chi
Cũng là thiên lí cả
Ai là kẻ tình nhi
Hiểu nhau trong dạ khó khăn gì
Hãy nên trao gửi mối duyên đi
Lòng son ai nỡ phụ giai kì.

(Bản dịch của Đào Thái Tôn)

Tham khảo: Bản sao từ bản chép tay của Nguyễn Văn Hoàn, do Nguyễn Xuân Diện cung cấp Bài thơ Vịnh Hà Long của Hồ Xuân Hương là một tuyệt phẩm. Di sản văn hóa thế giới Hạ Long cho đến nay có lẽ chưa có tác phẩm văn chương nào viết về vịnh Hạ Long của Việt Nam và thế giới ngời sáng hơn bài thơ này:

VỊNH HẠ LONG
Hồ Xuân Hương

Lá buồm thủng thỉnh vượt Hoa Phong.
Đá dựng bờ son mọc giữa dòng.
Dòng nước lần theo chân núi chuyển,
Mình lèn nghiêng để lối duyềnh thông.
Cá rồng lẩn nấp hơi thu nhạt,
Âu lộ cùng bay bóng xế hồng.
Băm sáu phòng mây cùng động ngọc,
Đâu nào là cái Thuỷ Tinh cung?

(Bản dịch thơ của Hoàng Xuân Hãn)








Độ Hoa Phong

Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong,
Tiễu bích đan nhai xuất thủy trung.
Thủy thế mỗi tùy sơn diện chuyển,
Sơn hình tà kháo thủy môn thông.
Ngư long tạp xử thu yên bạc,
Âu lộ tề phi nhật chiếu hồng.
Ngọc động vân phòng tam bách lục
Bất tri thùy thị Thủy Tinh cung.

Dịch nghĩa

Lá buồm không vội vượt qua vũng Hoa Phong,
Vách đá đứng, sườn núi đỏ, giữa nước chỏi dựng lên.
Thế nước tuỳ chỗ theo mặt núi mà biến chuyển.
Hình núi nghiêng mình, nép tựa cửa lạch để nước thông qua.
Cá rồng lẫn lộn, tăm khuất dưới từng hơi nước mỏng mùa thu.
Âu cò cùng ban trong ánh đỏ mặt trời chiều.
Cõi Tiên có ba trăm sáu động ngọc và phòng mây,
Đây không biết chốn nào là cung Thủy Tinh.

Bài thơ Miếu Sầm Thái Thú  ở bản khắc 1922 chữ “lên” khác với chữ “ngang” ở các bản khắc sau cũng là một câu chuyện sử thi thú vị.

MIẾU SẦM THÁI THÚ

Ghé mắt trông lên thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

(Bản khắc 1922) chữ “lên” khác với chữ “ngang” ở các bản khắc sau.

Nguồn: Kiều Thu Hoạch, Thơ nôm Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học, 2008

Đặc trưng nổi bật nhất trong thơ Hán Nôm của Hồ Xuân Hương là nghệ thuật thơ Hán Nôm đặc biệt điêu luyện, sánh ngang những kiệt tác thơ Trung Hoa thời Thịnh Đường. Thơ Hán Nôm của Hồ Xuân Hương hàm súc sâu sắc hiếm thấy, trong thơ có nhạc, chuyển tải sử thi văn hóa giáo dục tài tình và khiêm nhu hiền lành rất mực.

Hồ Xuân Hương kiệt tác thơ Hán Nôm, ba bài yêu thích nhất, đọc lại và suy ngẫm.

BA TRĂM NĂM THOÁNG CHỐC
Hoàng Kim

Ôi
tâm phúc tương tri
Bốn biển không nhà
Kiều Nguyễn biệt ly
Bởi Nguyễn thương Kiều
Sợ theo thêm bận.
Thương Kiều Nguyễn Du
Sao chẳng đi cùng
Để việc trăm năm
Nghìn năm di hận?
Truyện Kiều Nguyễn Du
Bài học muôn đời.

ĐỐI TỬU HỌA THƠ CỤ TỐ NHƯ
Ba trăm năm nữa chốc mòng
Biết ai thiên hạ khóc cùng Tố Như (*)

Hoàng Kim

Sớm xuân trời quang vạn sự khai,
Thung dung lướt web lắng nghe đài.
Đêm thiêng nhớ Cụ lòng không ngủ,
Ngày mới thương Kiều ước giao bôi (**).
Danh sĩ tinh hoa phước Nam Hải,
Người hiền tâm sáng đức Như Lai.
Nước biếc mai vàng vui chí thiện,
Hoa Người Hoa Đất nhớ thương ai.

Ghi chú:
(*) thơ Cụ Nguyễn Du, nguyên vận bài “Đối tửu” và thơ họa của những người bạn. Tiểu Thanh là một người con gái tài sắc sống vào thời nhà Minh ở tỉnh Chiết Giang, làm lẽ cho một người họ Phùng. Vợ cả ghen, đuổi lên sống trong một ngôi nhà nhỏ trên núi, nàng buồn đến chết ở đó, khi chưa đầy 20 tuổi, nay vẫn còn mộ. Khi nàng chết, vợ cả chưa hết ghen tức, còn đem đốt những gì Tiểu Thanh viết. Nguyễn Du đọc được những bài thơ còn sót lại của nàng, mới xúc động làm bài thơ này. Ở câu cuối, xưa nay người ta hiểu: Nguyễn Du sống cách Tiểu Thanh ba trăm năm, vì thế ông mới hỏi, ba trăm năm sau, có ai thương xót ông mà nhỏ lệ. Đọc thêm lời bình của Nguyễn Sĩ Đại: Hiểu thêm về câu thơ “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” Báo Nhân Dân 2006.

(**) Hồ Xuân Hương là Hồ Phi Mai là tác giả “Lưu Hương Ký” trong đó có bài “Tỏ Ý” nổi tiếng tặng Nguyễn Du là Nguyễn Hầu biệt hiệu Mai Sơn Phủ.

MAI HẠC VẦNG TRĂNG SOI

Hồ Xuân Hương ngưỡng mộ Nguyễn Du là bậc anh hùng, danh sĩ tinh hoa, minh triết, trí tuệ, đảm lược, khí phách thể hiện qua câu Thúy Kiều nói với Từ Hải “Thưa rằng: lượng cả bao dong. Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”. Nguyễn Du là anh hùng danh sĩ tinh hoa có khí phách, đảm lược như vua Tấn Văn Công đã bôn ba, chịu hoạn nạn, “bốn biển không nhà” như tích Tấn Dương xưa. Hồ Xuân Hương thương Nguyễn Du long đong chìm nổi bị người đời và lịch sử thị phi vì “bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn” làm một tôi trung của nhà Lê, cam chịu cảnh mười lăm năm lưu lạc, Nguyễn Du hé lộ “Truyện Kiều”, “Bắc Hành tạp lục” chứa một trời tâm sự, trao lại ngọc cho đời. Hồ Xuân Hương “sắc sảo mặn mà” tri âm tri kỷ, kính trọng Nguyễn Du rất mực, thể hiện trên Lưu Hương Ký là biểu tượng văn hóa Việt của một người vợ hiền nhân hậu đầy yêu thương, tài năng trác tuyệt, như bản tánh Xuân Hương.

Nguyễn Du yêu thương Hồ Xuân Hương rất mực Những câu thơ của Mai Sơn Phủ Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc viết cho Hồ Xuân Hương“Thập tải luân giao cầu cổ kiếm.Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”. Mười năm lưu lạc tìm gươm báu Đời ta chỉ cúi lạy hoa mai. (1) “Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người quen” (2)

Hai câu thơ (1) “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm / Nhất sinh đê thủ bái hoa mai” trước đó, có người cho rằng là của Chu Thần Cao Bá Quát nhưng thực tế trong đời Cao Bá Quát không hề có mười năm lưu lạc “thập tải luân giao” còn Nguyễn Du thì có mười năm lưu lạc và năm năm làm ‘Nam Hải điếu đồ’. Theo “Như Thanh nhật ký” của Nguyễn Tử Giản thì năm Mậu Thìn (1868) phó chánh sứ Nguyễn Tử Giản được tri phủ Hán Dương là Ngải Tuấn Mỹ đón tiếp và tặng đôi câu đối trên. Hai câu thơ này không phải là do Ngãi Tuấn Mễ sáng tác mà có trên gốm sứ Hoa Bắc được Nguyễn Du lưu lại khi ông đóng vai nhà sư lưu lạc mười năm ở Trung Quốc. Ông cùng Hà Mỗ Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến lên Yên Kinh (Bắc Kinh) và cung Nhiệt Hà gặp Càn Long để chuyển hóa thời vận. Nguyễn Du tính tình khoan hòa, điềm tĩnh, trọng “quân đức, dân tâm, học pháp”, có những câu thơ “thập tải luân giao”, ông chỉ bái lạy bậc hiền minh như cúi lạy trước hoa mai, “mai cốt cách, tuyết tinh thần”.(2) “Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người quen” trên đĩa Mai Hạc, sản phẩm gốm sứ Quảng Tây, truyền là của Nguyễn Du khi ông ở Trung Quốc.

Nguyễn Du Hồ Xuân Hương là tri âm tri kỷ, là tiếng nói yêu thương khát vọng con người. Bài thơ của Hồ Xuân Hương gửi Mai Sơn Phủ thật thấm thía sâu sắc câu chuyện tình cảm động bền vững với thời gian. Nguyễn Du “Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người quen” là vầng trăng cổ tích huyền thoại.

Truyện Thúy Kiều của Nguyễn Du “Gương trong chẳng chút bụi trần. Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm. Bấy lâu đáy biển mò kim. Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa? Ai ngờ lại hợp một nhà. Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm! Nghe lời sửa áo cài trâm. Khấu đầu lạy trước cao thâm nghìn trùng. Thân tàn gạn đục khơi trong. Là nhờ quân tử khác lòng người ta. Mấy lời tâm phúc ruột rà. Tương tri dường ấy mới là tương tri”. Kim Vân Kiều tái hợp. Lưu Hương Ký với Truyện Thúy Kiều là một ẩn ngữ của tình yêu cuộc sống. Nguyễn Du Hồ Xuân Hương là Mai Hạc cổ tích: “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành” (Nguyễn Du). “Chữ tình chốc đã ba năm vẹn. Giấc mộng rồi ra nửa khắc không” (Hồ Xuân Hương).và lời phán xét lịch sử ” Bán mình trong bấy nhiêu năm. Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai” (Vịnh Thúy Kiều của Nguyễn Công Trứ).

Nguyễn Du trăng huyền thoại, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/ đối chiếu chính sử triều Nguyễn với gia phả Nguyễn Du đã soi thấu nhiều ẩn ngữ Truyện Kiều Vợ chính thất của Nguyễn Du là ai? Vợ ông có đi sứ với ông không? Hậu duệ “Cho em trọn chỗ ấm thân: “Một cây cù mộc, một sân quế hòe”. là những ai? Nguyễn Du mất như thế nào? Gia phả Nguyễn Du chép: “

Nguyễn Du (gia phả) giờ phút lâm chung, em ruột ông là Thiêm sự Sóc Nhạc hầu và cháu là Hàn lâm viện Thắng Đức bá đều có mặt ở kinh . Lễ an táng được tiến hành ngay trong tháng đó, mộ tại cánh đồng Bào Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền. Mùa hạ năm Giáp Thân (1824) con trai thứ là Ngũ đến kinh xin đem về quê quy táng. Vua ban cho 300 quan tiền công và cho dời mộ về địa phận xứ Đồng Ngang thuộc giáp cũ của bản xã (có bút phê). Ông học rộng, nhớ nhiều, sở trường về thơ. Trong số được mệnh danh là “An Nam ngũ tuyệt” thì ông và người cháu là Nam Thúc đã chiếm hai ngôi rồi. Khi ở Huế những lúc rãnh việc công , ông thường tập hợp văn sĩ và học trò như Trương Đăng Quế, Nguyễn Đăng Giai, phần lớn là các danh thần. Tác phẩm của ông có Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục và Lê Quý kỷ sự (?) (bắt đầu từ năm Đinh Dậu niên hiệu Cảnh Hưng(1777) kết thúc năm Chiêu Thống Kỷ Dậu (1789) trước sau 13 năm). Về những kiệt tác bằng Quốc âm thì đây đó có lưu truyền, nhưng Đoạn trường tân thanh thì được khắp nước truyền tụng. Còn đến như cầm , kỳ, thư, họa… không món nào không tinh diệu. Lại thông binh pháp, giỏi võ nghệ, tính người khiêm tốn, tuy ở ngôi vị á khanh nhưng thanh bạch như hàn sĩ. Nhân hoàng đế khi duyệt thơ văn của ông, thấy trong tập thơ Bắc sứ có bài đề Hoài Âm hầu từ có câu : “Thối thực, giãi y nan bội đức. Tàng cung, phanh cẩu diệc cam tâm” thường khen ngợi lòng trung nghĩa , muốn trọng dụng ông nhưng ông đã mất. Nếu như họ Nguyễn người Bắc mà còn thì trẫm phong cho chức Hiệp biện. Quan Lễ bộ Thượng thư Hưng Nhượng hầu thường nói với mọi người rằng: Khó mà có được một người đối với đồng sự thành kính động lòng người đến như thế. Vợ chính họ Đoàn người Quỳnh Côi, Hải An (xưa thuộc Sơn Nam, nay thuộc Thái Bình) là con thứ sáu của Đoàn công, Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá, bà sinh con trai tên Tứ tự là Hạo Như có văn học. Năm Quý Dậu (1813) , bà theo ông đi sứ phương Bắc, về nước được vài năm bị bệnh mất; bà sinh được một gái , gã cho Tú tài Ngô Cảnh Trân , người ở Trảo Nha, Thạch Hà

5
VĂN CHƯƠNG NGỌC CHO ĐỜI

“Giắng thay lời Thúy Vân” “Tiễn đưa và thơ cuối”, “Trần Khánh Dư bán than” “Lời dặn của Thánh Trần” “Đường xuân đời quên tuổi” là năm cảm nhận yêu thích của tôi lưu lại những mẫu chuyện nhỏ văn chương Ngọc cho đời Những mẫu chuyện khác mời bạn rỗi rãi đọc tại https://hoangkimlong.wordpress.com/van-chuong-ngoc-cho-doi/

Kim Notes lắng ghi chú 1
GIẮNG THAY LỜI THÚY VÂN

Anh Phạm Minh Giắng thường xưng tên với HK khi trò chuyện, như “Giắng thay lời Thúy Vân”. Nhân đề thi Văn 2016 “Nỗi lòng nàng Thúy Vân”, HK chép lại bài thơ này của anh và câu thơ anh tặng tôi “Thầy tôi sao sáng giữa trời/ Áo cơm thì thấp cuộc đời thì cao”. Anh Phạm Minh Giắng bị liệt từ nhỏ, và đã mất tại Trung tâm bảo trợ người tàn tật Hải Dương nhưng nghị lực sống, nhân cách người hiền, và thơ hay lắng đong lấp lánh viên ngọc quý.

Anh Phạm Minh Giắng bùi ngùi viết ”Tôi bị nằm liệt từ khi còn nhỏ. Thầy Hoàng Kim viết bài Thầy bạn là lộc xuân có kể chuyện Bill Clinton có năm điều ước từ nhỏ: được làm người tốt, có một gia đình êm ấm, có thầy quý bạn hiền, có một sự nghiệp thành đạt và viết được một cuốn sách để đời) Tôi (PMG) đã cố gắng thực hiện được ba điều. Còn hai điều: một gia đình êm ấm và một sự nghiệp thành đạt thì chắc là không thể thực hiện”.

Anh tặng tôi bài thơ “Thầy tôi” và bài thơ “Thay lời Thúy Vân”

Thầy tôi
Phạm Minh Giắng


Một đời quang đãng nhà gianh
Không chui cửa lớn, chẳng tranh ghế ngồi
Người thầy xưa cũ của tôi
Ai đem đom đóm mà soi vàng mười.

Trái tim khối óc sáng ngời
Dạ dầy Thầy có khác người chi đâu!
Học trò hư hỏng, thì đau
Phụ huynh nói xấu đằng sau, mặc lời.

Vinh quang sao sáng giữa đời
Áo cơm thì thấp, nụ cười thì cao.

Thay lời Thúy Vân
Phạm Minh Giắng


Người đời thương cái duyên em
Kết hôn thay chị, chắc thèm tình yêu?
Em xin thưa tỏ đôi điều
Trời cho nhan sắc em nhiều phần xinh.

Vô tâm vụng tính, chút tình
Lấy người thương chị em mình…em nương
Giấc xuân giữa cảnh đau thương
Tình phần em sướng, hiếu nhường chị đeo.

Người ta yêu mộng mơ nhiều
Chồng mình ôm chặt mình yêu mặn nồng
Cảm ơn chị hiểu thấu lòng
Thương em, chị chẳng lòng thòng cố nhân

Cho em trọn chỗ ấm thân:
“Một cây cù mộc, một sân quế hòe”.
Cái em cần, nói em nghe,
Với em trăng gió màu mè bỏ đi

Em nào có tủi buồn chi
Tố Như thánh thiện nhầm gì chị ơi.

Hoàng Kim đã cảm nhận

“Thay lời Thúy Vân” của anh Phạm Minh Giắng là một góc nhìn thấu hiểu Sự tĩnh lặng nội tâm làm anh Giắng nhìn đời sâu sắc đã tạo nên trầm tích của bài viết. Tôi tin anh Giắng là người hiểu đúng Thúy Vân, hiểu đúng tâm sự thánh thiện của cụ Nguyễn Du.

Thay lời Thúy Vân.là một công án tuyệt vời về Truyện Kiều. “Giấc xuân giữa cảnh đau thương/ Tình phần em sướng, hiếu nhường chị đeo./Người ta yêu mộng mơ nhiều/ Chồng mình ôm chặt mình yêu mặn nồng / Cảm ơn chị hiểu thấu lòng / Thương em, chị chẳng lòng thòng cố nhân/ Cho em trọn chỗ ấm thân: “Một cây cù mộc, một sân quế hòe”.

Nguyễn Du (1765-1820) là nhà thơ lỗi lạc, nhà ngoại giao xuất chúng. Ông cũng là một võ quan có chí lớn, nhà lãnh đạo đặc biệt tài năng đã từng đương đầu với Nguyễn Huệ, đối thoại với Gia Long, hiểu rõ Nguyễn Văn Thành, thân thiết với Nguyễn Nễ, Vũ Trinh, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức. Ông hiểu sâu Lý số, thông tỏ Phong Thủy, rất vững Thiền học, thành thạo biến Dịch, đã đọc trên nghìn lần bộ kinh Kim Cương, với tâm sự gửi gắm Truyện Kiều và đặc biệt gửi gắm qua các nhân vật của mình. Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ là hai danh nhân cùng thời . Nguyễn Công Trứ luận về Thúy Kiều nhưng thực chất là luận về Nguyễn Du: “Bán mình trong bấy nhiêu năm, Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai .” Nguyễn Công Trứ thân mật hay chống đối Nguyễn Du đó là điều hậu thế cần lý giải cho đúng? Thúy Vân là môt đầu mối quan trọng để hiểu Thúy Kiều. Hiểu nhân vật của Nguyễn Du mới thực sự hiểu được Nguyễn Du.Bài viết của các anh Phạm Minh Giắng, Nguyễn Thế Quang, Huy Việt … thực sự bổ ích. Bài viết này của anh Phạm Minh Giắng thưc sư là một khám phá mới. Cám ơn anh và trân trọng chúc mừng anh.

Bình thơ của anh thật hay, xin đươc cảm nhận thơ anh “Thay lời Thúy Vân” với thơ của bốn người bạn khác. “Nỗi lòng Thúy Vân” của Trương Nam Hương, “Nỗi lòng Thúy Vân” của An Thi, “Nỗi lòng Thúy Vân ; Một lần đọc lại Kiều của LMT (HK)

Nỗi lòng Thúy Vân
Trương Nam Hương


Nghĩ thương lời chị dặn dò
Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh
Chị yêu lệ chảy đã đành
Còn em nước mắt đâu dành chàng Kim

Ơ kìa sao chị ngồi im?
Máu còn biết chảy về tim để hồng
Lấy người yêu chị làm chồng
Đời em thể thắt một vòng oan khiên

Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên
Chị khóc kẻ khuất đừng quên người còn
Mấp mô số phận vuông tròn
Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu !

Là em nghĩ vậy thôi Kiều
Sánh sao đời chị ba chiều bão giông
Con đò đời chị về không
Chỉ theo tiếng khóc dưới sông Tiền Đường

Chị nhiều hờn giận yêu thương
Vầng trăng còn lắm mùi hương hẹn hò
Em chưa được thế bao giờ
Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim

Em thành vợ của chàng Kim
Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao
Giấu đầy đêm nỗi khát khao
Kiều ơi em đợi kiếp nào được yêu ???!!!!

Nỗi lòng Thúy Vân
An Thi


Em biết mình thua chị đủ mọi bề,
Cả trí tuệ, lẫn tài hoa, nhan sắc;
Nhưng có một điều, chỉ tim em rõ nhất
Rằng vết thương lòng em chẳng kém phần đau!

Tiết Thanh minh ngày nào én nhạn gặp nhau,
Chợt xao xuyến, nhịp yêu sao bổi hổi,
Chợt xót xa, rồi hẫng lòng, đau nhói
Trong mắt người tachỉ có chị mà thôi!

Buổi chia tay, em nghé mắt, xa xôi
Trở về nhà còn vấn vương nỗi nhớ;
Chị hò hẹn với người, em biết chứ
Chiếc thoa kia nào bắt được hư không?!?

Phận quần hồng chị trắc trở long đong
Nỗi gia đình, nỗi tình duyên trăn trở
Em nhận về mình mối duyên thừa trăn trở…
Mười mấy năm trời hạnh phúc có hay không?

Có hay không hạnh phúc với người chồng
Mà mãi mãi trong tim chỉ có hình bóng chị?!?
Chị phận bạc còn có tình chung thủy
Còn em thì…cảnh đồng sàng dị mộng có gì vui?!?

Cả một đời hoa chị bị dập vùi,
Em thương chị, lòng ghen chưa hề có!
Em cũng không trách hờn ai đó;
Chỉ xin đời hiểu cho rằng:
Sâu thẳm trong lòng Vân cũng có một vết thương!

Trăng mờ vì khuất màn sương
Câu ca một thuở vấn vương trọn đời,
“Keo loan mà chắp duyên rời
Hoa rơi hữu ý, nước trôi vô tình!”
Chị nào có khổ một mình!…

Nỗi lòng Thúy Vân
Một lần đọc lại Kiều

LMT

Chị ơi, thương chị truân chuyên
Phần em thôi cũng muộn phiền bi ai
Cũng rằng phận ngọc, mày ngài
Tuổi xuân hồng thắm chưa ai trao tình .

Đắng cay cũng một đời mình
Vì lòng hiếu nghĩa, nhận tình chị trao
Xuân thì hoa bướm xôn xao
Em chưa hề có giao duyên một lần
.
Thương thân, giọt lệ trong ngần
Duyên hờ em nắn phím đàn tơ mây
Trời xanh oan nghiệt lắm thay
Gieo bao cay đắng , đọa đày chị ơi.

Lại buồn nhân thế lắm lời
Rằng em hời hợt, một đời vô lo
Bao nhiêu sóng cả, gió to
Một mình chị phải sầu lo chống chèo .

Ngẫm đời, lòng lại buồn theo
Má hồng em cũng phận bèo lênh đênh
Dạt trôi trong cõi phong trần
Mặc cho con tạo xoay vần ra sao.

Tiền Đường , sông nước nao nao
Chị giờ mộng nhạt , tâm trao Bồ Đề
Còn em đời vẫn trầm mê

Sau bài thơ “Thầy tôi” và bài thơ “Thay lời Thúy Vân”; anh Phạm Minh Giắng tiếp tục gửi lại cho đời nhiều bài viết hay,trước khi anh đi vào cõi vĩnh hắng “Anh bộc bạch tâm sự trong lời ngõ:”Tôi nằm trong góc cô đơn / Với thơ thì chẳng tính hơn thiệt gì” Thơ anh tôi thích nhất sáu bài. Thầy tôi; Thay lời Thúy Vân; Vịnh Bắp Ngô, Chuối Ngự; Đang xuân; Độc Ẩm.

Vịnh Bắp Ngô
Phạm Minh Giắng


Không phải non tơ cũng chửa già
Đã thương mặc kệ kẻ dèm pha
Nâng niu bóc cánh vàng nhè nhẹ
Mới biết rằng em nhất ngọc ngà

Chuối Ngự
Phạm Minh Giắng

Đâu chỉ xênh xang chốn phượng rồng
Không cam rẻ rúng, chẳng thèm ngông
Kính người thiên cổ, thăm người ốm
Nghĩa ngọt tình thơm rất thật lòng.

Đang xuân
Phạm Minh Giắng
01/01/2013@21h25,


Sáu ba tròn mới độ đang xuân
Tâm đức đời cho cũng được phần
Sức liệt chẳng tài đâu giúp nước
Trí còm chưa giỏi vẫn nhờ dân
Khi vui tết đến mong bầu bạn
Lúc tủi xuân về ngóng họ thân
Còn chút tâm hồn còn sống đẹp
Danh này không toại cũng thành nhân

Độc Ẩm
Phạm Minh Giắng

Chẳng rót chi đầy, nửa chén vơi
Bạn xa không đến, một mình chơi
Nâng lên hờ hững không buồn nhấp
Đặt xuống thờ ơ chẳng hứng mời
Chiếc bóng ngọn đèn dòng rượu đổ
Quả tim cây bút mạch thơ khơi
Khuya rồi còn đợi chờ chi nữa
Ngửa mặt lên ta dốc sự đời

Kim Notes lắng ghi chú 2
TIỄN ĐƯA VÀ THƠ CUỐI

Tố Hữu có hai bài thơ “Tiễn đưa” và “”Tạm biệt” nhiều người thuộc

Tiễn đưa
Tố Hữu
(Tặng bạn thơ Th.)

Đưa tiễn anh đi mấy dặm đường
Nặng tình đồng chí lại đồng hương!
Đã hay đâu cũng say tiền tuyến
Mà vẫn bâng khuâng mộng chiến trường!
Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương
Đi đi, non nước chờ anh đó!
Tiền tuyến cần thêm? Có hậu phương…

Tạm biệt
Tố Hữu


Xin tạm biệt đời yêu quý nhất,
Còn mấy vần thơ, một nắm tro.
Thơ gửi bạn đường, tro bón đất
Sống là cho và chết cũng là cho

Nguồn:. Báo Văn nghệ, số 50, ngày 14-12-2002

Hoàng Kim có ba bài thơ “Chung sức trên đường xuân” họa vần bài “Tiễn đưa” và ba bài thơ “Nhớ Người ” “Lên Thái Sơn hướng Phật” “An vui cụ Trạng Trình” ngôn chí

CHUNG SỨC TRÊN ĐƯỜNG XUÂN
Hoàng Kim


Chung sức bao năm một chặng đường
Cuộc đời nhìn lại phúc lưu hương
Ngô khoai chẳng phụ dày công Viện
Lúa sắn chuyên tâm mến nghĩa Trường
Dạy học tinh hoa giàu trí tuệ
Chuyển giao chuyên nghiệp khiếu văn chương
Người chọn vãng sanh vui một cõi
Ai theo cực lạc đức muôn phương

CHUNG SỨC TRÊN ĐƯỜNG XUÂN
Hoàng Kim


2

Thầy bạn nhà nông mến dặm đường
Tình yêu cuộc sống đức lưu hương
Trình, Đào thanh thản nương thời vận
, Nguyễn thung dung nhẹ đoạn trường
Lúa sắn ngô khoai yêu khoa học
Mai lan cúc trúc thú văn chương
Tâm bình minh triết thành công quả
An vui trí sáng đức muôn phương.

CHỐN THIÊNG
Chung sức trên đường xuân https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chung-suc-tren-duong-xuan/

CHUNG SỨC TRÊN ĐƯỜNG XUÂN
Hoàng Kim

3

Lão tướng chín tư vẫn dặm đường
Chuyện đời tự kể tuệ lưu hương
Đất Việt Nguyễn Hoàng công mở cõi
Trời Nam Trương Định tướng sa trường
Hậu duệ phước lành nhờ che chỡ
Tuổi cao may mắn chấp văn chương
Trăm năm thoáng chốc xuân viên mãn
Vóc hạc an nhàn dạo bốn phương

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chung-suc-tren-duong-xuan/

NHỚ NGƯỜI
Hoàng Kim

Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay.

LÊN THÁI SƠN HƯỚNG PHẬT
Hoàng Kim

Đường trần thênh thênh bước
Đỉnh xanh mờ sương đêm
Hoàng Thành, Trúc Lâm sáng
Phước Đức vui kiếm tìm.

AN VUI CỤ TRẠNG TRÌNH
Hoàng Kim #vietnamhoc #cltvn
#cnm365 #Thungdung
598


Sớm mai ngắm mai nở
Ngày mới Ngọc cho đời
Chín điều lành hạnh phúc
An vui cụ Trạng Trình

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/an-vui-cu-trang-trinh/

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC http://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Tỉnh thức cùng tháng năm https://youtu.be/VpiW_FpKPpY

Kenny Rogers Greatest Hits- Best Song of KennyRogers

20 bản piano lãng mạn hay nhất thế giới https://youtu.be/Hf03SC8l-f4
Quà tặng cuộc sống
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

3 thoughts on “Tỉnh thức cùng tháng năm

  1. Pingback: Tháng Ba hoa gạo nở | Ban mai chào ngày mới

  2. Pingback: #cnm365 #cltvn 25 tháng 3 | Tình yêu cuộc sống

  3. Pingback: Chào ngày mới 25 tháng 3 | Tình yêu cuộc sống

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.