Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn Hỏi chi bán đó, dạ rằng than Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt, Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn Ở với lửa hương cho vẹn kiếp Thử xem sắt đá có bền gan Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn.
SƠN TÙNG CHUYỆN BÁC HỒ Hoàng Kim Nhà văn Sơn Tùng ngày 27/4/2001, tại Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục Đào tạo,có buổi nói chuyện về chủ tịch Hồ Chí Minh với tựa đề “Theo con đường Bác Hồ”. Nội dung buổi nói chuyện này đã được lược ghi có ghi âm, tôi có thông tin từ ba nguồn, nay lưu lại tư liệu này trên trang CNM365 Chào ngày mới 17 tháng 1 để bảo tồn và đối chiếu so sánh (HK). Nông nghiệp Việt Nam nhìn từ các sự kiện Trường tôi nôi yêu thương; IAS đường tới trăm năm; Viện Lúa Sao Thần Nông, Việt Nam con đường xanhNông nghiệp Việt trăm năm; và 500 năm nông nghiệp Brazil, tôi thao thức trước nhận định cuối bài viết Sơn Tùng “Sau khi nước nhà thống nhất, nếu chấp nhận ý kiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về xây dựng kinh tế là: trước hết phải để thời gian khôi phục rồi mới tính đến phát triển, và phải đặt nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; thì chắc chắn hạn chế được những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân lúc bấy giờ, dẫn đến khủng hoảng đời sống”:
THEO CON ĐƯỜNG BÁC HỒ
Xin giới thiệu, bác Sơn Tùng là nhà văn mà nhiều người đã biết , qua các tác phẩm của bác. Trong buổi nói chuyện hôm nay, bác sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin rất bổ ích. Mặc dù bác đang mệt, nhưng rất nhiệt tình với chúng ta, bác vẫn nhận lời nói chuyện với trường chúng ta hôm nay. Bây giờ tôi xin nhường lời cho bác Sơn Tùng.
Kính thưa thầy Hiệu Trưởng
Kính thưa các thầy, các cô giáo
Trường cán bộ quản lý giáo dục đào tạo của cơ quan giáo dục, bất luận thời nào đi nữa, thì giáo dục vẫn là nền tảng quan trọng. Vì, không tôn sư thì không thể có Đạo được. Dù phong kiến, đế quốc, tư bản, xã hội chủ nghĩa đi nữa…nếu không trọng thầy, không yêu thầy học (muốn con hay chữ, phải yêu lấy thầy), là không phải đạo. Vì vậy, nói đến giáo dục, đã không có thì đành vậy, còn đã là có chữ thì phải biết ơn thầy. Làm đến ông vương, ông tướng cũng phải qua thầy học, làm nhà văn đi nữa thì trước hết phải yêu từ cô giáo vỡ lòng dạy mình từ buổi thiếu niên đến thầy dạy tiểu học, rồi phổ thông lại lên đại học…
Vừa qua thời tiết chuyển đổi đột ngột, ít khi nào sang tháng tư, qua tháng ba, thanh minh rồi, mà Hà Nội thời tiết 16 độ, cái thời tiết nó rất găng, như ngày hôm qua tôi tưởng không đến được nhưng vì đã nhận lời thầy Huấn từ mấy tuần trước. Sáng nay thầy Huấn đến cũng biết tôi đang nằm ngoạ thiền chứ không tọa thiền thì sáng nào tôi cũng làm, 2h sáng tôi ngồi thiền, 3h rưỡi sáng tắm nước nóng, dậy đọc sách, đến 5h nằm thiền điều trị vết thương sọ não.
Hai hôm nay tôi không ăn, hôm qua, do thời tiết đã đành, lại nữa có mấy cái hội nghị 11, 11b, rồi 12… mới bế mạc hôm qua. Thế thì những vấn đề này nó gắn liền với sự tồn tại, sự sống còn của đất nước. Vì Đảng ta là Đảng lãnh đạo đất nước từ năm 1930, làm nên những sự nghiệp rất lớn, trước hết là sự nghiệp cứu nước. Ba mươi năm chiến tranh, không ai muốn điều ấy làm gì. Người ta muốn làm nhà khoa học, làm nhà giáo… không ai muốn làm người anh hùng trong chiến tranh. Làm người anh hùng trong chiến tranh thì hàng nghìn, hàng vạn người ngã xuống. Đó là cái bất đắc dĩ của dân tộc.
Nhưng từ một phần tư thế kỷ nay, Đảng ta sa sút xuống đến mức không tưởng tượng nổi so với trước đây, nhân cách nhiều người cộng sản không còn. Nhân cách không còn, vì tham nhũng đến mức không thể chấp nhận.
Tuy nhiên, sự nghiệp của Đảng ta vẫn chói lọi thôi; nhân dân thì vĩ đại, nhưng những người có trách nhiệm trước Đảng, trước Nhân dân không giữ được nhân cách. Họ đem cái tham nhũng làm hại cho toàn Đảng, cho nhân dân ta. Mặc dù vậy, vị thế của dân tộc Việt Nam vẫn đứng ở vị trí lớn. Dù nó là nước nhỏ, nước nghèo, còn sự thực thì dân tộc ta, nhân dân ta, cái hưởng thụ về văn hoá, về tinh thần của dân ta so với các nước Đông Nam Á, với khu vực của ta, là cao. Vì ngay bây giờ ở Đại học Tổng hợp có cả đoàn sinh viên do ba giáo sư nổi tiếng ở Washington dẫn đầu sang ta để nghiêm cứu về Bác Hồ. Đoàn ở đây độ ba tháng, nay mới được tháng rưỡi, đã đi Tân Trào, Pắc Bó về. Đoàn gồm những sinh viên xuất sắc về sử Việt Nam và ba giáo sư đem theo cả gia đình con cái. Họ có mời tôi cùng đi nhưng vì sức khoẻ tôi không đi được.
Vấn đề trong mấy hội nghị trên là phe phái, phe cánh, mất đoàn kết trong lãnh đạo cao nhất. Như trước đây tôi có dịp nói được một phần sự hình thành nhân cách của Bác Hồ. Nói đến cái đó là trong cái nội gia đình của Bác. Nhân cách của con người ra đời, trước hết phải là gia đình, bước vào đời phát triển như thế nào bao giờ cũng bắt đầu từ gia đình, trường học. Nói trường học là có cả xã hội, có làng xóm quê hương. Tôi cố gắng nói một ý như vậy, ngắn hay dài tuỳ thuộc vào sức khoẻ. Nhưng trước hết tôi dành một số thời gian để nói về Đại hội 9 sắp tới đây.
Ngày 19 tháng 4 nay, ra Đại hội chỉ để quay phim, chụp ảnh, chứ mọi việc nó đã như bước một ở hội nghị Trung ương 12, hôm nay Trung ương nghỉ.
Đường trần trung chính hướng ban mai An tĩnh, thanh tâm, đón nắng trời Gió mát, thư nhàn, tươi khóm trúc Đất lành, bình thản, đọng sương mai Một bầu ngọc bích quang mây ửng Hai túi càn khôn đức với đời Vui cụ Trạng Trình nơi đồng rộng Chọn tìm giống tốt thú riêng chơi.
Thu Đông Xuân Hạ tiết trời thay Nắng sớm mưa mai đã ướt đầy Dưỡng quý, tồn tinh, thời đổi lá Tích lành, chọn tốt, vận thay cây Thuyền nan bình lặng âu trời hiểu Đường chính an nhiên lẽ người bày Thung dung cuối dòng sông là biển Đường xuân đời quên tuổi tầm tay
TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM Hoàng Kim
Sớm nào cũng dành nửa tiếng, #Thungdung hòa nhịp thời gian. Thong thả chỉ thêu nên gấm, An nhiên việc tốt cứ làm. Thoáng chốc đường trần nhìn lại, ‘Thanh nhàn vô sụ là tiên‘
QUẢ TỐT BỜI NHÂN LÀNH Hoàng Kim
Trời xanh tỉnh lặng với thu không Nhân quả ghi ơn quý vun trồng Hạnh phúc đủ đầy nhờ tích đức Hiếu trung trọn vẹn bởi tâm công Nhìn ai dân mến vì chí thiện Ngắm kẻ người chê bởi khác lòng Ban mai ngày mới mừng biết đủ Tình yêu cuộc sống rạng vừng đông.
KẾT QUẢ Nguyễn Quế
Đất bạc bao ngày vẫn bỏ không Ta đem hạt quý đến gieo trồng Chồi non nảy lá tròn tâm nguyện Lộc biếc vươn cành chẳng uổng công Ngắm đoá hoa thơm mà mát dạ Nhìn mâm quả ngọt cũng no lòng Mai này bóng rợp chim làm tổ Hạnh phúc dâng tràn lúc rạng đông !
ĐẤT TRỜI MÙA ĐOÀN VIÊN Hoàng Kim
Ban mai chào ngày mới Lộc vừng xòe nõn xanh Lá vàng ấm gốc biếc Nắng mới vun đầy cành
nhắm mắt lại đi em để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc trời thanh thản xanh đêm nồng nàn thở ta có nhau trong cuộc đời này nghe hương tinh khôi đọng mật quyến rũ em và khát khao anh mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ một tiếng chuông ngân thon thả đầu ghềnh
nhắm mắt lại đi em hạnh phúc đâu chỉ là đích đến hạnh phúc là con đường trãi nghiệm vỗ về, chờ đợi, nhớ thương
nhắm mắt lại đi em trong giấc mơ của anh có em và rừng thiêng cổ tích có suối nước trong veo như ngọc có vườn trúc và ngôi nhà tranh có một đàn trẻ thơ tung tăng heo gà chó mèo ngựa trâu nhởn nhơ trên đồng cỏ tươi xanh nhắm mắt lại đi em, tận hưởng thú an lành.
Nhắm mắt lại đi em Giấc ngủ ngoan giấc mơ hạnh phúc Em mãi bên anh, Đồng hành với anh Bài ca yêu thương Bài ca hạnh phúc Giấc mơ lành yêu thương
Nhắm mắt lại đi em Giấc mơ cuộc đời giấc mơ hạnh phúc ngôi nhà tâm thức Giấc mơ lành yêu thương Có cánh cửa khép hờ Có bãi cỏ xanh non. Đất nước cây và hoa Một khu vườn tĩnh lặng. Chim sóc chó mèo gà luôn quấn quýt sớm hôm…
Ban mai ửng nghe chim trời gọi cửa. Hoàng hôn buông trăng gió nhẹ lay màn.
Thiên hà trong vắt khuya chuyển mùa/ tự nhiên tỉnh Ta ngắm trời, ngắm biển chòm sao em vầng sáng anh, dưới vòm trời lấp lánh khoảnh khắc thời gian thăm thẳm một tầm nhìn.
Ngắm ảnh ngày tình yêu Thương hoài câu thơ cũ “Bao người cũ đã mới rồi. Mà em vẫn vậy như thời ngày xưa. Thương nhau biết mấy cho vừa. Đêm khuya ngày mới sớm trưa tảo tần Nhớ nhiều chiếc bóng năm canh Ngẫm phim Tôn Tử mưa đành nhặt thưa Cầu trời nối mẹ cha xưa Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”. Ngày Tình Yêu Mẹ Cha hồi ức đọc lại Trịnh Công Sơn lắng đọng và Ngọc Phương Nam ngày mới
TRỊNH CÔNG SƠN LẮNG ĐỌNG Bạch NgọcHoàng Kim
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để lại cho chúng ta một lời nhắn thật tâm đắc, thật sâu sắc và thật hay ám ảnh “ĐỂ BẮT ĐẦU MỘT HỒI ỨCTrịnh Công Sơn: Viết hồi ký về đời mình là quyền của mỗi con người. Ai cũng muốn ghi lại những kỷ niệm buồn, vui trong đời. Tuy nhiên cũng có những hồi ký tự thuật và những tường trình về đời mình có tính cách thiếu khiêm tốn và đôi khi không gần gũi với sự thật lắm. Ðiều đó dễ dẫn ta đi vào một thứ trận đồ bát quái tâm linh, không có thật. Tôi rất ngại nói về mình, mặc dù đã có nhiều cơ sở xuất bản trong và ngoài nước đề nghị viết về một quá trình khá dài trong cuộc đời làm nghệ thuật của tôi. Cái tôi đáng ghét (Le moi est haissable) nhưng cái tôi cũng có lúc đáng yêu vì cái tôi đó biết mình và cuộc đời là một. Tôi yêu cuộc đời và cuộc đời cũng đã yêu tôi. Ðó là niềm an ủi lớn trong cuộc sống này. Vì thế trong lòng tôi không có một giây phút nào nuôi một lòng oán hận với cuộc đời. Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc đời rộng lớn quá và mỗi chúng ta chỉ là những hạt bụi nhỏ nhoi trong trần gian mà thôi. Giận hờn, trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xoá hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn. Ai cũng biết cuộc đời này là quý vì vậy ai cũng muốn ôm lấy mãi cuộc đời. Như đôi tình nhân. Nhưng mà nợ trần không dễ, không dài. Rồi sẽ có phút chia lìa. Phút ấy không biết còn ai nhớ ai nữa không trên mặt đất trần gian này. Tôi đến với âm nhạc có lẽ cũng vì tình yêu cuộc sống. Một phần cũng do một khúc quanh nào đó của số phận. Thời trẻ tôi học võ và chơi những môn điền kinh. Sau một cơn bệnh nặng kéo dài hơn hai năm do tập dợt judo với người em trai và bỗng nhiên muốn bày tỏ một điều gì đó với cuộc đời. Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc những lời ru con của mẹ. Triết học Việt Nam có đó nhưng không được hệ thống hóa vì nó bàng bạc trong đời sống nhân gian. Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì mình phải có trách nhiệm đối với mọi người. Vì thế tôi đã cố gắng làm thế nào để có thể trong những bài hát của mình chuyên chở được một thông điệp của lòng nhân ái đến với mọi người. Vì có tình yêu nên có âm nhạc. Vì có khổ đau nên có âm nhạc. Có hạnh phúc nên cũng có âm nhạc. Do đó khi tôi viết lên một bài hát ca tụng tình yêu, hạnh phúc hoặc than thở về một nỗi tuyệt vọng nào đó thì hình như tôi đã không mắc phải một lỗi lầm nào cả“.
Nhạc Trịnh có trên 600 ca khúc về tình yêu cuộc sống, hòa bình nhân đạo và nỗi đau thân phận con người. “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về…” Tôi lập trang Trịnh Công Sơn tình yêu cuộc sống để kính trọng, ngưỡng mộ, chiêm nghiệm và bổ sung những thông tin mới người nghệ sĩ lớn tài hoa này. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sinh ngày 28 tháng 12 năm 1939, mất ngày 1 tháng 4 năm 2001. Ông không chỉ là một nghệ sĩ mà còn là một triết gia. Trịnh Công Sơn từng viết: “Tôi rất ngại nói về mình mặc dù đã có nhiều cơ sở xuất bản trong và ngoài nước đề nghị viết về một quá trình khá dài trong cuộc đời làm nghệ thuật của tôi. Cái tôi đáng ghét (Le moi est haissable) nhưng cái tôi cũng có lúc đáng yêu vì cái tôi đó biết mình và cuộc đời là một. Tôi yêu cuộc đời và cuộc đời cũng đã yêu tôi. Ðó là niềm an ủi lớn trong cuộc sống này. Vì thế trong lòng tôi không có một giây phút nào nuôi một lòng oán hận với cuộc đời. Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc đời rộng lớn quá và mỗi chúng ta chỉ là những hạt bụi nhỏ nhoi trong trần gian mà thôi. Giận hờn, trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xoá hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn“.
Sự thật lịch sử chỉ có một nhưng viết về sự thật lịch sử và nghiên cứu lịch sử và các danh nhân văn hóa thì phải suy xét thông tin, góc nhìn và tầm nhìn. Sự sáng tạo tự do, nền giáo dục tự do trên triết lý căn bản yêu thương, tôn trọng con người tự do là nền móng văn hóa nhân văn. Bài dưới đây là các ghi chép của tôi về Trịnh Công Sơn.
Đình chùa Lạc Giao, hồ Lăk và quê Trịnh
Trịnh Công Sơn quê ngoại ở Quảng Sơn, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, quê nội ở làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi sinh tại cao nguyên Lạc Giao, xã Lạc Giao, hiện nay là phường Thống Nhất, Ban Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Chúng tôi về thăm đình chùa Lạc Giao, hồ Lắk và quê Trịnh trong một chuyến công tác ở Trường Đại học Tây Nguyên, qua sự liên hệ với anh Trịnh Xuân Ấn, quê ở Ban Mê Thuột, là con chú ruột của anh Trịnh Công Sơn.
Đình Lạc Giao là một ngôi đình thờ thành hoàng theo tập quán người Việt và là một di tích lịch sử đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đình Lạc Giao là nơi thờ cụ Đào Duy Từ, vị thần Thành Hoàng bản thổ, nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, tế lễ xuân thu nhị kỳ, đó cũng là nơi thờ cụ Phan Hộ vị tiên hiền đã có công khởi xướng thành lập làng Lạc Giao. Đình nằm tại ngã tư giữa đường Phan Bội Châu và đường Điện Biên Phủ, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk.
Đình Lạc Giao chính điện có hai câu đối. Phía bên nhà tiếp khách có bày chứng tích nhưng thần phả thì vị trụ trì chỉ cho chúng tôi sang tìm ở Chùa Khải Đoan, và hình như vẫn đang lưu ẩn trong một câu chuyện dài.
Chùa Khải Đoan là ngôi chùa được xây dựng lần đầu tiên và lớn nhất không chỉ ở thành phố Buôn Ma Thuột mà còn của cả tỉnh Đắk Lắk. Chùa Khải Đoan nằm tại phường Thống Nhất, trên đường Phan Bội Châu, thành phố Buôn Ma Thuột, được vua Bảo Đại cho xây dựng là làm lễ khánh thành năm 1951. Chùa được bà đức Từ Cung Đoan Huy hoàng thái hậu mẹ vua Bảo Đại làm chủ, bà Nam Phương Hoàng Hậu quản lý, nhưng việc trực trông nom thi công là bà Bùi Mộng Điệp, một phi tần của vua Bảo Đại . Khi vua Bảo Đại lập Hoàng triều Cương thổ trên phần đất Tây Nguyên của Việt Nam, ông đã cử bà Bùi Mộng Điệp lên Buôn Mê Thuột để vua giúp giữ đất Hoàng triều Cương thổ.[2] Bà Bùi Mộng Điệp tuy làm vợ thứ, tuy không được tổ chức cưới xin nhưng nhờ chăm lo việc thờ cúng tổ tiên của hoàng tộc rất chu đáo nên được Đức Từ Cung ban áo mũ để thay mặt Hoàng hậu Nam Phương trong các cuộc tế lễ tại chùa này, vì bà Nam Phương là người theo Thiên Chúa giáo[3]. Chùa Khải Đoan là ngôi chùa cuối cùng tại Việt Nam được phong sắc tứ của chế độ phong kiến và cũng là ngôi chùa lần đầu có ở Cao Nguyên gần Đình Lạc Giao và cũng là vùng đất nôi sinh thành của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tên gọi Khải Đoan là ghép từ tên vua Khải Định và vợ ông là Đoan Huy hoàng thái hậu, cũng còn một nghĩa khác là thờ “vọng” thủy tổ Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng, tổ nghiệpNhà Nguyễn. Chùa Khải Đoan ngày 5 tháng 4 năm 2012 bắt đầu đặt viên đá trùng tu lại và xây dựng thêm và hiện được bổ sung rất nhiều công trình mới nhưng vẫn giữ nguyên chính điện cũ. Đó là nơi thờ phụng lớn nhất của Phật giáo tại Đắk Lắk, và là điểm du lịch không thể bỏ qua ở Buôn Ma Thuột.
Hồ Lắk là một hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất tỉnh Đăk Lăk và lớn thứ hai Việt Nam sau Hồ Ba Bể. Xung quanh hồ có những dãy núi lớn được bao quanh bởi các cánh rừng nguyên sinh. Buôn Jun, một buôn làng nổi tiếng của người M’Nông, nằm cạnh hồ này. Người dân địa phương dùng thuyền độc mộc đi lại trên hồ. Voi đưa du khách đi tham quan hồ. Dinh Bảo Đại ở thành phố và tại hồ Lắk là khá đẹp, trữ tình, và có tầm nhìn. Ông cố vấn Ngô Đình Nhu (1010-1063) một nhà chiến lược, nói về vua Bảo Đại, một lời đánh giá ngắn và sắc sảo: “Ai trong hoàn cảnh Bảo Đại cũng khó làm được tốt hơn“.
Nhà cũ của anh Trịnh ra sao và những câu chuyện riêng tư tôi sẽ dành kể bạn nghe trong một dịp khác. Anh Trịnh Xuân Ấn nói những lời tâm đắc và tôi muốn dừng lại ở những thông tin đã được hiệu đính này. Chuyến hành hương về nơi sinh thành của Trịnh, gặp người thân của Trịnh, tôi đắm mình trong nhạc Trịnh tại nơi thủ phủ cà phê Tây Nguyên, ngắm hồ Lăk chiều tà, thuyền độc mộc, voi hồ Lăk, nghĩ về ngọn nến Hoàng Cung, nhạc Trịnh và thân phận con người.
Các nhà khảo cổ Slovenia, nghe nói, đã tìm thấy một nửa còn lại của chiếc thuyền độc mộc 2.000 năm tuổi lớn nhất thế giới trên sông Ljubljanica ở thủ đô Ljubljana. Đăk Lắk là chốn sinh thành của Trịnh, quê hương thứ ba của ông sau quê mẹ Quảng Bình và quê cha ở Huế. Thuyền độc mộc và voi là phương tiện đi hồ Lắk và trưng bày tại bảo tàng cà phê Trung Nguyên. Sông Srepok với Tây Nguyên là vỉa sâu văn hóa. Hồ Lắk, Đình Lạc Giao, Chùa Khải Đoan,nhạc Trịnh là cầu nối lịch sử, địa chính trị và văn hóa Tây Nguyên. (Anbum ảnh tư liệu Hoàng Kim ở đây). Ngọc phương Nam , tôi đối họa thơ anh Trịnh Tuyên ở chính nơi này.
NGỌC PHƯƠNG NAM
Hoàng Kim
‘Quên tên cây làm thuyền Tận cùng nỗi cô đơn – độc mộc!
Khoét hết ruột Chỉ để một lần ngược thác bất chấp đời lênh đênh…’ (*)
hứng mật đời thành thơ việc nghìn năm hữu lý trạng Trình
đến trúc lâm đạt năm việc lớn hoàng thành đất trời xanh yên tử …
(*) thơ Trịnh Tuyên in nghiêng thơ Hoàng Kim họa đối in đứng
Cuộc đời và nhân cách Trịnh Công Sơn
Sách viết về Trịnh Công Sơn hiện có trên 10 quyển và một khối lượng lớn các bài báo viết về tác phẩm và di sản. Tiếc rằng thông tin về cuộc đời, gia đình và tuổi thơ của Trịnh Công Sơn, hiện vẫn còn nhiều khoảng trống cần tìm hiểu. Tiểu sử Trịnh Công Sơn trên Liên Thành, vnexpress, người nổi tiếng, facebook, … đều quá vắn tắt: Nơi sinh: tại cao nguyên Lạc Giao (xã Lạc Giao, hiện nay là phường Thống Nhất, Ban Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk) Quê quán: làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông lớn lên tại Huế. Lúc nhỏ ông học theo học các trường Lyceè Francais và Provindence ở Huế, sau vào Sài Gòn theo học triết học trường Tây Lyceé J.J Rousseau Sài Gòn và tốt nghiệp tú tài tại đây; anh em gồm … mà còn thiếu rất nhiều thông tin được kiểm chứng.
Thấu hiểu cuộc đời và nhân cách của Trịnh Công Sơn, chúng ta mới có thể cảm thông và hiểu sâu Nhạc Trịnh. Một cõi đi về, Cát bụi, Để gió cuốn đi, Huyền thoại Mẹ,… đều là những tiếng nấc, tiếng lòng thẳm thẳm của một kiếp người mà Trịnh thấu hiểu về đời mẹ, đời cha, đời của các anh em, người thân chung máu mủ gia đình nhưng li tán ở các chiến tuyến khác nhau, những khống chế, rình rập, vây bủa, tranh chấp của các thế lực trên thân phận con người mà gia đình của chính Trịnh Công Sơn là người trong cuộc. Tôi thầm lặng thu thập tư liệu và chỉ mới tuyển chọn và tổng hợp về Trịnh Công Sơn ở những thông tin chừng mực tại trang Chào ngày mới 01 tháng 4 nguồn Trịnh Công Sơn Wikipedia Tiếng Việt. và đợi bổ sung kiểm chứng thêm tư liệu.
Trong các tư liệu chắt lọc có bài viết đặc sắc và sâu lắng “Trường hợp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn” của cựu đại tá Nguyễn Mâu, trưởng ngành Cảnh sát đặc biệt của Tổng Nha Cảnh sát Sài Gòn: “Chúng tôi xin phép anh linh Trịnh Công Sơn được gọi anh bằng anh như thuở nào. Chúng tôi nói thẳng ở đây rằng giữa chúng tôi không có tình thâm giao nhưng rất hiểu nhau và kính trọng nhau. Thật dễ hiểu: làm sao là bạn thân được khi một người là nhân viên công an rình rập dòm ngó anh và anh lại là một nghệ sĩ có tâm hồn đang đau nhức với cái đau nhức của dân tộc và sáng tác vì cái đau nhức ấy…”. “Anh ấy đã ra đi nhưng bao vấn nạn còn để lại. Chúng tôi đã thực lòng viết ra đây về anh ấy, nhân danh một cựu nhân viên tình báo đã từng bới xới tìm hết tì vết của anh để truy tố. Anh ấy đã nằm xuống và đã trở thành vô hiệu hóa tòa án, công tố, bị can, biện hộ. Tất cả nay trong quyền xét đoán vì văn học sử của mỗi độc giả. Chúng tôi giang tay và cúi đầu thật thấp cầu nguyện chỉ mong linh hồn anh tìm được sự an nghỉ chốn vĩnh hằng”.
Vượt lên trên những chứng cớ “bên ni”, “bên tê” “Trịnh Công Sơn và những hoạt động cộng sản nằm vùng” “Biến động miền Trung” :”Trò chuyện với nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan về những “hũ mắm thúi” của cựu thiếu tá cảnh sát Liên Thành ở Mỹ“. Bài viết của ông Nguyễn Mâu in trong quyển sách của ông nhan đề NDB – Ngành Đặc Biệt (The Special Branch) xuất bản vào năm 2007. Người giới thiệu bài viết của ông Nguyễn Mâu tên là Lê Xuân Nhuận – đại tá Trưởng ngành Cảnh sát đặc biệt Vùng II chiến thuật. Trong lời giới thiệu, ông Nhuận cho biết đã đọc cả hai bài viết về Trịnh Công Sơn của Liên Thành và của Hoàng Phủ Ngọc Phan và nói rõ: “Nhận định và quyết định của ông Nguyễn Mâu đối với Trịnh Công Sơn chính là thái độ và biện pháp của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đối với nhạc sĩ ấy, ở cấp cao nhất trong toàn quốc (VNCH) và trong thời gian ông Nguyễn Mâu cầm đầu ngành tình báo này.”
“Trịnh Công Sơn là thiên tài âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX . Di sản âm nhạc Trịnh Công Sơn là vô giá , mãi mãi là niềm tự hào của người Việt Nam. Bảy năm Trịnh Công Sơn về “với cát bụi”, đã có hơn 10 cuốn sách viết về ông, cuốn mới nhất là tập bút ký “ Cây đàn lia của Hoàng tử be” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường được Nhà xuất bản Trẻ ấn hành đầu năm 2005. Âm nhạc Trịnh ngày càng lay động chiều sâu tâm thức hàng chục triệu người. Đã là người Việt, từ già đến trẻ không ai không hát Trịnh , không gia đình nào không có trong nhà một băng hay đĩa nhạc Trịnh ….Sống trong đời sống .Cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không ? Để gió cuốn đi. Để gió cuốn đi…
Không chỉ ở Việt Nam, âm nhạc Trịnh Công Sơn cũng ngày càng chinh phục thế giới . Ngay từ năm 1972, Trịnh Công Sơn đã được Đĩa Vàng ở Nhật Bản với bài Ngủ đi con, trong Ca khúc Da vàng, qua giọng hát Khánh Ly, phát hành trên 2 triệu đĩa . Trịnh Công Sơn có tên trong từ điển Bách khoa Pháp “ Encyclopédie de tous les pays du momde”. Nhạc Trịnh đã có mặt tại nhiều nước Châu Á, châu Âu, Châu Mỹ… Có một chàng trai người Đức mang họ Trịnh luôn cùng mới bạn bè hát Trịnh Công Sơn; Có một cô gái Nhật Bản năm nào cũng sang Việt Nam để viếng mộ Trịnh …
Đặc biệt , ngày 3-2-2004, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York đã công bố “Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới” (WPMA). Sáu tên tuổi âm nhạc nổi tiếng thế giới được giải thưởng lần này là Bob Dylan , Conuntry Joe & the Fish, Hary Belafonte, Joan Baez, Peter, Paul & Mary và Trịnh Công Sơn. WPMA tôn vinh những người đã đem âm nhạc của mình cống hiến cho cuộc đấu tranh vì hòa bình và nhân đạo trên thế giới. Đây là sự kiện âm nhạc quốc tế lớn nhất Việt Nam từ trước tới nay! Kể từ ca khúc đầu tiên Ướt mi công bố năm 1959 ,trải 40 năm sáng tác, Trịnh Công Sơn đã để lại gia sản trên 600 ca khúc lay động lòng người .”
“Người ta chia ca khúc Trịnh thành “ ba dòng” : Dòng trữ tình, dòng phản chiến và dòng giải thoát bản ngã!. Lý thuyết là thế , nhưng tôi nghĩ dưới góc nhìn “hòa bình và nhân đạo” thì hầu như ca khúc nào của Trịnh cũng là vút lên từ tận cùng sâu thẳm của tình yêu cuộc sống và nỗi đau phận người . Đó chính là tầm cao , sự vĩnh cửu của âm nhạc Trịnh”.
… “Lần ra Huế dự “ Đêm nhạc Trịnh Công Sơn quyên góp tiền giúp trẻ em nghèo học giỏi”, anh Sơn nâng cùng anh em chén rươụ Chuồn, tâm sự :” Trong lời bài hát của mình không có một từ nào về các địa danh của Huế, nhưng toàn bộ âm nhạc của mình chính là Huế đấy, Huế của kiếp người…”. Vâng, trên 600 ca khúc của Trịnh Công Sơn để lại là một phần của Di sản văn hóa Huế , tồn tại mãi với thời gian…”
Âm nhạc Trịnh Công Sơn là âm nhạc vì con người nên ở lại mãi với hồn người, không biên giới, “cao hơn mọi thành kiến trên đời “ ( chữ Anh Ngọc) . Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới của Liên Hiệp Quốc là sự tôn vinh ở tầm cỡ thế giới về Di sản âm nhạc của Trịnh . Đây cũng là sự tôn vinh một nhân cách sống và bản lĩnh sáng tạo của một thiên tài âm nhạc.”
Ca từ nhạc Trịnh có đặc trưng tinh tế, hồn nhiên, gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nhạc sĩ Văn Cao nhận xét: “Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra” Phạm Duy bình luận “…toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại”, và Trịnh Công Sơn tự nhận xét: “Ca khúc đối với tôi là một mô hình gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nó là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc” (Trích dẫn bởi Trần Hữu Thục: Một cái nhìn về ca từ Trịnh Công Sơn)
“Cảm nhận ca từ Trịnh Công Sơn” ảnh Dương Minh Long, tác giả Trần Thị Trường đánh giá:
“… âm nhạc của Trịnh Công Sơn có sức “công phá” rất lớn, công phá mềm, nó khiến cho tâm hồn rung động, vùng mờ của trí não được mở ra… âm nhạc của Trịnh nghe mãi cũng khó chán, càng nghe càng có thể phát hiện thêm vẻ đẹp sâu sắc của ca từ, càng nghe càng nhận ra sự tinh túy của xúc cảm trong từng lớp ngữ nghĩa…”Gọi nắng trên vai em gầy / Đường xa áo bay… Áo xưa dù nhàu vẫn xin bạc đầu gọi mãi tên nhau” (Hạ Trắng); … Hay: “trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, gọi suốt trăm năm một cõi đi về”… Những từ được dùng trong một cấu trúc câu mà không dùng lý để suy luận. Vẫn là những từ ngữ của đời nhưng Trịnh Công Sơn đã dùng như người họa sĩ dùng chất liệu để đưa chúng đi xa hơn, làm nên một bức tranh siêu thực, ẩn dụtượng trưng, lãng mạn, ấn tượng… khiến cho người nghe có thể cảm thụ được nhiều hơn “ chiều kích” cụ thể của ngôn từ khi cho chúng đứng chung thành một tổ hợp câu. … Âm nhạc của Trịnh Công Sơn đã tác động, ngay cả khi trình tấu không lời, nhưng ca từ cũng để lại ấn tượng sâu đậm không kém trong tâm khảm, sẻ chia và an ủi được nhiều thế hệ, tầng lớp công chúng. Không tưng bừng, cũng không ảo não, nặng ưu tư mà không riết róng. Tôi nghĩ, Trịnh Công Sơn đã làm tiếng Việt phong phú lên rất nhiều khi ông kết hợp từ làm nên một từ mới đa nghĩa hơn, tinh túy hơn có trường liên tưởng rộng hơn.”
Kỷ niệm về anh Trịnh Công Sơn
Trước hôm anh Trịnh Công Sơn mất, có anh Trịnh Xuân Ấn ở Đắk Lắk đi xe đò rủ tôi về gấp thăm anh Sơn đang nằm viện. Tôi bận việc không đi được nên nhờ anh Ấn mang về biếu anh Sơn chai rượu quý lấy từ bàn thờ cha mẹ tôi để anh mời bạn. Không ngờ, đó là những ly rượu cuối cùng mà anh chia với người thân trước khi anh đi vào cõi vĩnh hằng.
Đêm thiêng Trịnh Công Sơn 1 tháng 4 năm 2012, năm 2012, đêm mà tôi đã thức gần trọn để đánh máy lại và đưa lên mạng Bài ca Trường Quảng Trạch của thầy Trần Đình Côn, Hiệu trưởng đầu tiên của Trường. Trịnh Công Sơn là anh đầu trong một gia đình đông con. Mẹ anh là bà Lê Thị Quỳnh người Quảng Trạch. (Cha anh là ông Trịnh Xuân Thanh đi lính Pháp ngành tình báo, bị tử nạn xe hơi do chính xe của quân đội Pháp gây ra. Cái chết của cha và sự vất vả nuôi bảy người con của mẹ là nỗi ám ảnh thường trực của Trịnh Công Sơn. Em trai và chồng em gái anh Sơn ở trong quân lực Việt Nam cộng hòa nhưng người anh ruột của chồng em gái lại là chính ủy sư đoàn Điện Biên, thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Huyền thoại Mẹ, gốc gác đầu đời của anh Sơn và những nốt nhạc nấc lên, yêu thương và cảm thông thân phận con người là từ chính đất này). Đó là kỷ niệm làm tôi nhớ mãi, nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Trường.
Thầy Nguyễn Lân Dũng, vị giáo sư già đáng kính của chúng tôi, đã trân trọng chép bài viết “Để bắt đầu một hồi ức” của Trịnh Công Sơn và cẩn thận chọn hình của Người đưa vào một trang riêng. Đó là Cõi thiêng Trịnh Công Sơn trong lòng Thầy và bạn hữu.Tôi xin phép Thầy chép chung về trang này để mọi người cùng đọc. Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo, nhà văn Nguyễn Thụy Kha, nhà văn Đoàn Tử Huyến đã làm tuyển tập “Trịnh Công Sơn, một người thơ ca, một cõi đi về” và cũng làm trang giao lưu trực tuyến cùng bạn đọc trên FaceBook. Trang www.trinhcongson.com là nơi tích trữ những tài liệu sáng tác của và về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để những người yêu thích ông có cơ hội thưởng thức những tác phẩm của ông và biết hơn về con người của ông. Biết bao nhiêu người tưởng nhớ về Trịnh, mỗi người nhớ theo cách riêng của mình.
Tôi cũng lưu ở chốn này Cõi thiêng Trịnh Công Sơn để bạn đọc đến thăm Người và ngưỡng mộ một tâm hồn trong như ngọc. Một tâm hồn biết bao dung, độ lượng với đời nên đã viết được những bản nhạc, lời thơ và tản văn rung động lòng người đến vậy.
Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về Gọi hồn liễu rủ lê thê, gọi bờ cát trắng đêm khuya Ngày mai em đi, đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ Sỏi đá trông em từng giờ, nghe buồn nhịp chân bơ vơ Ngày mai em đi, biển nhớ em quay về nguồn Gọi trùng dương gió ngập hồn, bàn tay chắn gió mưa sang Ngày mai em đi, thành phố mắt đêm đêm vàng Hồn lẽ nghiêng vai gọi buồn, nghe ngoài biển động buồn hơn
Hôm nào em về, bàn tay buông lối ngõ Đàn lên cung phím chờ sầu lên dây hoang vu Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về Chiều sương ướt đẫm cơn mê Trời cao níu bước sơn khê
Ngày mai em đi, cồn đá rêu phong rũ buồn Đèn phố nghe mưa tủi hồn, nghe ngoài trời giăng mây luôn Ngày mai em đi, biển có bâng khuâng gọi thầm Ngày mưa tháng nắng còn buồn, bàn tay nghe ngóng tin sang Ngày mai em đi, thành phố mắt đêm đèn vàng Nửa bóng xuân qua ngập ngừng, nghe trời gió lộng mà thương.
NGÀY MỚI Ngọc Phương Nam
Ai vui tựa gốc lộc mai Thung dung năm tháng Miệt mài đồng xuân!
Bình minh như thể bóng hồng Nắng mưa … chẳng ngại Thinh không … nói gì?!
Tùy cơ tùy thế tùy nghi Trúc Lâm thời vận mệnh ghi Hoàng Thành
A Na Bà Chúa Ngọc tại tháp Po Nagar, Nha Trang, có văn bia do cụ Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) , bản dịch của Quách Tấn, ông bà Lê Vinh tạc năm 1970. Hình tượng Mẹ thật tuyệt vời này trong tín ngưỡng Đạo Mẫu Việt Nam với văn hóa Việt Chăm. Những công trình nghiên cứu lịch sử văn hóa gần đây của các tác giả Ngô Đức Thịnh 2009, Lê Đình Phụng 2015, Huỳnh Thiệu Phong 2016 và những người khác giúp soi thấu nhiều góc khuất để tích cũ viết lạị bài A na Bà Chúa Ngọc. Cám ơn các tác giả của những tài liệu đã trích dẫn (HK).
BÀ THIÊN Y A NAN Lược sử
Xưa tại núi Đại An (Đại điển) có hai vợ chồng Ông tiều đến cất nhà và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín thường hay bị mất.
Một hôm ông rình, bắt gặp một thiếu nữ trạc chừng chín mười tuổi hái dưa rồi giỡn dưới trăng. Thấy cô gái dễ thương ông đem về nuôi. Hai ông bà vốn không con cái, nên đối với thiếu nữ thương yêu như con ruột.
Một hôm trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã thiếu nữ lấy đá chất ba hòn dã sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi đứng ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một tiên nữ giáng trần đang nhớ cảnh Bồng lai. Đã buồn thêm bực nhân thấy khúc kỳ nam theo nước nguồn trôi đến tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ, để mặc cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ rũ đến xem. Thấy gỗ tốt xứm nhau khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi.
Thái tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực, thấy khúc gỗ không lớn lắm lẽ gì nặng đến nỗi giở không lên, Thái Tử bèn lấy tay nhấc thử. Chàng hết sức lạ lùng vì khúc gỗ nhẹ như tờ giấy, bèn đem về cung, trân trọng như một bảo vật.
Một đêm, dưới bóng trăng mờ. Thái Tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam. Nhưng lại gần xem thì tứ bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất mùi hương thanh thanh từ khúc kỳ bay ra. Chàng quyết rình xem mấy đêm liền không hề thấy khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm, đêm vừa quá nửa, bốn bề im phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt từ trong khúc kỳ nam bước ra.
Thái Tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân đành theo Thái Tử về cung và gho biết rõ lai lịch.
Giai nhân xưng là Thiên Y A Na.
Thái Tử vốn đã trưởng thành nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý. Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường bèn tâu phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà vua xin bói cát hung. Trúng quẻ “đại cát” liền cử lễ thành hôn.
Vợ chồng ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai, một gái, trai tên Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngô.
Thời gian qua trong êm ấm Nhưng một hôm lòng quê thúc giục Thiên Y bồng hai con nhập vào kỳ nam trở về làng cũ.
Núi Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông tiều đã về cõi âm Thiên Y bèn xây đắp mồ mã cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn dã man, bà đem văn minh Trung Hoa ra giáo hóa, dạy cày cấy, dạy kéo vải, đệt sợi .. và đặt ra lễ nghi .. từ ấy ruộng nương mở rộng đời sống của nhân dân mỗi ngày mỗi thêm phúc túc phong lưu công khai phá của bà chẳng những ở trong địa phương và các vùng lân cận cũng được nhờ. Rồi một năm vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh một con chim hạc từ trên mây bay xuống, bà cùng hai con lên lưng hạc bay về tiên.
Nhân dân địa phương nhớ ơn đức xây tháp tạc tượng vào năm 817 phụng thờ và mỗi năm vào ngày bà thăng thiên 23. 3 âm lịch tổ chức lễ múa bóng dâng hương hoa rất long trọng. Ở Bắc hải Thái Tử trông đợi lâu ngày không thấy vợ con trở về bèn sai một đạo binh dong thuyền sang Đại an tìm kiếm. Khi thuyền đã đến nơi thì bà đã trở về Bồng đảo. Người Bắc hải ỷ đông hà hiếp dân địa phương ngờ rằng dân địa phương nói dối bèn hành hung không giữ lễ xúc phạm thần tượng, nhân dân bèn thắp nhang khấn vái. Liền đó gió thổi đá bay đánh đắm thuyền của Thái Tử Bắc hải.
Nơi đây nổi lên một hòn đá lớn tục gọi là đá chữ.
Ngày 20 5 năm Tự Đức thứ 9 ‘1857’ PHAN THANH GIẢN Thượng thư Lễ nghi thảo văn, theo bản dịch Quách Tấn
Văn bia viết về Thiên Y A Na tại tháp Po Nagar, Nha Trang do cụ Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) – bản dịch của Quách Tấn – ông bà Lê Vinh tạc năm 1970 (Thiên Y A NA Wikipedia Tiếng Việt), văn bản đánh máy của Hoàng Kim sao y văn bản tại tháp Po Nagar, Nha Trang.
30 HOÀNG DIỆU VÕ MIẾU VIỆT NAM Hoàng Kim
Hoàng Diệu là quan Tổng đốc của nhà Nguyễn sinh năm 1829, mất ngày 25 tháng 4 năm 1882 khi ông quyết tử bảo vệ thành Hà Nội chống lại Pháp tấn công. Trận đánh không cân sức, vì sự phòng thủ không được tăng cường, hỏa mai thô sơ không cản nổi đại bác, súng trường. Trong tình thế tuyệt vọng, Hoàng Diệu vẫn bình tĩnh dẫn đầu quân sĩ chiến đấu chống lại giặc Pháp. Đến lúc thành không thể giữ, ông lệnh cho tướng sĩ rút lui để tránh thương vong, và cắn ngón tay lấy máu viết di biểu gửi vua Tự Đức: “Thành mất không sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện xin theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng“. Sau đó, ông ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 54 tuổi.
Võ Nguyên Giáp là Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, mất ngày 4 tháng 10 năm 2013. Ông là một trong những người góp công thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được chính phủ Việt Nam đánh giá là “người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, là chỉ huy chính trong các chiến dịch và chiến thắng chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) đánh bại Thực dân Pháp, Chiến tranh Việt Nam (1960– 1975) chống Mỹ, thống nhất đất nước và Chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979)chống quân Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc. Ông được đánh giá là một trong những vị tướng kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam và thế giới.
30 Hoàng Diệu là nơi ở của đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngôi đền thiêng Võ miếu của dân tộc Việt, nơi lưu dấu hình ảnh của bậc anh hùng “Nghệ thuật quân sự Việt Nam là dám đánh và biết thắng”.”Chúng tôi trả lời là từ “lo sợ” không có trong tư duy quân sự của chúng tôi”. Võ Nguyên Giáp là người đã cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo quân dân Việt kháng chiến chống Pháp thành công, rửa sạch làu nỗi nhục mất nước của dân tộc Việt trong Chiến tranh Pháp – Đại Nam (1858 -1884) kết thúc bằng thắng lợi của Đế quốc thực dân Pháp chiếm toàn bộ lãnh thổ Đại Nam và thiết lập bộ máy cai trị thời kỳ Pháp thuộc. Chiến tranh Pháp – Đại Nam (1858-1884) 26 năm và Chiến tranh Đông Dương (1946 – 1954) 9 năm, nguyên nhân mất nước và giành lại được chủ quyền là bài học lớn. Nói theo Binh pháp Tôn Tử là phải tìm hiểu và đánh giá thật kỹ thực lực và nội tình đôi bên về ” thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tướng soái, quân kỷ “. Nguyên nhân sự mất nước của triều vua Tự Đức nhà Nguyễn trong 26 năm đối trận chủ yếu thua là do “trang bị vũ khí triều Nguyễn kém xa quân đội đế quốc Pháp”, “nền văn minh nông nghiệp Á Đông quá lạc hậu so với nền văn minh khoa học phương Tây”, “tham vọng thực dân của đế quốc Pháp cướp chủ quyền, tài nguyên, nhân lực nước ta”; “sự lúng túng của vua quan nhà Nguyễn không tìm ra được cách đánh và kế sách biết thắng”. Cụ Nguyễn Tri Phương, cụ Hoàng Diệu đều là người dám đánh nhưng chỉ đến thời cụ Hồ, tướng Giáp thì mới vừa “dám đánh và biết thắng”. Toàn dân đồng sức, trên dưới đồng lòng, tận dụng tốt “thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tướng soái, quân kỷ” mà thành công.
Đọc và suy ngẫm về Hoàng Diệu và Tướng Giáp nhân ngày mất bi tráng của Tổng đốc Hoàng Diệu ngày 25 tháng 4 năm 1882. Hoàng Diệu được đông đảo sĩ phu, nhân dân Hà Nội và Bắc Hà khâm phục thương tiếc. Ông được thờ trong đền Trung Liệt (cùng với Nguyễn Tri Phương) trên gò Đống Đa với câu đối: Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa. Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên Dịch: Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất/ Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh. Vua Tự Đức mặc dầu không ủng hộ Hoàng Diệu trong việc chống đối với quân Pháp tại thành Hà Nội, vẫn phải hạ chiếu khen ông đã tận trung tử tiết, sai quân tỉnh Quảng Nam làm lễ quốc tang. Tôn Thất Thuyết, một đại biểu nổi tiếng của sĩ phu kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông trong hai câu đối: Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện. Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm. Dịch: Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước. Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm. Cụ Phó bảng Nguyễn Trọng Tỉnh có bài thơ điếu Hoàng Diệu, ghi lại trong Lịch sử vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe như sau: Tay đã cầm bút lại cầm binh. Muôn dặm giang sơn nặng một minh. Thờ chúa, chúa lo, lo với chúa. Giữ thành, thành mất, mất theo thành. Suối vàng ắt hẳn mài gươm bạc. Lòng đỏ thôi đành gửi sử xanh. Di biểu nay còn sôi chính khí. Khiến người thêm trọng bút khoa danh.
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết: Tôi có đi thăm mộ cụ Hoàng Diệu ở giữa cánh đồng Xuân Đài. Mộ không bề thế như tôi tưởng, còn quá nhỏ so với lăng mộ của những viên quan lớn vô tích sự trên triều đình Huế mà tôi vẫn thường thấy. Mộ là một nắm vôi khô nằm vùi giữa đồng cỏ voi, xa khu dân cư…Hồi nhỏ nhà nghèo, mẹ chăn tằm dệt lụa nuôi con ăn học. Hoàng Diệu lớn lên bằng tuổi trẻ gian khổ ở làng quê, buổi sáng sớm đi học chỉ súc miệng và nhịn đói, trưa về ăn một chén bắp nấu đậu, đến tối cả nhà chia mỗi người một bát cơm. Ngày nghe tin chồng tuẫn tiết, bà Hoàng Diệu đang cuốc cỏ lá de, ngất xỉu ngay trên bờ ruộng…Làm quan Tổng đốc mà nhà còn nghèo đến thế, huống là nhà dân… Nhà văn Sơn Nam viết: “Đi thăm mộ Hoàng Diệu, (nghe) lúc làm quan, có lần ông gửi về cho mẹ một vóc lụa. Bà mẹ không nhận, gửi trả lại cho con, kèm theo một nhánh dâu, tượng trưng cho ngọn roi, để cảnh cáo đứa con đừng nhận quà cáp gì của dân.
Những người nặng lòng với nước đều biết rút tỉa bài học trong thịnh suy, thành bại để mưu cầu hạnh phúc cho dân.
Dám đánh và biết thắng là tinh hoa nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Hoàng Kim
NGỌC PHƯƠNG NAMNGÀY MỚI Hoàng Kim
Ai đến nơi nao xa thăm thẳm chia nửa vầng trăng khuyết lại tròn, mưa níu ngày dài thêm nỗi nhớ ngóng cửa chờ nhau ai nhớ ai …
Cứ đợi cứ chờ thương mòn mỏi gìn vàng giữ ngọc nắng mai nay, Chút thôi mưa sớm trời quang lại, sương đọng mi ai lặng lẽ hoài …
(Ngọc Phương Nam, hè 2013)
TỰ SỰ Chunhac Nguyen
Người về phương ấy xa lăm lắm để lại mình tôi với mùa hè, nắng tuy chưa gắt nhưng dai dẳng của nỗi chờ trông nắng sắt se…
Chẳng biết bao giờ người trở lại bồi hồi ngõ nhỏ tĩnh lặng xưa, hiu hắt nắng chiều xiên quán lá, điệu nhạc ai sầu da diết đưa…
(Bình Dương . hè 2011)
KÊNH ÔNG KIÊT GIỮA LÒNG DÂN Hoàng Kim
Giống sắn KM94, KM98-1, giống lúa gạo thơm ngon KĐM 135 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới ở Tri Tôn, Tịnh Biên đã mang lại niềm vui cho người nghèo tại vùng đất này; chính nhờ kênh ông Kiệt mới bảo tồn và phát triển tốt được. Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi là ký ức lắng đọng mãi trong lòng tôi
Thơ cho em giữa tháng năm này Là lời người dân nói vể kênh ông Kiệt Là con kênh xanh mang dòng nước mát Làm ngọt ruộng đồng Tứ giác Long Xuyên
Con kênh T5 thoát lũ xả phèn Dẫn nước ngọt về vùng quê nghèo khó Tri Tôn, Tịnh Biên trong mùa mưa lũ Giữa hoang hóa, sình lầy, thấm hiểu lòng dân
Nguyễn Công Trứ xưa khẩn hoang đất dinh điền Thoại Ngọc Hầu mở mang kênh Vĩnh Tế Kênh ông Kiệt giữa lòng dân bền bỉ Ân nghĩa cuộc đời lưu dấu nghìn năm
Em ơi khi nuôi dạy con Hãy dạy những điều vì dân, vì nước Người ta sinh ra cho đến khi nhắm mắt Đọng lại trong nhau vẫn chỉ những CON NGƯỜI.
Hệ thống thủy lợi nội đồng nối với “Kênh ông Kiệt” đã mang nguồn nước ngọt về ruộng
Giống lúa KĐM 135 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới đã mang lại niềm vui cho người nghèo.
Các giống cây màu rau đậu trồng vụ khô sau khi thu hoạch lúa đã giúp nâng cao đời sống người dân.
Khoa học kỹ thuật bám dân bám ruộng âm thầm nhưng hiệu quả làm đổi thay vùng Tri Tôn Tịnh Biên.
Ông Nguyễn Minh Nhị (nguyên Chủ tịch tỉnh) cùng anh Ngô Vi Nghĩa với giống mì ngắn ngày trên ruộng tăng vụ.
“Kênh ông Kiệt” và vùng đất An Giang cũng là nôi nuôi dưỡng phát triển của các giống mì ngắn ngày KM98-1, KM140 đươc chọn tạo để đáp ứng nhu cầu né lũ nay đã phát triển rộng khắp toàn quốc (ảnh Thầy Lê Minh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang, Phó Chủ tịch tỉnh An Giang với giống mì KM98-1)
Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phú hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận được thực hiện ngày nay là sự bảo tồn và phát triển chuỗi kinh nghiệm quý Cách mạng sắn Việt Nam.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho các cháu uống vacxin phòng bệnh ở Đà Nẵng. (Ảnh: Minh Đạo)
MỘT NÉN HƯƠNG THÀNH KÍNH Việt Phương
Bài viết này của cố nhà thơ Việt Phương lúc ông 85 tuổi nhớ về cố Thủ tướng Võ Vă Kiệt
Tôi không phải là người được biết đồng chí Võ Văn Kiệt – Sáu Dân từ sớm, cũng không phải người được giúp việc anh Sáu Dân lâu năm.
Khi tôi bắt đầu là một chuyên gia tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, tôi 65 tuổi và anh Sáu Dân 71 tuổi. Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi thấy cái tên Sáu Dân thật hợp với tính cách của anh. Tôi trân trọng người lãnh đạo và yêu quý CON NGƯỜI anh.
Sáu Dân từ sớm có ý thức về dân tộc, về đất nước, từ năm 17 tuổi. Ý thức ấy ngày càng sâu sắc, trở thành tâm niệm góp phần giải phóng dân tộc, làm giàu đẹp nước Việt Nam, người Việt Nam, toàn dân tộc và từng người dân.
Sáu Dân là con người biết người, biết mình, phục thiện, theo lẽ phải, có lỗi thì nhận lỗi và sửa chữa, thẳng thắn, chân thành, từ khi là con nhà nghèo ở đợ, không được vào trường học đến khi là Thủ tướng Chính phủ. Anh biết mình có năng khiếu, sở trường ở những điểm nào, có khiếm khuyết, hẫng hụt ở những điểm nào, biết mình có một sứ mệnh và biết mình không toàn bích.
Sáu Dân có đức tính lắng nghe và biết chọn, có đòi hỏi tự thân được chia sẻ, trao gửi việc làm và tâm tình với đồng bào, đồng chí, có khả năng cảm thông với mọi tầng lớp, mọi con người.
Trong đời mình, càng về sau càng nổi bật, Sáu Dân coi trọng báo chí, đỡ đầu, hướng dẫn, khi cần thì bênh vực, che chắn cho những tờ báo, những nhà báo chân chính, dũng cảm, sáng tạo, và bản thân Sáu Dân là một nhà báo viết nhiều, viết cẩn trọng, đầy trách nhiệm, không chỉ viết bằng mực mà viết bằng máu, bằng tâm huyết của mình.
Sáu Dân có một chất người, một nhân cách phong phú, nhiều chiều cạnh, yêu sống, biết sống và dám sống, nhưng thiếu điều kiện, cả điều kiện bên ngoài và điều kiện bản thân, để phát huy mình đích đáng hơn nữa.
Nhược điểm của Sáu Dân là tuy hiểu biết và từng trải sâu rộng, nhưng còn thiếu một trình độ triết học và chính trị, thiếu một nền tảng văn hóa nghĩa rộng ở tầm cần có của người đứng đầu Chính phủ và nền hành pháp Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Khuyết điểm của Sáu Dân là tuy sáng suốt trong đánh giá con người, mà lại cả tin nhiều khi đến ngây thơ, biết bảo vệ, gìn giữ cho bạn hữu, mà chưa biết bảo vệ, giữ gìn đủ mức cho mình.
Đối với tôi, Sáu Dân là một người anh lớn, một người bạn thân, mà bài học và kỷ niệm sống thấm thía trong tôi qua từng đoạn đường đời, qua mọi vui buồn của cuộc sống.
Nếu chỉ nói một câu về Sáu Dân, thì tôi xin nói rằng: Cầu mong và tin tưởng dân tộc ta có những con người, có những người cầm quyền có đức, có tài, tốt và đẹp như Sáu Dân.
HỮU THỈNH VÀ PHÚ QUANG Hoàng Kim (tóm tắt giới thiệu)
Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh bút danh là Vũ Hữu. Quê quán ở Tam Dương,Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Năm 1963 ông nhập ngũ thuộc Trung đoàn 202 rồi trở thành cán bộ tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Ông tham gia ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam các khóa III. IV, V. tổng thư ký và chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam giai đoạn 2000-2020, tổng biên tập báo Văn nghệ. Sự nghiệp văn học của ông có các bài thơ hay vắt qua thời kỳ chiến tranh như “Chiều sông Thương” “Trên một chiếc xe tăng” “Phan Thiết có anh tôi” “Câu cá bên bờ sông Sêpôn” nhưng trãi nghiệm sâu sắc,tinh tế, giản dị, như “Thơ viết ở biển“,“Thương lượng với thời gian”, “Sang thu” lại ở trong thời kì hòa bình, thơ viết về thân phận con người và cuộc sống nông thôn.
Phú Quang (13 tháng 10 năm 1949 – 8 tháng 12 năm 2021), tên đầy đủ là Nguyễn Phú Quang, một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam. Nhạc của Phú Quang chủ yếu là tình ca, những bài hát trữ tình viết về Hà Nội. Ngoài ra, ông còn sáng tác khí nhạc, nổi bật là “Khát vọng” và “Tình Yêu Của Biển”, với nhạc phim Bao giờ cho đến tháng Mười, Vị đắng tình yêu (Theo Wikipedia Tiếng Việt). Ông có 10 ca khúc hay nhất của nhạc sĩ Phú Quang – YouTube nhiều người yêu thích
BIỂN NỔI NHỚ VÀ EM Nhạc Phú Quang, thơ Hữu Thỉnh
Anh xa em Trăng cũng chợt lẻ loi thân thế Biển vẫn thấy mình dài rộng thế Xa cánh buồm một chút đã cô đơn
Gió âm thầm chẳng nói mà sao núi phải mòn Anh đâu phải là chiều mà nhuộm em đến tím Sóng có nghĩa gì đâu nếu chiều nay anh chằng đến Dù sóng đã làm em Nghiêng ngã Vì anh
Nguyên tác THƠ VIẾT Ở BIỂN Hữu Thỉnh
Anh xa em Trăng cũng lẻ Mặt trời cũng lẻ Biển vẫn cậy mình dài rộng thế Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến Dù sóng đã làm anh Nghiêng ngã Vì em
Thương lượng với thời gian Hữu Thỉnh
Buổi sáng lo kiếm sống Buổi chiều tìm công danh Buổi tối đem trí khôn ra mài rũa Tỉnh thức Những hàng cây bật khóc
10-2005 Nguồn:Thi Viện: Hữu Thỉnh, Thương lượng với thời gian, NXB Hội nhà văn, 2005
Sang thu Hữu Thỉnh
Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu
Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi.
Chiều sông Thương Hữu Thỉnh
Đi suốt cả ngày thu vẫn chưa về tới ngõ dùng dằng hoa quan họ nở tím bên sông Thương
nước vẫn nước đôi dòng chiều vẫn chiều lưỡi hái những gì sông muốn nói cánh buồm đang hát lên
đám mây trên Việt Yên rủ bóng về Bố Hạ lúa cúi mình giấu quả ruộng bời con gió xanh
nước màu đang chảy ngoan giữa lòng mương máng nổi mạ đã thò lá mới trên lớp bùn sếnh sang
cho sắc mặt mùa màng đất quê mình thịnh vượng những gì ta gửi gắm sắp vàng hoe bốn bên
hạt phù sa rất quen sao mà như cổ tích mấy cô coi máy nước mắt dài như dao cau
ôi con sông màu nâu ôi con sông màu biếc dâng cho mùa sắp gặt bồi cho mùa phôi phai
nắng thu đang trải đầy đã trăng non múi bưởi bên cầu con nghé đợi cả chiều thu sang sông.
Trên một chiếc xe tăng Hữu Thỉnh
Năm anh em trên một chiếc xe tăng, Như năm bông hoa nở cùng một cội, Như năm ngón tay trên một bàn tay, Ðã xung trận cả năm người như một.
Vào lính xe tăng anh trước anh sau, Nết ăn ở người thì lạnh, nóng, Khi đã hát hòa cùng một giọng, Một người đau tất cả quên ăn.
Năm anh em mỗi đứa một quê, Ðã lên xe là cùng một hướng, Đã lên xe là chung khổ sướng, Trước quân thù nhất loạt xông lên.
Năm anh em mang năm cái tên, Đã lên xe không còn tên riêng nữa, Trên tháp pháo một ngôi sao màu lửa, Năm quả tim một nhịp đập dồn.
Một con đường đất đỏ như son, Một màu rừng xanh bạt ngàn hy vọng, Một ý chí bay ra đầu ngọn súng, Một niềm tin nghiến nát mọi quân thù
Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào Tháng 3 năm 1971
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Doãn Nho phổ nhạc thành bài hát Năm anh em trên một chiếc xe tăng.
Nguồn: Âm vang chiến hào (thơ in chung), NXB Quân đội nhân dân, 1975
Phan Thiết có anh tôi Hữu Thỉnh
Anh không giữ cho mình dù chỉ là ngọn cỏ Đồi thì rộng anh không vuông đất nhỏ Đất và trời Phan Thiết có anh tôi
Chính ở đây anh thấy biển lần đầu Qua cửa hầm Sau những ngày vượt dốc Biển thì rộng căn hầm quá chật Khẽ trở mình cát đổ trắng hai vai
Trong căn hầm mùi thuốc súng mồ hôi Tim anh đập không sao ghìm lại được Gió nồng nàn hơi nước Biển như một con tàu sắp sửa kéo còi đi Những ngôi sao tìm cách sáng về khuya Những người lính mở đường đi lấy nước Họ lách qua những cánh đồi tháng chạp Trong đoàn người dò dẫm có anh tôi Biển ùa ra xoắn lấy mọi người Vì yêu biển mà họ thành sơ hở Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ Mất chỉ còn cách nước một vài gang
Anh ở đây mà em mãi đi tìm Em hy vọng để lấy đà vượt dốc Tân Cảnh Sà Thầy Đắt Pét Đắc Tô Em đã qua những cơn sốt anh qua Em đã gặp trận mưa rừng anh gặp Vẫn không ngờ có một trưa Phan Thiết Em một mình đứng khóc ở sau xe
Cánh rừng còn kia trận mạc còn kia Vài bước nữa thì tới đường số Một Vài bước nữa Thế mà Không thể khác Biển màu gì thăm thẳm lúa anh đi
Em chưa hay cánh đồi ấy tên gì Nhưng em biết ngày ngày anh vẫn đứng Anh chưa biết đã tan cơn báo động Chưa biết tin nhà không nhận ra em. Không nằm trong nghĩa trang Anh ở với đồi anh xanh cỏ
Cỏ ở đây thành nhang khói của nhà mình Đồi ở đây cũng là con của mẹ
Lo liệu trong nhà dồn xuống vai em Tiếng còi xe Phan Thiết bước vào đêm Đèn thành phố soi người đi câu cá Anh không ngũ người đi câu không ngũ Biển đêm đêm trò chuyện với hai người Cứ thế từng ngày Phan Thiết có anh tôi.
1981
TRỊNH CÔNG SƠN LẮNG ĐỌNG Hoàng Kim
Trang viết Trịnh Công Sơn lắng đọng là chắt lọc thông tin ít biết. Sự thật lịch sử chỉ có một nhưng viết về sự thật lịch sử và nghiên cứu lịch sử cần suy nghiệm nhiều nguồn thông tin với các góc nhìn khác nhau để tìm về đúng sự thật.Bài viết này góp phần tìm hiểu năm nội dung chính 1) Đình Lạc Giao, chùa Khải Đoan, Hồ Lắk và quê Trịnh; 2) Cuộc đời và nhân cách Trịnh Công Sơn; 3) Tác phẩm và di sản Trịnh Công Sơn; 4) Kỷ niệm về anh Trịnh Công Sơn; 5) Cõi riêng Trịnh Công Sơn Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sinh ngày 28 tháng 12 năm 1939, mất ngày 1 tháng 4 năm 2001 Di sản của người nghệ sĩ tài hoa này là Nhạc Trịnh với trên 600 ca khúc tình yêu cuộc sống, hòa bình nhân đạo và nỗi đau thân phận con người. “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”. https://youtu.be/ncHCI-QLV0A
Trịnh Công Sơn sinh ra và lớn lên tại cao nguyên Lạc Giao, xã Lạc Giao, nay là phường Thống Nhất, Ban Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk.Quê nội của ông ở làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trịnh Công Sơn lớn lên tại Huế. Lúc nhỏ ông học theo học các trường Lyceè Francais và Provindence ở Huế, sau vào Sài Gòn theo học triết học trường Tây Lyceé J.J Rousseau Sài Gòn và tốt nghiệp tú tài tại đây. Trịnh Công Sơn có quê ngoại ở Quảng Sơn, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, Chúng tôi về thăm đình Lạc Giao, chùa Khải Đoan. hồ Lắk và quê Trịnh trong chuyến công tác ở Trường Đại học Tây Nguyên, qua sự liên hệ với anh Trịnh Xuân Ấn, quê ở Ban Mê Thuột, là con chú ruột của anh Trịnh Công Sơn.
Đình Lạc Giao là một ngôi đình thờ thành hoàng theo tập quán người Việt và là một di tích lịch sử đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đình Lạc Giao là nơi thờ cụ Đào Duy Từ, vị thần Thành Hoàng bản thổ, nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, tế lễ xuân thu nhị kỳ, đó cũng là nơi thờ cụ Phan Hộ vị tiên hiền đã có công khởi xướng thành lập làng Lạc Giao. Đình nằm tại ngã tư giữa đường Phan Bội Châu và đường Điện Biên Phủ, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk. Đình Lạc Giao chính điện có hai câu đối. Phía bên nhà tiếp khách có bày chứng tích nhưng thần phả thì vị trụ trì chỉ cho chúng tôi sang tìm ở Chùa Khải Đoan, và hình như vẫn đang lưu ẩn trong một câu chuyện dài.
Chùa Khải Đoan là ngôi chùa được xây dựng lần đầu tiên và lớn nhất không chỉ ở thành phố Buôn Ma Thuột mà còn của cả tỉnh Đắk Lắk. Chùa Khải Đoan nằm tại phường Thống Nhất, trên đường Phan Bội Châu, thành phố Buôn Ma Thuột, được vua Bảo Đại cho xây dựng là làm lễ khánh thành năm 1951. Chùa được bà đức Từ Cung Đoan Huy hoàng thái hậu mẹ vua Bảo Đại làm chủ, bà Nam Phương Hoàng Hậu quản lý, nhưng việc trực trông nom thi công là bà Bùi Mộng Điệp, một phi tần của vua Bảo Đại. Khi vua Bảo Đại lập Hoàng triều Cương thổ trên phần đất Tây Nguyên của Việt Nam, ông đã cử bà Bùi Mộng Điệp lên Buôn Mê Thuột để giúp vua giữ đất Hoàng triều Cương thổ. Bà Bùi Mộng Điệp tuy làm vợ thứ, tuy không được tổ chức cưới xin nhưng nhờ chăm lo việc thờ cúng tổ tiên của hoàng tộc rất chu đáo nên được Đức Từ Cung ban áo mũ để thay mặt Hoàng hậu Nam Phương trong các cuộc tế lễ tại chùa này, vì bà Nam Phương là người theo Thiên Chúa giáo Chùa Khải Đoan là ngôi chùa cuối cùng tại Việt Nam được phong sắc tứ của chế độ phong kiến và cũng là ngôi chùa lần đầu có ở Cao Nguyên gần Đình Lạc Giao và cũng là vùng đất nôi sinh thành của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tên gọi Khải Đoan là ghép từ tên vua Khải Định và vợ ông là Đoan Huy hoàng thái hậu, cũng còn một nghĩa khác là thờ “vọng” thủy tổ Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng, tổ nghiệp Nhà Nguyễn. Chùa Khải Đoan ngày 5 tháng 4 năm 2012 bắt đầu đặt viên đá trùng tu lại và xây dựng thêm và hiện được bổ sung rất nhiều công trình mới nhưng vẫn giữ nguyên chính điện cũ. Đó là nơi thờ phụng lớn nhất của Phật giáo tại Đắk Lắk, và là điểm du lịch không thể bỏ qua ở Buôn Ma Thuột.
Đến với Tây Nguyên mới, chúng ta hãy đến với nơi sinh thành của người nhạc sĩ tài danh Trịnh Công Sơn gần chùa Khải Đoan và Đình Lạc Giao là chốn cõi thiêng Trịnh Công Sơn . Tài liệu chọn và hành hương mới này giúp bạn đọc thăm Người và ngưỡng mộ một tâm hồn trong như ngọc. Một tâm hồn biết bao dung, độ lượng với đời nên đã viết được những bản nhạc, lời thơ và tản văn rung động lòng người đến vậy. Câu chuyện kể dưới đây mời bạn đọc kỹ hơn Trịnh Công Sơn lắng đọng bằng vách những điều sâu xa ẩn giữa hai dòng chữ khi mà Trịnh Công Sơn và gia đình anh đi giữa hai lằn đạn nhiều điều sự thật ẩn khuất chưa thể nói hết.
Thăm Đình Lạc Giao và chùa Khải Đoan, từ phải sang trái có giáo sư nhà giáo nhân dân Trần Văn Minh cựu hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế với giáo sư Trần Ngọc Ngoạn cựu Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Thái Nguyên, tiến sĩ Hoàng Kim nghiên cứu viên chính và giảng viên chính về cây lương thực với tiến sĩ sắn Nguyễn Thị Trúc Mai.
Hồ Lắk là một hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất tỉnh Đăk Lăk và lớn thứ hai Việt Nam sau Hồ Ba Bể. Hồ Lắk xung quanh có những dãy núi lớn được bao quanh bởi các cánh rừng nguyên sinh. Buôn Jun, một buôn làng nổi tiếng của người M’Nông, nằm cạnh hồ này. Người dân địa phương dùng thuyền độc mộc đi lại trên hồ. Voi đưa du khách đi tham quan hồ. Dinh Bảo Đại ở thành phố và tại hồ Lắk là khá đẹp, trữ tình, và có tầm nhìn. Ông cố vấn Ngô Đình Nhu (1010-1063) một nhà chiến lược, nói về vua Bảo Đại, một lời đánh giá ngắn và sắc sảo: “Ai trong hoàn cảnh Bảo Đại cũng khó làm được tốt hơn“. Nhà cũ của anh Trịnh ra sao và những câu chuyện riêng tư tôi sẽ dành kể bạn nghe trong một dịp khác. Anh Trịnh Xuân Ấn nói những lời tâm đắc và tôi muốn dừng lại ở những thông tin đã được hiệu đính này. Chuyến hành hương về nơi sinh thành của Trịnh, gặp người thân của Trịnh, tôi đắm mình trong nhạc Trịnh tại nơi thủ phủ cà phê Tây Nguyên, ngắm hồ Lăk chiều tà, thuyền độc mộc, voi hồ Lăk, nghĩ về ngọn nến Hoàng Cung, nhạc Trịnh và thân phận con người. Các nhà khảo cổ Slovenia, nghe nói, đã tìm thấy một nửa còn lại của chiếc thuyền độc mộc 2.000 năm tuổi lớn nhất thế giới trên sông Ljubljanica ở thủ đô Ljubljana. Đăk Lắk là chốn sinh thành của Trịnh, quê hương thứ ba của ông sau quê mẹ Quảng Bình và quê cha ở Huế. Thuyền độc mộc và voi là phương tiện đi hồ Lắk và trưng bày tại bảo tàng cà phê Trung Nguyên. Sông Srepok với Tây Nguyên là vỉa sâu văn hóa,
Trịnh Công Sơn, Bửu Ý, Nguyễn Trọng Tạo và Hoàng Phủ Ngọc Tường (ảnh Internet)
Cuộc đời và nhân cách Trịnh Công Sơn
Sách viết về Trịnh Công Sơn hiện có trên 10 quyển và một khối lượng lớn các bài báo viết về tác phẩm và di sản. Thông tin về cuộc đời, gia đình và tuổi thơ của Trịnh Công Sơn, tiếc rằng hiện vẫn còn nhiều khoảng trống cần tìm hiểu. Tiểu sử Trịnh Công Sơn trên Liên Thành, vnexpress, người nổi tiếng, facebook, … đều quá vắn tắt: Nơi sinh: tại cao nguyên Lạc Giao (xã Lạc Giao, hiện nay là phường Thống Nhất, Ban Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk) Quê quán: làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông lớn lên tại Huế. Lúc nhỏ ông học theo học các trường Lyceè Francais và Provindence ở Huế, sau vào Sài Gòn theo học triết học trường Tây Lyceé J.J Rousseau Sài Gòn và tốt nghiệp tú tài tại đây; anh em gồm … mà còn thiếu rất nhiều thông tin được kiểm chứng.
Thấu hiểu cuộc đời và nhân cách của Trịnh Công Sơn, chúng ta mới có thể cảm thông và hiểu sâu Nhạc Trịnh. Một cõi đi về, Cát bụi, Để gió cuốn đi, Huyền thoại Mẹ,… đều là những tiếng nấc, tiếng lòng thẳm thẳm của một kiếp người mà Trịnh thấu hiểu về đời mẹ, đời cha, đời của các anh em, người thân chung máu mủ gia đình nhưng li tán ở các chiến tuyến khác nhau, những khống chế, rình rập, vây bủa, tranh chấp của các thế lực trên thân phận con người mà gia đình của chính Trịnh Công Sơn là người trong cuộc. Tôi thầm lặng thu thập tư liệu và chỉ mới tuyển chọn và tổng hợp về Trịnh Công Sơn ở những thông tin chừng mực và đợi bổ sung kiểm chứng thêm tư liệu.
Trong các tư liệu chắt lọc có bài viết đặc sắc và sâu lắng “Trường hợp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn” của cựu đại tá Nguyễn Mâu, trưởng ngành Cảnh sát đặc biệt của Tổng Nha Cảnh sát Sài Gòn: “Chúng tôi xin phép anh linh Trịnh Công Sơn được gọi anh bằng anh như thuở nào. Chúng tôi nói thẳng ở đây rằng giữa chúng tôi không có tình thâm giao nhưng rất hiểu nhau và kính trọng nhau. Thật dễ hiểu: làm sao là bạn thân được khi một người là nhân viên công an rình rập dòm ngó anh và anh lại là một nghệ sĩ có tâm hồn đang đau nhức với cái đau nhức của dân tộc và sáng tác vì cái đau nhức ấy…”. “Anh ấy đã ra đi nhưng bao vấn nạn còn để lại. Chúng tôi đã thực lòng viết ra đây về anh ấy, nhân danh một cựu nhân viên tình báo đã từng bới xới tìm hết tì vết của anh để truy tố. Anh ấy đã nằm xuống và đã trở thành vô hiệu hóa tòa án, công tố, bị can, biện hộ. Tất cả nay trong quyền xét đoán vì văn học sử của mỗi độc giả. Chúng tôi giang tay và cúi đầu thật thấp cầu nguyện chỉ mong linh hồn anh tìm được sự an nghỉ chốn vĩnh hằng”.
Vượt lên trên những chứng cớ “bên ni”, “bên tê” “Trịnh Công Sơn và những hoạt động cộng sản nằm vùng” “Biến động miền Trung” :”Trò chuyện với nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan về những “hũ mắm thúi” của cựu thiếu tá cảnh sát Liên Thành ở Mỹ“. Bài viết của ông Nguyễn Mâu in trong quyển sách của ông nhan đề NDB – Ngành Đặc Biệt (The Special Branch) xuất bản vào năm 2007. Người giới thiệu bài viết của ông Nguyễn Mâu tên là Lê Xuân Nhuận – đại tá Trưởng ngành Cảnh sát đặc biệt Vùng II chiến thuật. Trong lời giới thiệu, ông Nhuận cho biết đã đọc cả hai bài viết về Trịnh Công Sơn của Liên Thành và của Hoàng Phủ Ngọc Phan và nói rõ: “Nhận định và quyết định của ông Nguyễn Mâu đối với Trịnh Công Sơn chính là thái độ và biện pháp của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đối với nhạc sĩ ấy, ở cấp cao nhất trong toàn quốc (VNCH) và trong thời gian ông Nguyễn Mâu cầm đầu ngành tình báo này.”
Tác phẩm và di sản Trịnh Công Sơn
Nhà văn Ngô Minh đã viết trong “Quà tặng xứ mưa” “Nhớ Trịnh Công Sơn” : “Trịnh Công Sơn là thiên tài âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX . Di sản âm nhạc Trịnh Công Sơn là vô giá , mãi mãi là niềm tự hào của người Việt Nam. Bảy năm Trịnh Công Sơn về “với cát bụi”, đã có hơn 10 cuốn sách viết về ông, cuốn mới nhất là tập bút ký “ Cây đàn lia của Hoàng tử be” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường được Nhà xuất bản Trẻ ấn hành đầu năm 2005. Âm nhạc Trịnh ngày càng lay động chiều sâu tâm thức hàng chục triệu người. Đã là người Việt, từ già đến trẻ không ai không hát Trịnh , không gia đình nào không có trong nhà một băng hay đĩa nhạc Trịnh ….Sống trong đời sống .Cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không ? Để gió cuốn đi. Để gió cuốn đi…Không chỉ ở Việt Nam, âm nhạc Trịnh Công Sơn cũng ngày càng chinh phục thế giới . Ngay từ năm 1972, Trịnh Công Sơn đã được Đĩa Vàng ở Nhật Bản với bài Ngủ đi con, trong Ca khúc Da vàng, qua giọng hát Khánh Ly, phát hành trên 2 triệu đĩa . Trịnh Công Sơn có tên trong từ điển Bách khoa Pháp “ Encyclopédie de tous les pays du momde”. Nhạc Trịnh đã có mặt tại nhiều nước Châu Á, châu Âu, Châu Mỹ… Có một chàng trai người Đức mang họ Trịnh luôn cùng mới bạn bè hát Trịnh Công Sơn; Có một cô gái Nhật Bản năm nào cũng sang Việt Nam để viếng mộ Trịnh …Đặc biệt , ngày 3-2-2004, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York đã công bố “Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới” (WPMA). Sáu tên tuổi âm nhạc nổi tiếng thế giới được giải thưởng lần này là Bob Dylan , Conuntry Joe & the Fish, Hary Belafonte, Joan Baez, Peter, Paul & Mary và Trịnh Công Sơn. WPMA tôn vinh những người đã đem âm nhạc của mình cống hiến cho cuộc đấu tranh vì hòa bình và nhân đạo trên thế giới. Đây là sự kiện âm nhạc quốc tế lớn nhất Việt Nam từ trước tới nay! Kể từ ca khúc đầu tiên Ướt mi công bố năm 1959 ,trải 40 năm sáng tác, Trịnh Công Sơn đã để lại gia sản trên 600 ca khúc lay động lòng người .” “Người ta chia ca khúc Trịnh thành “ ba dòng” : Dòng trữ tình, dòng phản chiến và dòng giải thoát bản ngã!. Lý thuyết là thế , nhưng tôi nghĩ dưới góc nhìn “hòa bình và nhân đạo” thì hầu như ca khúc nào của Trịnh cũng là vút lên từ tận cùng sâu thẳm của tình yêu cuộc sống và nỗi đau phận người . Đó chính là tầm cao , sự vĩnh cửu của âm nhạc Trịnh”. “Lần ra Huế dự “ Đêm nhạc Trịnh Công Sơn quyên góp tiền giúp trẻ em nghèo học giỏi”, anh Sơn nâng cùng anh em chén rươụ Chuồn, tâm sự :” Trong lời bài hát của mình không có một từ nào về các địa danh của Huế, nhưng toàn bộ âm nhạc của mình chính là Huế đấy, Huế của kiếp người…”. Vâng, trên 600 ca khúc của Trịnh Công Sơn để lại là một phần của Di sản văn hóa Huế , tồn tại mãi với thời gian…” Âm nhạc Trịnh Công Sơn là âm nhạc vì con người nên ở lại mãi với hồn người, không biên giới, “cao hơn mọi thành kiến trên đời “ ( chữ Anh Ngọc) . Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới của Liên Hiệp Quốc là sự tôn vinh ở tầm cỡ thế giới về Di sản âm nhạc của Trịnh . Đây cũng là sự tôn vinh một nhân cách sống và bản lĩnh sáng tạo của một thiên tài âm nhạc.”
Ca từ nhạc Trịnh có đặc trưng tinh tế, hồn nhiên, gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nhạc sĩ Văn Cao nhận xét: “Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra” Phạm Duy bình luận “…toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại”, và Trịnh Công Sơn tự nhận xét: “Ca khúc đối với tôi là một mô hình gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nó là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc” (Trích dẫn bởi Trần Hữu Thục: Một cái nhìn về ca từ Trịnh Công Sơn). “Cảm nhận ca từ Trịnh Công Sơn” ảnh Dương Minh Long, tác giả Trần Thị Trường đánh giá: …âm nhạc của Trịnh Công Sơn có sức “công phá” rất lớn, công phá mềm, nó khiến cho tâm hồn rung động, vùng mờ của trí não được mở ra… âm nhạc của Trịnh nghe mãi cũng khó chán, càng nghe càng có thể phát hiện thêm vẻ đẹp sâu sắc của ca từ, càng nghe càng nhận ra sự tinh túy của xúc cảm trong từng lớp ngữ nghĩa…”Gọi nắng trên vai em gầy / Đường xa áo bay… Áo xưa dù nhàu vẫn xin bạc đầu gọi mãi tên nhau” (Hạ Trắng); … Hay: “trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, gọi suốt trăm năm một cõi đi về”… Những từ được dùng trong một cấu trúc câu mà không dùng lý để suy luận. Vẫn là những từ ngữ của đời nhưng Trịnh Công Sơn đã dùng như người họa sĩ dùng chất liệu để đưa chúng đi xa hơn, làm nên một bức tranh siêu thực, ẩn dụtượng trưng, lãng mạn, ấn tượng… khiến cho người nghe có thể cảm thụ được nhiều hơn “ chiều kích” cụ thể của ngôn từ khi cho chúng đứng chung thành một tổ hợp câu. … Âm nhạc của Trịnh Công Sơn đã tác động, ngay cả khi trình tấu không lời, nhưng ca từ cũng để lại ấn tượng sâu đậm không kém trong tâm khảm, sẻ chia và an ủi được nhiều thế hệ, tầng lớp công chúng. Không tưng bừng, cũng không ảo não, nặng ưu tư mà không riết róng. Tôi nghĩ, Trịnh Công Sơn đã làm tiếng Việt phong phú lên rất nhiều khi ông kết hợp từ làm nên một từ mới đa nghĩa hơn, tinh túy hơn có trường liên tưởng rộng hơn.”
Kỷ niệm về anh Trịnh Công Sơn
Trước hôm anh Trịnh Công Sơn mất, có anh Trịnh Xuân Ấn ở Đắk Lắk đi xe đò rủ tôi về gấp thăm anh Sơn đang nằm viện. Tôi bận việc không đi được nên nhờ anh Ấn mang về biếu anh Sơn chai rượu quý lấy từ bàn thờ cha mẹ tôi để anh mời bạn. Không ngờ, đó là những ly rượu cuối cùng mà anh chia với người thân trước khi anh đi vào cõi vĩnh hằng.
Đêm thiêng Trịnh Công Sơn 1 tháng 4 năm 2012, năm 2012, đêm mà tôi đã thức gần trọn để đánh máy lại và đưa lên mạng Bài ca Trường Quảng Trạch của thầy Trần Đình Côn, Hiệu trưởng đầu tiên của Trường. Trịnh Công Sơn là anh đầu trong một gia đình đông con. Mẹ anh là bà Lê Thị Quỳnh người Quảng Trạch. (Cha anh là ông Trịnh Xuân Thanh đi lính Pháp ngành tình báo, bị tử nạn xe hơi do chính xe của quân đội Pháp gây ra. Cái chết của cha và sự vất vả nuôi bảy người con của mẹ là nỗi ám ảnh thường trực của Trịnh Công Sơn. Em trai và chồng em gái anh Sơn ở trong quân lực Việt Nam cộng hòa nhưng người anh ruột của chồng em gái lại là chính ủy sư đoàn Điện Biên, thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Huyền thoại Mẹ, gốc gác đầu đời của anh Sơn và những nốt nhạc nấc lên, yêu thương và cảm thông thân phận con người là từ chính đất này). Đó là kỷ niệm làm tôi nhớ mãi, nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Trường.
Thầy Nguyễn Lân Dũng, vị giáo sư già đáng kính của chúng tôi, đã trân trọng chép bài viết “Để bắt đầu một hồi ức” của Trịnh Công Sơn và cẩn thận chọn hình của Người đưa vào một trang riêng. Đó là Cõi thiêng Trịnh Công Sơn trong lòng Thầy và bạn hữu.Tôi xin phép Thầy chép chung về trang này để mọi người cùng đọc. Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo, nhà văn Nguyễn Thụy Kha, nhà văn Đoàn Tử Huyến đã làm tuyển tập “Trịnh Công Sơn, một người thơ ca, một cõi đi về” và cũng làm trang giao lưu trực tuyến cùng bạn đọc trên FaceBook. Trang www.trinhcongson.com là nơi tích trữ những tài liệu sáng tác của và về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để những người yêu thích ông có cơ hội thưởng thức những tác phẩm của ông và biết hơn về con người của ông. Biết bao nhiêu người tưởng nhớ về Trịnh, mỗi người nhớ theo cách riêng của mình.
Cõi riêng Trịnh Công Sơn ĐỂ BẮT ĐẦU MỘT HỒI ỨC Trịnh Công Sơn
Viết hồi ký về đời mình là quyền của mỗi con người. Ai cũng muốn ghi lại những kỷ niệm buồn, vui trong đời. Tuy nhiên cũng có những hồi ký tự thuật và những tường trình về đời mình có tính cách thiếu khiêm tốn và đôi khi không gần gũi với sự thật lắm. Ðiều đó dễ dẫn ta đi vào một thứ trận đồ bát quái tâm linh, không có thật. Tôi rất ngại nói về mình mặc dù đã có nhiều cơ sở xuất bản trong và ngoài nước đề nghị viết về một quá trình khá dài trong cuộc đời làm nghệ thuật của tôi. Cái tôi đáng ghét (Le moi est haissable) nhưng cái tôi cũng có lúc đáng yêu vì cái tôi đó biết mình và cuộc đời là một. Tôi yêu cuộc đời và cuộc đời cũng đã yêu tôi. Ðó là niềm an ủi lớn trong cuộc sống này. Vì thế trong lòng tôi không có một giây phút nào nuôi một lòng oán hận với cuộc đời.
Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc đời rộng lớn quá và mỗi chúng ta chỉ là những hạt bụi nhỏ nhoi trong trần gian mà thôi. Giận hờn, trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xoá hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn.
Ai cũng biết cuộc đời này là quý vì vậy ai cũng muốn ôm lấy mãi cuộc đời. Như đôi tình nhân. Nhưng mà nợ trần không dễ, không dài. Rồi sẽ có phút chia lìa. Phút ấy không biết còn ai nhớ ai nữa không trên mặt đất trần gian này.
Tôi đến với âm nhạc có lẽ cũng vì tình yêu cuộc sống. Một phần cũng do một khúc quanh nào đó của số phận. Thời trẻ tôi học võ và chơi những môn điền kinh. Sau một cơn bệnh nặng kéo dài hơn hai năm do tập dợt judo với người em trai và bỗng nhiên muốn bày tỏ một điều gì đó với cuộc đời. Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc những lời ru con của mẹ. Triết học Việt Nam có đó nhưng không được hệ thống hóa vì nó bàng bạc trong đời sống nhân gian.
Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì mình phải có trách nhiệm đối với mọi người. Vì thế tôi đã cố gắng làm thế nào để có thể trong những bài hát của mình chuyên chở được một thông điệp của lòng nhân ái đến với mọi người.
Vì có tình yêu nên có âm nhạc. Vì có khổ đau nên có âm nhạc. Có hạnh phúc nên cũng có âm nhạc. Do đó khi tôi viết lên một bài hát ca tụng tình yêu, hạnh phúc hoặc than thở về một nỗi tuyệt vọng nào đó thì hình như tôi đã không mắc phải một lỗi lầm nào cả.
Tôi đúc kết ở chốn này Cõi thiêng Trịnh Công Sơn lắng đọng cho riêng mình cũng là chỗ để bạn đọc đến thăm Người và ngưỡng mộ một tâm hồn trong như ngọc. Một tâm hồn biết bao dung, độ lượng với đời nên đã viết được những bản nhạc, lời thơ và tản văn rung động lòng người đến vậy.
NGUYÊN HÙNG BẠN XỨ NGHỆ Hoàng Kim Bảy tác phẩm thơ Nguyên Hùng: Cánh buồm thao thức, Sóng không từ biển, Biển và em, Chỉ còn nỗi nhớ, Bến xưa; Lời hẹn tình quê, 108 mảnh ghép văn nhân, Khi xa em, Gửi dòng sông, phần lớn đều đã được phổ nhạc. Tài! Nguyên Hùng bạn xứ Nghệ trong tôi nếu tính trên một bàn tay thì năm điểm nhấn hào hứng, đó là: 1) Lặng thầm hoa quê https://youtu.be/TM1cXzqJF1E; 2) Sóng không từ biển; 3) Bến xưa; 4). Lời hẹn tình quê và 5) Nguyên Hùng mệnh tài hoa. Năm đặc sắc này của Nguyên Hùng ngọt ngào trên cánh sóng mà tôi yêu thích. Thật tự hào khi có người bạn xứ Nghệ thân thiết và tài hoa đến vậy. Nguyên Hùng viết bài thơ “Gửi dòng sông” như là lời ngõ cho tập thơ “Cánh buồm thao thức” của anh. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-hung-ban-xu-nghe/
GỬI DÒNG SÔNG Nguyên Hùng
Ta sinh ra từ một dòng sông Sông dài rộng con đò ngang thì bé Đạn rít bom gầm cày nát thời thơ trẻ Khói lửa vừa tan mỗi đứa một phương trời
Gặp lại nhau sông đã khác xưa rồi Bến đò cũ chỉ còn ký ức Ta bên nhau vẫn bồi hồi sóng nước Như thuở nào canh bến đợi thuyền cha
Tháng năm dài sống trong nỗi cách xa Dòng sông mẹ chảy qua từng giấc ngủ Dẫu về đâu vẫn không vơi nhung nhớ Thương những mái chèo sấp ngửa sớm khuya
Dòng sông quê chứa kỷ niệm ngày qua Là bến đậu cho ta chiều xế bóng Xin quỳ xuống nâng niu từng con sóng Giữ riêng mình – tìm lại tuổi thơ xưa
Ơi dòng sông ngọt lịm điệu đò đưa Ơi dòng sông mặn mòi câu ví dặm Giá mỗi chiều được về quê ngụp tắm Giữa trong xanh da diết một cánh buồm…
“Chỉ còn nỗi nhớ” một bài thơ khác của anh, tứ không lạ nhưng lời thơ nồng nàn yêu thương. Những ngày nhớ thương, giai điệu của ca từ lại nồng nàn đến lạ. Đó không hẵn là lời thơ mà là tiếng lòng cất lên giọng hát. Lắng nghe âm hưởng “Chỉ còn nỗi nhớ ” của Nguyên Hùng sao da diết lạ. (*)
KHI XA EM Nguyên Hùng
Anh về quê tiễn đưa năm Để em ở lại xa xăm cuối trời Bay qua ngàn dặm rối bời Cõng theo chút nắng, đánh rơi lúc nào Chỉ còn nỗi nhớ cồn cào Ngấm vào đêm thức, lặn vào ngày mơ Hóa thành tiếng pháo giao thừa Hòa cùng tiếng sóng vỗ bờ gọi em!
Nhưng với riêng tôi video nhạc yêu thích nhất đối với ca từ Nguyên Hùng thơ hay phổ nhạc thì “Sóng không từ biển”. “Bến xưa”. “Lời hẹn tình quê” mà đặc biệt “Sóng không từ biển” sao mà nhớ và thương đến vậy. Ca từ “biển và em” là lời thơ trên cánh sóng, tiếng biển, tiếng em trữ tình vọng mãi với thời gian.
BIỂN VÀ EM Nguyên Hùng
Anh lớn lên trên sóng Nên say hoài biển xanh Biển đưa ngàn chiếc võng Ru bồng bềnh hồn anh.
Em chỉ là giọt nhỏ Giữa dòng đời lặng trôi Mà trước em anh ngỡ Trước muôn trùng biển khơi.
Nguyên Hùng những ca từ yêu thích, “Sóng không từ biển”. “Bến xưa”. “Lời hẹn tình quê” tôi nghiệm ra chằng phải chỉ mình tôi yêu thích tuyển chọn mà nhiều bạn bè và mọi người đều yêu thích, và chính tác giả cũng yêu thích những tác phẩm ấy nhiều hơn. Thế nào là thơ hay? Tôi thích lời thẩm thơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa “thơ hay là thơ giản dị, xúc động, àm ảnh”. Thơ hay nào thường được phổ nhạc? đó là thơ giàu nhạc tính theo thẩm nhạc của nhạc sĩ nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo. Thơ hay phổ nhạc, truyện hay thành phim là sự chuyển thể tác phẩm sang một bầu trời rộng hơn và tầm cao khác.
Thơ Nguyên Hùng giàu nhạc tính là lời nhận xét tinh tế của nhà thơ nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo : “Thơ anh không cầu kỳ kiểu cách mà tràn đầy chất dân gian truyền thống. Nhiều ví von, ẩn dụ, nhiều thi ảnh thân thương gần gũi. Và đặc biệt là thơ anh rất giàu nhạc tính. Có lẽ vì thế mà nhiều nhạc sĩ đã tín chấp nhạc của mình vào thơ Nguyên Hùng. Anh không phải là một nhà thơ nổi tiếng, nhưng đã có đến vài ba chục bài hát khởi nguồn từ thơ anh. Có những ca khúc được ca sĩ chuyên nghiệp thu thanh và biểu diễn, được phát trên sóng phát thanh, truyền hình, và được bạn yêu nhạc yêu thích như “Sóng không từ biển”, “Bến xưa” (nhạc Lê An Tuyên), “Biển và em” (nhạc Thanh Hoàng), “Đừng quên con nhé” (nhạc Nguyễn Ngọc Tiến), v.v… Đó là một hiện tượng. Không phải nhà thơ nổi tiếng nào cũng được phổ nhạc nhiều và hay như thế”.
Nhạc sĩ nhà thơ Lê An Tuyên (Le An Tuyen) có lẽ là người phổ nhạc thành công hơn cả thơ Nguyên Hùng và chuyển thể ca từ thật thành công. Ca từ “Lời hẹn tình quê” Nguyên Hùng – Lê An Tuyên thật tuyệt vời.
LỜI HẸN TÌNH QUÊ Nhạc: Lê An Tuyên Lời ca từ : Nguyên Hùng, Lê An Tuyên
Lời hẹn cùng ai về lại bến sông quê Dòng sông xanh vẫn dạt dào thương nhớ Sóng sông xanh ngân cung đàn điệu nhạc Hát ru tình ta năm tháng đợi chờ nhau
Mong được gió mang đi tơ lòng em dệt Từ trong câu ca ân tình mộc mạc tìm nhau Gió bay đi lời ca còn mãi Tha thiết một miền quê mênh mang nỗi nhớ
Trắng hoa cau dây trầu nhớ mẹ Nữa câu hò chợt gợi nhớ bóng hình quê Thời gian có chờ ai đâu đừng lỡ hẹn Về đi thôi về lại miền quê xưa
Bao năm xa quê bấy nhiêu niềm mong đợi Bao đắng cay vui buồn một thuở Về lại với nhau trong khói lam chiều … Vương vấn sáo diều ngân Nghe câu ví dặm thương đang dìu dặt đêm trăng…
Đừng lỡ hẹn người ơi, đừng lỡ hẹn Về đi thôi, về lại miền quê xưa Bao năm xa quê bấy nhiêu niềm mong nhớ Bao đắng cay vui buồn một thuở Về nhé bên nhau trong khói lam chiều…”
Ca từ “LỜI HẸN TÌNH QUÊ” gợi nhớ Ca từ “TỎ Ý”, bài từ theo điệu Ức Giang Nam, một tuyệt phẩm của Hồ Xuân Hương tại Lưu Hương Ký, bản dịch của Hoàng Kim trong bài viết Nguyễn Du với Hồ Xuân Hương. Cám ơn Nguyên Hùng , Lê An Tuyên, Ví Dặm Ân Tình tài hoa.
Ngày khoảng lặng nhớ bạn.
Hoàng Kim
(*) Một phiên bản khác của bài thơ Nguyên Hùng
CHỈ CÒN NỖI NHỚ Nguyên Hùng
Anh về quê mẹ cuối năm Để em ở lại cùng xuân cuối trời Bay qua ngàn dặm xa xôi Cõng theo chút nắng để rơi lúc nào Chỉ còn nỗi nhớ cồn cào Lặn vào đêm thức ngấm vào ngày mơ!
1 . Chẳng vui sao cố gượng cười Không em, đừng tưởng mình người có duyên Rách rồi, chớ nhận còn Nguyên Áo hoa đâu thể làm nên anh Hùng ?. . 2. Em bay về phía hừng đông Bỏ ta ở lại nửa vòng đêm Thu Ta như kẻ nghiện ngồi tù Chờ ngày ân xá chạy vù tìm em.
3. Nhờ trời anh Hùng còn Nguyên Cánh buồm thao thức nợ duyên càng dài Sóng không từ biển sóng ơi Biển và em suốt một đời vẫn ru
4 Chỉ còn nỗi nhớ bến xưa Yêu thương lời hẹn tình quê mặn nồng 108 mảnh ghép văn nhân Khi xa em gửi dòng sông ân tình
5
Nguyên Hùng thơ nhạc có duyên Lời ru của Mẹ làm nên mùa vàng Nguyễn Trọng Tạo nhịp đồng dao Văn chương nết đất người sao giống người
Bảy tác phẩm thơ Nguyên Hùng: Cánh buồm thao thức, Sóng không từ biển, Biển và em, Chỉ còn nỗi nhớ, Bến xưa; Lời hẹn tình quê, 108 mảnh ghép văn nhân, Khi xa em, Gửi dòng sông, phần lớn đều đã được phổ nhạc. Tài! Nguyên Hùng (ảnh) cảm nhận tinh tế, tâm đắc, thăng hoa tuyệt vời nhất, dường như đồng cảm nhiều với mẫu người Nguyễn Trọng Tạo, đều mẫu thơ đào hoa ấy.
Người ta giỏi lắm một thời Bạn tôi tiến sĩ cả đời Hoàng Kim Từ bàn chân đất đi lên Sáng danh khoai sắn mang tên con mình(*)
Nhờ đám cưới con trai ông vừa tra vừa túng (trung tá) Đào Ngọc Hòa mà tối qua tôi được gặp lại ông bạn “Tiến sĩ khoai” quê xứ cát Quảng Bình (sau mấy năm chỉ thấy nhau qua mạng).
Chúc mừng những thành tích đáng nể của TS Hoàng Kim trong việc tạo giống khoai sắn và trong việc hướng dẫn, đào tạo nhiều thế hệ học trò
(*) Giống khoai Hoàng Long (TS Hoàng Kim đặt tên theo tên con) là một trong những giống khoai sắn đã mang đến thành công và uy tín cho tác giả.
BÀI CA NHỊP THỜI GIAN Hoàng Kim
Anh như chim ưng quay về tổ ấm Vẫn khát bầu trời ước vọng bay lên Ơi Bồng Lai cồn cào nỗi nhớ Anh về bên này lại nhớ bên em
8 BÀI HỌC TỪ ĐẠI BÀNG
1. Không giành đường bay của loài chim yếu hơn
Đại Bàng chỉ chọn bay một mình hoặc với những đại bàng khác ở độ cao rất lớn mà không giành đường bay của các loài chim nhỏ yếu hơn như chim sẻ, quạ, ngỗng trời,… Bậc minh triết hòa trang nghiêm và uy nghi, mà không đồng, không giành đường sống của những người kém hơn và tránh xa chốn xô bồ ảnh hưởng việc chính
2. Tầm nhìn xa rộng và chuyên chú mục tiêu
Đại bàng bay ở một độ cao lớn với tầm nhìn rất xa có khả năng phát hiện mồi ở xa 5 km. Sau khi phát hiện nó chú tâm cao độ lao vút vào con mồi. Không gì có thể cản trở đại bàng săn mồi. Bậc minh triết nhìn xa trông rộng kiên định tập trung cao độ vào mục tiêu để đạt thành công.
3. Thức ăn tươi mới không dùng thối rữa
Đại bàng không bao giờ ăn những thứ đã chết mà nó chỉ thích săn mồi và ăn khi con mồi còn tươi mới, khác hẵn Kền Kền ăn tạp kể cả động vật đã chết và thối rữa. Bậc minh triết học đại bàng thức ăn tươi mới không ăn tạp.
4. Vượt trên bão tố khẳng định chính mình
Đại bàng là loài chim duy nhất không sợ bão tố, bởi gió bão cho nó cơ hội để lướt cao hơn từ đôi cánh của chính mình, vượt lên trên cả những đám mây. Trong khi đó, các loài chim khác lại tìm cách ẩn trú trong các vách đá, hốc cây. Bậc minh triết học đại bàng vượt trên bão tố khẳng định chính mình.
5: Biết kiểm tra và đặt niềm tin đúng chỗ
Đại bàng có cách kiểm tra trước khi đặt niềm tin vào con khác. Đại bàng cái trước khi cho con đực giao phối, nó cắp một cành cây khô bay vút vào không trung để thử thách sức khỏe và năng lực chinh phục của con đực. Khi con cái đạt đến tốc độ lớn và độ cao mong muốn thì nó thả nhành cây và bay vút đi để con đực phải lao mình nhanh hơn bắt được cành cây trả về cho con cái. Điều này diễn ra mỗi lúc một nhanh với độ cao ngày càng tăng cho đến khi con cái chấp nhận sự chinh phục thì mới cho con đực giao phối. Bậc minh triết học đại bàng phải biết kiểm tra và đặt niềm tin đúng chỗ.
6. Nuôi dạy con tuyệt kỹ và hay theo cách đại bàng
Đại bàng bố mẹ chọn nơi hiểm trở để làm tổ và chia nhau bảo vệ nuôi con và kiếm mồi rất chu đáo. Chim bố tìm cành cây khô để làm tổ ở nơi chắc chắn sau đó thu nhặt cành nhỏ hơn chọn những cành khô có gai đặt ở dưới, kế đến là một lớp cỏ mềm và sau đó rũ bỏ một phần lông chim bố mẹ để tạo thành tổ mềm mại em ấm cho con. Lúc chim non trưởng thành để dạy cho con tập bay, đại bàng mẹ hất con ra khỏi tổ, và lần lượt vứt bỏ các lớp lót mềm mại êm ấm cho đến khi chim non nhảy lại vào tổ thì chúng bị gai nhọn đâm chích chảy máu, bắt buộc phải rời tổ. Chim non bị chim mẹ đẩy rơi vào không trung và chim bố sẽ bay ra để vớt chúng trở lại cho tới khi chim non tự mình bay lên được. Bậc minh triết học nuôi dạy con tuyệt kỹ và hay cách đại bàng.
7. Tự đổi mới để chống già nua và lão hóa
Đại bàng khi về già biết lặng lẽ tìm về chốn yên tĩnh để tự mình trút bỏ bộ lông đã xơ cứng. Nó ẩn náu và nhổ bỏ toàn bộ lông già yếu cho đến khi cơ thể phát triển lông mới mạnh mẽ đầy đủ thì nó mới ra khỏi hang và trở về cuộc sống. Bậc minh triết học đại bàng tự đổi mới để chống già nua và lão hóa.
8. Chim hồng, chim hộc bay cao nhờ lông cánh vững
Đại bàng nếu bỏ các trụ lông cánh thì không thể bay cao bay xa mà phải ẩn khuất chốn tĩnh lặng để tránh nguy hiểm. Hưng Đạo VươngTrần Quốc Tuấn (sinh năm 1232 mất ngày 20 tháng 8, năm 1300), danh nhân Việt kiệt xuất, nhà chính trị, nhà văn, và là tư lệnh tối cao (Quốc Công Tiết Chế) của Việt Nam thời nhà Trần đã nói: “Chim hồng, chim hộc bay cao nhờ lông cánh vững”. Bậc minh triết học đại bàng bay cao nhờ lông cánh vững để quy tụ người hiền đức chung sức với mình để làm được nhiều việc tốt.
Trời xanh tỉnh lặng với thu không Nhân quả ghi ơn bởi vun trồng Hạnh phúc đủ đầy nhờ tích đức Hiếu trung đầy đặn bởi tâm công Nhìn ai dân mến vì chí thiện Ngắm kẻ người chê bởi khác lòng Ban mai ngày mới mừng biết đủ Tình yêu cuộc sống rạng vừng đông.
Thương em Nước vùn vụt dội xuống Sóng thình thịch cuộn lên ‘Thương tiến tửu’ Lý Bạch (2) Ta thì thương nhớ em.
‘Tỉnh dạ tư’ thơ tiên Người hiền trong suối bạc Chiếu đất ở Thái An (3) Vàng ròng lầm trong cát.
“Trên giường ánh trăng rọi, Dưới đất như mờ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương.” (2)
“Thấy chăng ai nước sông Hoàng trời tuôn Trút băng ra chẳng quay về được nữa. Lại chẳng thấy lầu cao gương trong thương đầu bạc Sớm tựa tơ xanh, chiều nhuốm tuyết Đời người thoải mái cứ thung dung Chớ để chén vàng trơ trước nguyệt” (2)
Ta với chim quấn quýt Giữa đất trời bình yên Nhớ quê nhà thác nước Bản Giốc và Ka Long
Tỉnh thức ban mai đã sớm thu Sương đêm giữ ngọc ướt cành tơ Ai ơi gieo đậu vừa rồi đấy Lộc biếc me xanh chín đợi chờ.
*
Sớm thu trên đồng rộng Em cười trời đất nghiêng Lúa ngậm đòng con gái Em đang thì làm duyên.
Sớm thu trên đồng rộng Cây đời xanh thật xanh Lúa siêu xanh tỏa rộng Hương lúa thơm mông mênh.
Sớm thu trên đồng rộng Trời đất đẹp lạ lùng Bản nhạc vui an lành Ơi đồng xanh yêu dấu…
*
Thích thơ hay bạn quý Yêu sương mai đầu cành Bình minh chào ngày mới Vườn nhà bừng nắng lên
Cà phê vui bầu bạn Trung thu bánh tình thân Phố núi cao thu sớm Gia an nguyên lộc gần.
*
Thanh thản an vui dạo dọn vườn Vui thầy mừng bạn ngát thêm hương Đường xuân nhàn hạ phai mưa nắng Tâm sáng an lành trãi gió sương Thoắt đó vườn thơm nhiều quả ngọt Mới hay nhà phước lắm con đường An nhiên vô sự là tiên cảnh Sớm mai hoa nở nắng tơ vương