Nguyễn Du là bậc anh hùng

NguyenDu

NGUYỄN DU LÀ BẬC ANH HÙNG
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Nguyễn Du khi sang sứ nước Thanh về có tập thơ “Bắc Hành” và truyện “Thúy Kiều” lưu hành ở đời (1). Thơ Kỳ Lân Mộ trong ‘Bắc Hành” kiếm bút sắc hơn gươm, là thông điệp ngoại giao thấu tình đạt lý, sức mạnh như một đạo quân, là kiệt tác văn chương đã làm thay đổi chính sách của  vua Thanh và danh tướng Phúc Khang An tổng đốc Lưỡng Quảng, thay vì báo thù rửa hận cho Tôn Sĩ Nghị, đã giữ hòa hiếu lâu dài với Việt Nam. Nguyễn Du là bậc anh hùng quốc sĩ, danh sĩ tinh hoa, kỳ tài hiếm có của dân tộc Việt. Nguyễn Du là bậc anh hùng xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-la-bac-anh-hùng

KỲ LÂN MỘ
Nguyễn Du

Phương Chi Yên Đệ người thế nào?
Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân.
Mỗi khi nổi giận giết mười họ,
Cổn to vạc lớn hại trung thần
Năm năm giết người hơn trăm vạn
Xương chất thành núi máu chảy tràn
Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất
Buổi ấy sao không đi về Nam?

Nguyên văn chữ Hán

Hà huống Yên Đệ hà như nhân
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
Bạo nộ nhân sinh di thập tộc
Đại bỗng cự hoạch phanh trung thần
Ngũ niên sở sát bách dư vạn
Bạch cốt thành sơn địa huyết ân
Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất
Đương thế hà bất Nam du tường?

(1) Nguyễn Du tiểu sử trong sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, người dịch Đỗ Mộng Khương, người hiệu đính Hoa Bằng, Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế 2006, trang 400 /716 Tập 2; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-tho-chu-han/

TRÒ CHUYỆN VỚI YẾN THANH
Bạch Ngọc Hoàng Kim


Thế sự hiên ngang một chiến thần
Thượng đài bản lĩnh thật vô song
Anh hùng trí dũng Kỳ Lân vượt
Lãng Nhân thời vũ Tống Giang so
Hảo hàn Lý Quỳ nhường bạn quý
Chân tình Người Ngọc phước duyên cho
Tiểu Ất Yến Thanh cao ẩn sĩ
Sư Sư Thủy Hữ nhất lão sư

(*) yến thanh đánh thẩm nguyên https://youtu.be/1jHkJsP1t5s; Yến Thanh Lý Sư Sư https://youtu.be/1jHkJsP1t5s ; Yến Thanh ‘đạo ẩn vô danh’ https://youtu.be/g27TchOffLk ; Thủy Hử tập 66 Lương Sơn 108 anh hùng https://youtu.be/rNZPCojf3XU ; Yến Thanh mê tung quyền https://youtu.be/kLHrZ7XX9qs ; Yến Thanh Thủy Hử luận https://youtu.be/UnR9Zmo7F-0 https://hoangkimlong.wordpress.com/2023/04/25/tro-chuyen-voi-yen-thanh/

HOA GIẤY VÀ HOA ĐẤT
Bạch Ngọc Hoàng Kim

#ana tìm được Ngọc
Hi vọng của hạnh phúc
Hiền tài bút hơn gươm
Hiểu sách Nhàn đọc giấu

Hoa Bình Minh Hoa Lúa
Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
Hoa lộc vừng ngày mới
Hoa Mai thơ Thiệu Ung

Hoa Mai trong Tết Việt
Hoa Mai và Mùa Xuân
Hoa Mai với Thiền sư
Hoa sim và hoa lúa

Hoa và Ong Hoa Người
Hoa Xuân Vườn Tao Đàn
Hoa Đất của quê hương
Hoa Đất thương lời hiền

Hoa Giấy và Hoa Đất
Văn chương ngọc cho đời

* ảnh Khải Yenthanh LuongSon; thơ 18 đường dẫn là một câu chuyện đời … Mưa lành và lúa xuân https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-yen-thanh

WalterScott(1771 - 1832)

WALTER SCOTT BÚT HƠN GƯƠM
Hoàng Kim

Qua Waterloo nhớ Walter Scott
Bút thần của hiền tài
Lưu non sông muôn thuở
Bền mạnh sắc hơn gươm.

Walter Scott là nhà thơ văn trữ tình lỗi lạc nhất của Scotland với nhiều tác phẩm của ông được coi là đại diện cho nền văn học cổ điển Anh. Ông sinh ngày 14 tháng 8 năm 1771 tại Edinburgh, mất ngày 21 tháng 9 năm 1832 tại  Abbotsford House, Di sản của Walter Scott  lưu dấu sâu đậm nhất ở Scotland tại Thư viện Trường Đại học Edinburgh (Edinburgh University Library) với Abbotsford House, Edinburgh. Đó là ba nơi mà bạn có thể đắm mình vào các tác phẩm nổi tiếng của Walter Scott.

Walter Scott rất nổi tiếng ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Á và Úc nhưng ở Việt Nam, bạn đọc chưa có nhiều chuyên khảo hoặc dịch thuật thơ văn ông. Tác phẩm đặc biệt nổi tiếng  Cánh đồng Waterloo (The Field of Waterloo) là một trong những bài thơ đặc biệt nổi tiếng của Walter Scott trong kiệt tác Sir Walter Scott Poems. Bài thơ này được viết và xuất bản vào năm 1815, ngay sau khi quân liên minh chiến thắng quân đội Napoléon Bonaparte tại trận Waterloo vào ngày 18 tháng 6 năm 1815, Scott đã đến Bỉ vào tháng Tám, và ông là một trong các thường dân nước Anh đầu tiên đến thăm chiến trường. 

Trận Waterloo đặc biệt nổi tiếng trên thế giới và toàn châu Âu. Trận Waterloo diễn ra vào ngày chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815 tại một địa điểm gần Waterloo, thuộc Bỉ ngày nay. Đây là một trong những trận đánh nổi tiểng nhất và cũng là dấu chấm hết cho cuộc chiến tranh Napoléon. Quân đội Đế chế Pháp (La Grande Armée) dưới sự chỉ huy của Napoléon Bonaparte đã bị đánh bại bởi liên quân của Liên minh thứ bảy, bao gồm quân Anh và đồng minh do Arthur Wellesley, Công tước thứ nhất của Wellington chỉ huy và quân Phổ do Thống chế Gebhard von Blücher chỉ huy. Đây là trận đánh kết thúc chiến dịch Waterloo và cũng là trận đánh cuối cùng của Napoléon. Thất bại ở trận đánh này đã đặt dấu chấm hết cho ngôi vị Hoàng đế Pháp của Napoléon và Vương triều Một trăm ngày của ông.

Trận Waterloo thay đổi cục diện toàn châu Âu thời Napoléon Bonaparte cũng tương tự như Trận Xích Bích  làm thay đổi cục diện Trung Quốc dưới thời thời Tam Quốc (Trận Xích Bích diễn ra vào mùa Đông  năm 208 giữa liên  quân Tôn Quyền–Lưu Bị với quân đội của Tào Tháo lấy danh nghĩa triều đình. Trận Xích Bích kết thúc với chiến thắng quyết định của phe Tôn-Lưu, tạo cơ sở hình thành thế chân vạc thời Tam Quốc của ba nước Tào Ngụy – Thục Hán – Đông Ngô.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1000px-Panorama_waterloo_v2.jpg

Bài thơ ‘Cánh đồng Waterloo’  (The Field of Waterloo) của Walter Scott bi tráng và nổi tiếng khắp thế giới trong mọi thời đại, tương tự như bài Tiền Xích Bích phú và Hậu Xích Bích phú của đại thi hào Tô Đông Pha. Nó thể hiện tính nhân văn của kiếm bút tài tình có sức mạnh hơn cả lưỡi gươm chinh phạt của những danh tướng lừng danh nhất thế giới. Theo cách nói của Ban zắc, đại văn hào Pháp, tính nhân văn của kiếm bút chạm thấu những phần mà kiếm sắc của Napoleon không bao giờ và không thể với tới được. Bài thơ ‘Cánh đồng Waterloo’(The Field of Waterloo) của Walter Scott hướng tới những người nghèo, những số phận kém may mắn trong chiến tranh. Lợi nhuận từ bài thơ của Walter Scott về cuộc chiến được đi vào quỹ cho góa phụ và trẻ mồ côi của người lính. Những câu thơ đặc biệt xúc động, đơn giản nhưng rất khó dịch:

“On Waterloo’s ensanguined plain /
Lie tens of thousands of the slain; /
But none, by sabre or by shot, /
Fell half so flat as Walter Scott.” [3]

(Trên cánh đồng của Waterloo vấy đầy máu /
Nói dối là (chỉ) chục ngàn người bị giết;. /
Nhưng không (phải thế đâu), bởi (số người) bị đâm hay bị bắn, /
Đã giảm bằng nửa mức như vậy theo Walter Scott”
(Vì những người góa bụa và trẻ mồ côi còn lớn hơn nhiều!)

Bài thơ ‘Cánh đồng Waterloo’ (The Field of Waterloo) truyền tải tình yêu cuộc sống và góc nhìn thánh thiện cho biết bao thế hệ người châu Âu, đã lan tỏa nhanh và rộng khắp toàn cầu bởi giá trị nhân văn, lời thơ giản dị xúc động ám ảnh đi thẳng vào lòng người.  Giá trị của bài thơ này tương tự như bài Tiền Xích Bích phú và Hậu Xích Bích phú của đại thi hào Tô Đông Pha, cũng tương tự như bài thơ ‘Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi đã làm lay động biết bao nhiêu khối óc, con tim của người Trung Quốc, Việt Nam và người dân các nước châu Á ở nhiều thế hệ. Đó là những dòng sông thi ca rộng lớn chảy không ngưng nghỉ giữa mạch chính của kiến thức văn hóa nhân loại.

Ông José António Amorim Dias (phải) và Hoàng Kim đi qua cánh đồng Waterloo trên chuyến tàu tốc hành từ Brussels đến Paris

Ông José António Amorim Dias (phải) và Hoàng Kim đi qua cánh đồng Waterloo trên chuyến tàu tốc hành từ Brussels đến Paris

Tôi may mắn được đồng hành cùng ông José António Amorim Dias , Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste tại UNESCO và Liên minh châu Âu đi qua cánh đồng Waterloo trên chuyến tàu tốc hành từ Brussels (Bỉ) đến Paris (Pháp). Chúng tôi chung khoang tàu và đã trò chuyện và chia sẻ rất nhiều điều về  “The Field of Waterloo” của Nam tước Walter Scott  cùng với những triết lý nhân sinh và văn hóa giáo dục. Tôi đã kể chuyện này trong bài “Đêm trắng và bình minh“.

Tôi chép nguyên văn bài thơ tiếng Anh “The Field of Waterloo” dưới đây để ước mong các bậc thức giả yêu thích thi ca và thạo tiếng Anh giúp chuyển ngữ bài thơ nổi tiếng này thành tiếng Việt, ngõ hầu góp phần vào việc giao lưu thi ca và văn hóa, góp phần trong công cuộc dạy và học, chấn hưng giáo dục và nâng cao dân trí Việt bằng sự đóng góp  tận tụy, chuyển tải thông tin về danh nhân văn hóa Walter Scott đến bạn đọc Việt.

Thật mong lắm thay. Trân trọng cám ơn sự quan tâm của quý bạn.

Hoàng Kim

Nguyên tác bài thơ: Cánh đồng Waterloo https://hoangkimvn.wordpress.com/2022/08/14/waller-scott-but-hon-guom/

HoaYenTu

MỘT VÙNG TRỜI NHÂN VĂN
Bạch Ngọc Hoàng Kim


Gương trời lồng lộng ban mai
Thung dung ta đến vùng trời nhân văn
Thịnh suy thế nước ngàn năm
Anh hùng là kẻ vì dân vì đời.

Bên lề chính sử dạo chơi
Rùa ơi thương Cụ biết nơi chọn về.
Kỳ Lân mộ, Tháp Rùa bia
Bia đời, bia miệng khắc ghi lòng người.

Tìm nơi tỉnh lặng ta ngồi
Tình yêu cuộc sống là nơi thư nhàn.

Vungtroinhanvan

HoGuom1

Sự tích hồ Gươm và điềm báo quốc biến thời Lê Trịnh
SỰ TÍCH HỒ GƯƠM

Theo Trần Ngọc Đông: Nhân chuyện cả nước xôn xao khi rùa Hồ Gươm chết nhằm ngày mùng 10 tháng Chạp năm 2016. Nhiều người vẫn cứ cho rằng đây là con rùa có từ thời Lê Lợi đã cắp gươm báu mang đi. Nên đánh máy và trích chép lại hai câu chuyện ở trong sách ‘Tang Thương Ngẫu Lục’ của đôi bạn Phạm Đình Hổ- Nguyễn Án viết trong khoảng cuối Tây Sơn đầu đời Nguyễn nói về Hồ Gươm và rùa ở nơi đây. (Trần Ngọc Đông đã) đánh máy lại theo bản khắc in năm Bính Thân 1896 triều Nguyễn. Bản dịch nghĩa của Giáo sư Trương Chính năm 2012 Kết luận: Gươm báu đã bỏ hồ bay đi năm Bính Ngọ 1786, cách đây đã 230 năm. Năm ấy nước nhà có biến lớn, chúa Trịnh đại bại, ít lâu sau thì triều Lê mất.

SỰ TÍCH HỒ GƯƠM
Trích: Tang Thương Ngẫu Lục 

(Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án)

Truyện 1: HOÀN KIẾM HỒ 

Hồ Hoàn Kiếm Thành Thăng Long ở bên cạnh phường Báo Thiên, thông với nước ngoài sông, hình thế rất to rộng. Ấy là nơi Đức Thái Tổ Hoàng Đế tiên triều đánh rơi kiếm. Hồi Thái Tổ khởi nghĩa, ngài bắt được một thanh kiếm cổ, sau khi lên làm vua thường vẫn đeo ở bên mình. Một hôm chơi thuyền ở trong hồ, bỗng một con rùa rất lớn nổi lên mặt nước, bắn không trúng, vua lấy thanh kiếm mà chỉ. Bất đồ thanh kiếm rơi xuống nước, con rùa cũng lặn theo. Vua giận, sai lấp cửa hồ lại, đắp bờ ngang tát hết nước để tìm nhưng chẳng thấy đâu cả. Đời sau, nhân cái bờ ấy chia làm hai hồ Tả Vọng và Hữu Vọng. Cuối đời Cảnh Hưng, có một vật gì mọc lên từ cái đảo trong hồ, sáng rực rỡ rồi tắt. Người ta cho là thanh bảo kiếm đã bay đi.

Phiên âm: Thăng Long Hoàn Kiếm Hồ tại Báo Thiên phường. Tắc dữ giang thủy thông, thế thậm quảng. Hồi tiên triều hoàng Thái Tổ Hoàng Đế Trụy kiếm xứ dã. Sơ Thái Tổ khởi nghĩa thời đắc cổ kiếm nhất khẩu. Đắc quốc hậu thưởng dĩ tự bội. Nhất nhật phiếm chu hồ trung. Cự quy phiếm thủy thượng xạ chi bất trúng dĩ kiếm chi trụy thủy một. Quy tùy kiếm khứ. Đế nộ. Mệnh tắc hồ khẩu, trúc đê kiệt thủy cầu chi bất đắc. Hậu thế nhân kỳ tích phân vi nhị: Tả Vọng, Hữu Vọng. Cảnh Hưng mạt hữu vật tòng đảo khởi quang tán nhi diệt. Nhân dĩ vi bảo kiếm phi.

Truyện 2: KIẾM HỒ (HỒ GƯƠM)

Mùa hạ năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng (1786) đương nửa đêm, giữa hồ Hoàn Kiếm, bỗng có những vật đỏ ối hiện ra trên đảo, tia sáng nhoáng tỏa ra bốn phía, bay về bờ phía Nam rồi biến mất.

Sau đó sóng gió ầm ầm nổi lên. Sáng hôm sau thấy xác tôm cá nổi trên mặt nước không biết bao nhiêu mà kể. Có người nói, ở trên nóc nhà Trung Hòa Đường trong phủ Chúa cũng hiện ra những vật tương tự, ánh sáng tỏa ra bốn phía rồi tự nhiên tắt ngấm. Chưa bao lâu xảy ra việc quốc biến (*).

Phiên âm:

Lê Cảnh Hưng Bính Ngọ niên hạ. Kiếm Hồ dạ bán hữu vật tòng đảo khởi tứ tán phi nam ngạn nhi diệt. Ba đào hỗn dũng . Lạp nhật ngư hà phù thủy thượng bát khả thắng số. Hữu vân vương phủ Trung Hòa Đường hữu vật tòng khởi quang tán nhi diệt diệc như chi. Vị kỷ quốc biến.

(*) Quốc biến: Nguyễn Huệ ra bắc đánh nhà Trịnh

HoGuom2

Vị trí Hồ Gươm trong bản đồ đời Nguyễn và Rùa Hồ Gươm

Rua oi

MaiHacNguyenDu

NHỮNG CÂU THƠ LƯU LẠC
Hoàng Kim

Ai viết cho ai những câu thơ lưu lạc.
Giữa trần gian thầm lặng tháng năm dài ?

“Thập tải luân giao cầu cổ kiếm.
Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”
(1)
Mười năm lưu lạc tìm gươm báu
Đời ta chỉ bái lạy hoa mai.

“Nghêu ngao vui thú yên hà.
Mai là bạn cũ, hạc là người quen”
. (2)

Trống lủng” (3) nghe tục giảng thanh
Cận nhân tình, như không như có.
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” (4)
Bảng lãng như khói mây sương sớm

Cao vọi “Thướng sơn”“Tầm hữu vị ngộ” (5)
Núi cõng đường mòn, cha cõng con”.(6)
Thăm thẳm những câu thơ lưu lạc
Biển là ao lớn, thuyền là con bò”. (7)

Dưỡng sinh thi“, “Sấm Trạng Trình“,
Chí thiện“, “An nhàn vô sự là tiên“.
:“Đông chinh thiên tử xuất”
“Bất chiến tự nhiên thành”
(8)

Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim“. (9)

THANH TRA THỦY BIỀU HUẾ
Kim Notes lắng ghi chú


(1) “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm / Nhất sinh đê thủ bái hoa mai” (Mười năm lưu lạc tìm gươm báu / Đời ta chỉ bái lạy hoa mai)  là hai câu thơ của Nguyễn Du. Trước đó, người đời cho là của Chu Thần Cao Bá Quát nhưng thực tế trong đời Cao Bá Quát không có mười năm lưu lạc “thập tải luân giao”.  Theo “Như Thanh nhật ký của Nguyễn Tử Giản thì năm Mậu Thìn (1868) phó chánh sứ Nguyễn Tử Giản được tri phủ Hán Dương là Ngải Tuấn Mỹ đón tiếp và tặng đôi câu đối trên. Hai câu thơ này không phải là do Ngãi Tuấn Mễ sáng tác mà có trên gốm sứ Hoa Bắc được Nguyễn Du lưu lại khi ông đóng vai nhà sư lưu lạc mười năm ở Trung Quốc. Ông cùng Hà Mỗ Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến lên Yên Kinh (Bắc Kinh) và cung Nhiệt Hà gặp Càn Long để chuyển hóa thời vận.  Nguyễn Du tính tình khoan hòa, điềm tĩnh, trọng “quân đức, dân tâm, học pháp”, có những câu thơ “thập tải luân giao”, ông chỉ bái lạy bậc hiền minh như cúi lạy trước hoa mai, “mai cốt cách, tuyết tinh thần”; xem Nguyễn Du thơ chữ Hán; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Nguyễn Du tiếng tri âm; Nguyễn Du trăng huyền thoại

(2) “Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người quen” trên đĩa Mai Hạc, sản phẩm gốm sứ Quảng Tây, truyền là của Nguyễn Du khi ông ở Trung Quốc. xem ghi chú 1

(3) “Trống lủng“, “Vịnh Đồ Sơn“, “Núi Kẽm Trống” là những kiệt tác thơ Hồ Xuân Hương cận nhân tình, đa ngữ nghĩa, như có như không, như khói mây sương sớm; xem Nguyễn Du Hồ Xuân Hương.

(4) “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” thơ Mãn Giác thiền sư; xem Gốc mai vàng trước ngõ

(5) “Thướng sơn” “Tầm hữu vị ngộ” mời đọc ẩn ngữ ở bài “Chợt gặp mai đầu suối

(6) “Núi cõng con đường mòn. Cha thì cõng theo con” “Núi nằm yên một chỗ” “Con thì chạy lon ton” “Cha siêng hơn ngọn núi” “Con đường lười hơn con” thơ đồng dao của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành, tên thuở nhỏ của Hồ Chí Minh) lúc 5 tuổi, tại đèo Ngang, trong chuyện kể “Tất Đạt tự ngôn” được Sơn Tùng ghi lại.  Ngày 19 tháng 5 thành lập mặt trận Việt Minh trùng ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh và cũng trùng ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh; xem Sơn Tùng chuyện Bác Hồ 

(7)Biển là ao lớn. Thuyền là con bò” Thuyền ăn gió no” “Lội trên mặt nước” “Em trông thấy trước” “Anh nhìn thấy sau” “Chúng ta lớn mau” “Vượt qua ao lớn” Lời đồng dao này là của cậu bé Nguyễn Sinh Cung “nói” năm 1895 mà  Sơn Tùng đã ghi lại và in trên báo Cứu Quốc lần đầu năm 1950 Biển là ao lớn. Thuyền là con bò” trùng với “đường lưỡi bò” hiện nay. Câu chuyện trẻ con đan xen những ẩn khuất lịch sử chưa được giải mã đầy đủ về Quốc Cộng hợp tác, tầm nhìn Hoàng Sa, Trường Sa của Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1424-1427, lúc mà Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Lý Thụy làm phiên dịch cho Borodin trưởng đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô tới Quảng Châu giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch; xem Sơn Tùng chuyện Bác Hồ

(8) “Dưỡng sinh thi“, “Sấm Trạng Trình”,”Chí thiện“, “An nhàn vô sự là tiên”, “Đông chinh thiên tử xuất” ,”Bất chiến tự nhiên thành” là kiệt tác thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, xem  Ngày xuân đọc Trạng Trình.

(9) “Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim“. Thơ Thiền Trần Nhân Tông, “Cư trần lạc đạo phú” xem Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông

Quadeochotgapmaidausuoi

CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI
Hoàng Kim

Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“. Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua.Thuở ấy, tôi mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai Hoàng Ngọc Dộ ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của Bộ trưởng Xuân Thủy và  bí thư tỉnh ủy Quảng Bình Nguyễn Tư Thoan vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ trên.

Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ “Nguyên tiêu” nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ “Trung Nam Hải” từ dịp ấy.

Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới lời dịch sát nghĩa chữ Hán hơn so với bản tự dịch thoáng ý của chính Bác và có khác MỘT chữ so với bài mà tôi được nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng xuất xứ và cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

Tầm hữu vị ngộ, thơ Hồ Chí Minh

尋友未遇

千里尋君未遇君,馬蹄踏碎嶺頭雲。歸來偶過山梅樹,每朵黃花一點春。

(Bản chữ Hán trên Thi Viện của Đào Trung Kiên)

Tầm hữu vị ngộ Thiên lý tầm quân vị ngộ quân, Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân. Quy lại ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.

Nghìn Trăm dặm tìm anh chẳng gặp anh,
Đường về vó ngựa dẫm mây xanh.
Qua đèo chợt gặp mai đầu suối
Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành.

(Bản tự dịch của Hồ Chí Minh, theo lời Xuân Thủy)

“Trăm dặm tìm không gặp cố nhân
Mây đèo dẫm vỡ ngựa dồn chân
Đường về chợt gặp cây mai núi
Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”
(Bản dịch thơ của Phan Văn Các)

Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ “Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân” và không đơn giản dịch là “Tìm bạn không gặp”. Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam “chiến đấu trong vòng vây”; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/ Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Ngày xuân, hiểu sâu thêm một bài thơ hay của Bác và góp thêm một tản văn về trăng, suối nguồn, hoa mai.

*

“Qua đèo chợt gặp mai đầu suối” là bài viết được nhiều người yêu thích và trao đổi. Nay tôi bổ sung thêm năm tìm tòi mới:

1) Tầm hữu vị ngộ thơ Hồ Chí Minh (đúc kết mới sau chín năm tìm hiểu);
2) Nhành mai điểm nhấn tinh tế trong thơ Bác;
3) Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ;
4) Đèo Ngang nơi lưu dấu những huyền thoại.
5) Suy ngẫm về những câu thơ lưu lạc.

Tầm hữu vị ngộ thơ Hồ Chí Minh

“Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh là ẩn ngữ sâu sắc của phương pháp cách mạng, tôi đã đưa thông tin liên tục chín năm nay (2006-2015) tại bài viết “Qua đèo chợt gặp mai đầu suối”. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh liên quan chặt chẽ đến bài thơ “Thướng sơn”; là bài thơ Ngôn chí đặc sắc của Hồ Chí Minh viết ở Lũng Dẻ năm 1942, in tại: Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990, trang 14. Hai bài thơ ẩn ngữ đều lấy ý chủ đạo “nhành mai” đối “mặt trời hồng“. “Qua đèo chợt gặp mai đầu suối.”
Hoàng Kim bình thêm bài “Thướng sơn” để góp phần hiểu rõ thêm “Tầm hữu vị ngộ”.

上山





(Bản chữ Hán trên Thi Viện của Đào Trung Kiên)

Thướng sơn

Lục nguyệt nhị thập tứ,
Thướng đáo thử sơn lai.
Cử đầu hồng nhật cận,
Đối ngạn nhất chi mai.

Dịch nghĩa

Ngày hai mươi bốn tháng sáu,
Lên đến núi này.
Ngẩng đầu thấy mặt trời đỏ gần lại,
Bờ bên kia có một nhành mai.

Dịch thơ

Hai mươi tư tháng sáu,
Lên ngọn núi này chơi.
Ngẩng đầu: mặt trời đỏ,
Bên suối một nhành mai.
(Bản dịch của Tố Hữu)

Hăm tư tháng sáu hôm nay
Trèo lên trên đỉnh núi này dạo chơi
Ngẩng lên đỏ chói mặt trời
Bên kia khe một nhành mai xanh rờn
(Bản dịch của Xuân Thủy)

Ngày hăm tư tháng sáu
Lên đến ngọn núi này
Thấy gần mặt trời đỏ
Bờ trước một nhành mai
(Bản dịch của Nguyễn Thế Nữu)

Ngày 24 tháng 6 là ngày gì trong lịch sử? Ngày 24 tháng 6 năm 1812 là ngày đại quân của Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte vượt sông Neman, khởi đầu xâm chiếm Đế quốc Nga. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 là ngày khởi đầu của chiến dịch Voronezhđại quân Đức Quốc Xã Adolf Hitler tấn công Voronezh, thành phố có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt quan trọng bên bờ sông Đông, (là nguyên quán của Nikolai Fyodorovich Vatutin tư lệnh Phương diện quân Tây Nam, lực lượng phòng thủ chính của Liên Xô trong Chiến dịch phòng thủ Valuiki – Rossosh năm 1942). Về sau Adolf Hitler cho rằng hai ngày chậm trễ trong chiến dịch này đã làm Tập đoàn quân thiết giáp số 4 không kịp đến, làm giảm sức công phá và để cho Liên Xô kịp phòng thủ cứu nguy Stalingrad, thay đổi cục diện chiến tranh. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 tại Lũng Dẻ, Hồ Chí Minh lên núi.

“Thướng sơn” và “Tầm hữu vị ngộ” là ẩn ngữ, những câu thơ lưu lạc giữa đời thường. Hồ Chí Minh là người chuộng kinh Dịch và rất tinh tế, thường có những ứng xử ngẫu nhiên phù hợp với quy luật tất nhiên. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết viết và nói thường có ẩn ý. Ví như 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, cũng là ngày khai sinh  đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam.
“Thướng sơn” (lên núi) ví như lên non để quan sát thế trận biến ảo khôn lường của Chiến tranh thế giới thứ hai mà người thường khó đánh giá kết quả thắng thua. Uông Tinh Vệ tưởng là nối nghiệp Tôn Trung Sơn thời Trung Hoa Dân Quốc, “tam hùng” so với Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch. Uông Tinh Vệ trước hướng tả theo đại kế Tôn Trung Sơn “Quốc Cộng hợp tác” “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ Công Nông, Tam Dân chủ thuyết” nhưng về sau đã sai lầm chuyển sang hữu, kết giao với người Nhật và trở thành Hán gian vì Uông Tinh Vệ đánh giá sai kết cục Chiến tranh thế giới thứ hai là Đức Nhật Ý sẽ thắng vì có tương quan mạnh hơn Nga Mỹ Anh Trung Hoa Dân Quốc.

“Thướng sơn” và “Tầm hữu vị ngộ” là lên non thiêng, tìm về chính mình. “Đi đường mới biết gian lao. Núi cao rồi lại núi cao chập chùng . Núi cao lên đến tận cùng. thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” (Đi đường, Hồ Chí Minh). Giác ngộ, tìm về chính minh, xác định đúng tình thế, thời cơ và phương pháp cách mạng phù hợp “tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế lại tùy nghi là minh triết Hồ Chí Minh.

Nhành mai trong thơ Bác

Qua đèo chợt gặp mai đầu suối” “Gốc mai vàng trước ngõ” Hoàng Kim đã đúc kết thơ danh sĩ viết về hoa mai. Bài này là “Nhành mai trong thơ Bác”.

Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh. Đường về vó ngựa dẫm mây xanh. Qua đèo chợt gặp mai đầu suối . Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” Tầm hữu vị ngộ Hồ Chí Minh nhành mai trong thơ Hồ Chí Minh giống và khác gì so với các bài khác? như “Đêm qua sân trước một nhành mai” (Mãn Giác 1052-1096) “Lâm râm mưa bụi gội cành mai” (Trần Quang Khải 1241-1294); “Ngự sử mai hai hàng chầu chắp/ Trượng phu tùng mấy rặng phò quanh” (Huyền Quang 1254-1334); Quét trúc bước qua lòng suối/ Thưởng mai về đạp bóng trăng” (Nguyễn Trãi 1380-1442); “Cốt cách mai rừng nguyên chẳng tục”( Nguyễn Trung Ngạn 1289-1370); “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” (Nguyễn Du 1765-1820) “Nhờ chúa xuân ưu ái/ Xếp đứng đầu trăm hoa/ Chỉ vì lòng khiêm tốn/ Nên hẵng nở tà tà” (Phan Bội Châu 1867-1940); “Mộng mai đình” (Trịnh Hoài Đức 1725-1825) ; “Non mai rồi gửi xương mai nhé/ Ước mộng hồn ta hóa đóa mai” (Đào Tấn 1845-1907); “Một đời chỉ biết cúi đầu vái trước hoa mai” (Cao Bá Quát 1809- 1855) “Hững hờ mai thoảng gió đưa hương” (Hàn Mặc Tử 1912-1940) “Tìm em tôi tìm/ Mình hạc xương mai”(Trịnh Công Sơn 1939-2001), …

Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh câu thơ nguyên tác cuối bài là  “Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân” . Giáo sư tiến sĩ Hán học Phan Văn Các, nguyên Viện trưởng Viện Hán Nôm đã dịch là “Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”. So câu chữ là rất chuẩn và rất sát nghĩa. Thế nhưng, tôi lại nghe cố bộ trưởng nhà thơ Xuân Thủy, người đã dịch kiệt tác bài thơ “Nguyên tiêu” ra tiếng Việt, nói năm 1970 thì “Ông Cụ” đã tự mình dịch câu thơ trên là “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành”.

(*) Nhân nói thêm dịch bài thơ “Nguyên tiêu” Hồ Chí Minh, kiệt tác trong “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20” thì bản dịch thơ của Xuân Thủy được nhiều người yêu thích hơn cả. Tuy vậy nghe nói là Cụ Hồ đã hỏi vui Bộ trưởng Xuân Thủy rằng câu thơ “Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên” (sông xuân, nước xuân tiếp trời xuân) khi dịch là “Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân” thì ba chữ xuân sao chỉ còn lại hai chữ xuân?
Đó cũng là điều tinh tế (ví như Bộ trưởng Xuân Thủy là Bộ trưởng không Bộ vậy).

RẰM THÁNG GIÊNG
Hồ Chí Minh

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

(Bản dịch thơ của Xuân Thuỷ)

Nguyên tác




滿

Nguyên tiêu

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Dịch nghĩa

Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.

Tháng 2 năm 1948.

Nguồn:
1. Hồ Chí Minh – Thơ, NXB Văn học, Hà Nội, 1975
2. Hồ Chí Minh toàn tập (tập 5), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

Vậy “nhành mai” ẩn ý tinh tế của thơ Bác là gì?

Câu thơ “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” của Thiền sư Mãn Giác (Lý Trường,1051-1096) theo Minh Đức Triều Tâm Ảnh được dẫn lại và phân tích sâu thêm của Nguyễn Khôi, thì đáng chú ý nhất và khó dịch nhất là “nhất chi mai”.

Nhiều người dịch “nhất chi mai” là “một nhành mai, một nhánh mai, một cành mai”, thật ra phải hiểu “nhất chi mai” còn có nghĩa là “một đóa mai” mới thấu hiểu hết nghĩa thâm thúy. Một đóa là đủ cho cái tối thiểu, là đủ đại biểu cho mùa xuân, như một câu thơ có trước đó của Thiền sư Tề Kỷ (864-937) bạn của Thi sĩ Trịnh Cốc (849-911) đời nhà Đường đã sáng tác bài:

TẢO MAI

Vạn mộc đống dục chiết
Cô căn noãn độc hồi
Tiền thôn thâm tuyết lý
Tạc dạ nhất chi khai.
Phong đệ u hương khứ
Cầm khuy tố diễm lai
Minh niên như ưng luật
Tiên phát ánh xuân đài.

MAI NỞ SỚM

Vạn cây băng giá chết
Một cội ấm mọc ra
Đầu xóm trong tuyết đặc
Một cành đêm nở hoa.
Gió xa đem hương ẩn
Chim ngắm hoa trắng ngà
Năm tới như đúng tiết
 Mừng Xuân sáng ánh tà.

Chuyện kể rằng: Khi thiền sư Sư Tề Kỷ, sau khi viết xong, vốn tính khiêm tốn đã đem sang nhờ Thi sĩ Trịnh Cốc “góp ý kiến”, Trịnh Cốc đọc nhanh, rồi nói “sổ chi” phi “tảo” dã, vị nhược “nhất chi” giai (“mấy cành” chưa phải là sớm, chưa hay bằng “một cành”). Thiền sư Sư Tề Kỷ bèn sửa thành “Tạc dạ nhất chi khai”(một cành đêm nở hoa) bất hủ.

Bài thơ của Mãn Giác so với Tề Kỷ thì tương tự, nhưng có phần thâm viễn hơn. Với ý muốn nhắn gửi với đời về lẽ chuyển dịch vô thường không dao động đến tâm an nhiên của ta (theo Trần Tuấn Kiệt); Còn theo Ngộ Không thì nên hiểu: ở đây “xuân tàn” là trầm luân, “hoa lạc tận” là hư vô, giữa mê và Ngộ, phân ra hữu và vô, có và không. “nhất chi mai” chính là giác ngộ với trong sinh có diệt, trong diệt có sinh.”

“Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân” là “nhành mai” điểm nhấn tinh tế trong thơ Bác. Tại đây, Hồ Chí Minh chỉ rõ là “đóa” cụ thể là “một đóa mai” (nhất chi mai) nhưng Hồ Chí Minh tài tình chỉ rõ là “hoàng hoa” “đóa mai vàng” rất phù hợp và thông dụng ở Việt Nam, khác với mơ, mận, mai trắng, có nhiều ở xứ lạnh nhưng ít thông dụng ở xứ ấm như Việt Nam. Hồ Chí Minh lại viết ba chữ “nhất điểm xuân” đồng nghĩa nhưng khác sự diễn đạt với “nhất chi mai”, lời dịch nghĩa lại thoáng nghĩa “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” thuần Việt hoàn toàn và khẳng định chân lý “toàn thể mới làm nên mùa xuân đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công đại thành công.

Qua đèo chợt gặp mai đầu suối là tuyệt phẩm. “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” là câu thơ kiệt tác của Hồ Chí Minh.

Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ.

Trèo đèo hai mái chân vân / Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”. Đèo Ngang là con đèo lịch sử đã đi vào ca dao, huyền thoại. Nhiều danh nhân- thi sĩ như Lê Thánh Tông, Nguyễn Thiếp, Vũ Tông Phan, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Bà huyện Thanh Quan,  Cao Bá Quát, Hồ Chí Minh … đã lưu dấu tại đèo Ngang những tuyệt phẩm thơ. Đặc biệt, bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan rất nổi tiếng.

Lê Thánh Tông (1442 – 1497) là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1460 đến 1497, tổng cộng 37 năm. Ông nổi tiếng là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hoá và một người coi trọng hiền tài. Lê Thánh Tông trên đường chinh phục Chiêm Thành năm 1469 có bài Di Luân hải tần (Cửa Roòn) gửi Ma Cô (đền thiêng thờ công chúa Liễu Hạnh, ở xã Quảng Đông nam Đèo Ngang)

CỬA ROÒN

Lê Thánh Tông (*)

Tây Hoành Sơn thấy rõ Di Luân
Cát trải mênh mông tiếp biển gần
Sóng nước đá nhô xây trạm dịch
Gió sông sóng dựng lập đồn quan
Muối Tề sân phố mời thương khách
Rượu Lỗ quầy bàn tiếp thị dân
Muốn nhắn Ma Cô  nhờ hỏi giúp
Bụi trần Nam Hải có xua tan.

Trần Châu Báu Di Luân cẩn dịch

DI LUÂN HẢI TẤN

Hoành Sơn tây vọng thị Di Luân
Diễu diễu bình sa tiếp hải tần
Yên thủy sa đầu phân dịch thứ
Phong đào giang thượng kiến quan tân
Tề diêm trường phố yêu thương khách
Lỗ tửu bồi bàn túy thị nhân
Dục phỏng Ma Cô bằng ký ngữ
Nam minh kim dĩ tức dương trần.

Nguyễn Thiếp, (1723 – 1804), là nhà giáo, danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông được vua Quang Trung rất nể trọng. Nguyễn Thiếp đã hiến kế cho vua Quang Trung ” “Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó”. Ông đồng thời cũng là người dâng ba kế sách “quân đức, dân tâm, học pháp”, dùng chữ Nôm thay chữ Hán để tạo thế lâu bền giữ nước, xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô nơi đất khởi nghiệp Hồ Phi Phúc (tổ nghiệp của nhà Tây Sơn) để sâu rễ bền gốc. Vào khoảng đầu năm 1803, lúc Nguyễn Thiếp 80 tuổi, lúc vua Quang Trung đã mất, vua Quang Toản không giữ được cơ nghiệp,  vua Gia Long nhà Nguyễn thắng nhà Tây Sơn đã triệu ông vào gặp vua tại Phú Xuân để hỏi việc nước. Nghe vị chúa này tỏ ý muốn trọng dụng, ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về. Trên đường về, khi qua đỉnh đèo Ngang, ông đã cảm khái đọc bài thơ Nôm:

ĐÃ TRÓT LÊN ĐÈO PHẢI XUỐNG ĐÈO
Nguyễn Thiếp

Đã trót lên đèo, phải xuống đèo
Tay không mình tưởng đã cheo leo
Thương thay thiên hạ người gồng gánh
Tháng lọn ngày thâu chỉ những trèo!

Danh sĩ Ngô Thì Nhậm (1746–1803),  nhà văn, nhà mưu sĩ đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh cũng cảm khái khi “lên đèo Ngang ngắm biển”. Bài thơ cao khiết, bi tráng, mang sắc thái thiền.

LÊN ĐÈO NGANG NGẮM BIỂN
Ngô Thì Nhậm

Bày đặt khen thay thợ hóa công,
Khéo đem hang cọp áp cung rồng.
Bóng cờ Trần đế (1) dường bay đó,
Cõi đất Hoàn vương (2) thảy biến không.
Chim đậu lùm xanh, xanh đã lão,
Ngạc đùa sóng bạc, bạc nên ông.
Việc đời bọt nổi, xưa nay thế,
Phân họp giành trong giấc hạc nồng (3)

Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm

ĐĂNG HOÀNH SƠN VỌNG HẢI

Tạo hóa đương sơ khổ dụng công,
Khước tương hổ huyệt xấn giao cung.
Hoàn vương phong vực qui ô hữu,
Trần đế tinh kì quải thái không.
Tình thụ thê cầm thương dục lão,
Nộ đào hí ngạc bạch thành ông.
Vô cùng kim cổ phù âu sự.
Phân hợp du du hạc mộng trung.

Chú thích:
(1) Trần đế:Các vua đời Trần.
(2) Hoàn vương: Chiêm Thành.
(3) Giấc hạc: Giấc mộng hạc. Câu thơ ý nói cuộc tranh giành đất đai giữa Đằng Ngoài và Đằng Trong chẳng qua chỉ là giấc mộng trần thế sẽ tiêu tan.

Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) có bài thơ “Qua đèo Ngang” trong Hải Ông Tập;  họa vần bài thơ “năm Giáp Dần (1794), vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, lúc lên đường lưu biệt các bạn ở Bắc Thành” của Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn  ( Đoàn Nguyễn Tuấn là con Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Hương Cống đời Lê, có chiêu mộ người làng giúp Trịnh Bồng đánh Chỉnh, sau ra giúp Tây Sơn, làm đến chức Tả Thị Lang Bộ Lại, tước Hải Phái Bá. Có đi sứ Trung Quốc năm 1790 và có tập thơ nhan đề Hải Ông tập. Ông là anh vợ Nguyễn Du, hơn Nguyễn Du khoảng 15 tuổi). Đọc bài thơ này của Nguyễn Du để hiểu câu thơ truyện Kiều  “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.

QUA ĐÈO NGANG
Nguyễn Du

Họa Hải Ông  Đoàn Nguyễn Tuấn

Tiến về Nam qua đèo Ngang
Hành trình đầy đủ gươm đàn mang theo
Thuốc thần nào đã tới đâu
Mảnh da beo vẫn mối đầu lụy thân
Ánh mầu nước, chén rượu xanh
Dõi theo vó ngựa một vành trăng quê
Gặp gia huynh  hỏi xin thưa
Đường cùng tôi gặp, tóc giờ điểm sương

HỌA HẢI ÔNG ĐOÀN NGUYỄN TUẤN

Hoành Sơn sơn ngoại lĩnh nam trình
Cần kiếm tương thùy thướng ngọc kinh
Thỏ tủy vị hoàn tân đại dược
Báo bì nhưng lụỵ cựu phù danh
Thương minh thủy dẫn bôi trung lục
Cố quốc thiềm tùy mã hậu minh
Thử khứ gia huynh như kiến vấn
Cùng đồ bạch phát chí tinh tinh

Nguyễn Tâm Hàn phỏng dịch

Danh sĩ Vũ Tông Phan, (1800 – 1851),  nhà giáo dục, người có công lớn trong việc chấn hưng văn hóa Thăng Long thời vua Minh Mệnh cũng có bài thơ “Qua lũy Ninh Công nhớ chuyện xưa” rất nổi tiếng:

QUA LUỸ NINH CÔNG NHỚ CHUYỆN XƯA
Vũ Tông Phan

Đất này ví thử phân Nam, Bắc
Hà cớ năm dài động kiếm dao?
Trời tạo Hoành Sơn còn chẳng hiểm,
Người xây chiến lũy tổn công lao.
Thắng, thua rốt cuộc phơi hoang mộ,
Thù hận dư âm rợn sóng đào.
Thiên hạ nay đà quy một mối
Non sông muôn thuở vẫn thanh cao.

QÚA NINH CÔNG LŨY HOÀI CỔ

Nhược tương thử địa phân Nam Bắc,
Hà sự kinh niên động giáp bào?
Thiên tạo Hoành Sơn do vị hiểm,
Nhân vi cô lũy diệc đồ lao.
Doanh thâu để sự không di chủng,
Sát phạt dư thanh đái nộ đào.
Vũ trụ như kim quy nhất thống,
Mạc nhiên sơn thủy tự thanh cao.

Người dịch: Vũ Thế Khôi
Nguồn: Đào Trung Kiên (Thi Viện)

Chu Thần Cao Bá Quát (1809 – 1855) là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Cao Bá Quát có hai bài thơ viết ở đèo Ngang đó là Đăng Hoành Sơn (Lên núi Hoành Sơn) và Hoành Sơn Quan (Ải Hoành Sơn)

LÊN NÚI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát

Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi,
Bên non cỏ nội tiễn đưa người.
Ai tài kéo nước nghìn năm lại ?
Trăm trận còn tên một lũy thôi.
Ải bắc mây tan mưa dứt hạt,
Thôn nam nắng hửng sớm quang trời.
Xuống đèo mới biết lên đèo khổ,
Trần lụy, sao đành để cuốn lôi ?

ĐĂNG HOÀNH SƠN

Sơn ngại thanh sơn vạn lý Trình,
Sơn biên dã thảo tống nhân hành.
Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc,
Chinh chiến không tồn nhất lũy danh.
Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ,
Nam trang sơ hiểu đái tân tình,
Há sơn phản giác đăng sơn khổ,
Tự thán du du ủy tục tình!

Người dịch: Nguyễn Quý Liêm
Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn

ẢI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát

Non cao nêu đất nước,
Liền một dẫy ra khơi.
Thành cũ trăm năm vững,
Ải xa nghìn dặm dài.
Chim về rừng lác đác,
Mây bám núi chơi vơi.
Chàng Tô nấn ná mãi,
Tấm áo rách tơi rồi.

HOÀNH SƠN QUAN

Địa biểu lập sàn nhan,
Liêu phong đáo hải gian.
Bách niên khan cổ lũy,
Thiên lý nhập trùng quan.
Túc điểu sơ đầu thụ,
Qui vân bán ủng sơn.
Trì trì Tô Quí tử,
Cừu tệ vị tri hoàn.

Bản dịch của Hóa Dân
Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn

Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh; là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam với  bàithơ “Qua đèo Ngang’, một tuyệt phẩm thơ cổ, được người đời  truyền tụng hơn cả.

QUA ĐÈO NGANG
Bà huyện Thanh Quan

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Bài thơ này của Bà Huyện Thanh Quan
được Nguyễn Văn Thích dịch thơ chữ Hán

BỘ ĐÁO HOÀNH QUAN

Bộ đáo Hoành Quan nhật dĩ tà,
Yên ba gian thạch, thạch gian hoa.
Tiều quy nham hạ, ta ta tiểu,
Thị tập giang biên, cá cá đa.
Đỗ vũ tâm thương, thanh quốc quốc,
Giá cô hồn đoạn, tứ gia gia.
Đình đình trữ vọng: thiên, sơn, hải,
Nhất phiến cô hoài, ta ngã ta.

Bản dịch chữ Hán của Nguyễn Văn Thích

QUÁ HOÀNH SƠN

Quá Hoành Sơn đỉnh tịch dương tà
Thảo mộc tê nham diệp sấn hoa
Kỳ khu lộc tế tiều tung yểu
Thác lạc giang biên điếm ảnh xa
Ưu quốc thương hoài hô quốc quốc
Ái gia quyện khẩu khiếu gia gia
Tiểu đình hồi vọng thiên sơn thuỷ
Nhất phiến ly tình phân ngoại gia.

Bản dịch chữ Hán của Lý Văn Hùng.

DeoNgang

Đèo Ngang một vùng ký ức.

Hoàng Kim

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook,  Kim on Twitter

 

41 thoughts on “Nguyễn Du là bậc anh hùng

  1. Pingback: Bên lề chính sử | Tình yêu cuộc sống

  2. Pingback: Bên lề chính sử | Tình yêu cuộc sống

  3. Pingback: Vùng trời nhân văn | Tình yêu cuộc sống

  4. Pingback: Bảy ngày đêm tỉnh lặng | Tình yêu cuộc sống

  5. Pingback: Chào ngày mới 29 tháng 1 | Tình yêu cuộc sống

  6. Pingback: Chào ngày mới 29 tháng 1 | Tình yêu cuộc sống

  7. Pingback: Truyện George Washington | Tình yêu cuộc sống

  8. Pingback: Vùng trời nhân văn | Tình yêu cuộc sống

  9. Pingback: Chào ngày mới 15 tháng 4 | Tình yêu cuộc sống

  10. Pingback: Chào ngày mới 16 tháng 4 | Tình yêu cuộc sống

  11. Pingback: Chào ngày mới 29 tháng 8 | Tình yêu cuộc sống

  12. Pingback: Chào ngày mới 29 tháng 1 | Tình yêu cuộc sống

  13. Pingback: Chào ngày mới 15 tháng 4 | Tình yêu cuộc sống

  14. Pingback: Chào ngày mới 16 tháng 4 | Tình yêu cuộc sống

  15. Pingback: Chào ngày mới 4 tháng 2 | Tình yêu cuộc sống

  16. Pingback: Chào ngày mới 22 tháng 2 | Tình yêu cuộc sống

  17. Pingback: Chào ngày mới 25 tháng 2 | Tình yêu cuộc sống

  18. Pingback: Mưa bóng mây nắng đầy | Tình yêu cuộc sống

  19. Pingback: Con đường xanh yêu thương | Tình yêu cuộc sống

  20. Pingback: Dạy và học 4 tháng 7 | DẠY VÀ HỌC

  21. Pingback: Chào ngày mới 4 tháng 7 | Tình yêu cuộc sống

  22. Pingback: Câu chuyện ảnh tháng Bảy | Tình yêu cuộc sống

  23. Pingback: Dạy và học 16 tháng 7 | DẠY VÀ HỌC

  24. Pingback: Chào ngày mới 16 tháng 7 | Tình yêu cuộc sống

  25. Pingback: #cnm365 #cltvn 29 tháng 1 | DẠY VÀ HỌC

  26. Pingback: #cnm365 #cltvn 29 tháng 1 | Tình yêu cuộc sống

  27. Pingback: #cnm365 #cltvn 4 tháng 2 | DẠY VÀ HỌC

  28. Pingback: #cnm365 #cltvn 4 tháng 2 | Tình yêu cuộc sống

  29. Pingback: #cnm365 #cltvn 15 tháng 4 | DẠY VÀ HỌC

  30. Pingback: #cnm365 #cltvn 15 tháng 4 | Tình yêu cuộc sống

  31. Pingback: #cnm365 #cltvn 16 tháng 4 | DẠY VÀ HỌC

  32. Pingback: #cnm365 #cltvn 16 tháng 4 | Tình yêu cuộc sống

  33. Pingback: Chào ngày mới 28 tháng 4 | Tình yêu cuộc sống

  34. Pingback: #cnm365 #cltvn 28 tháng 4 | DẠY VÀ HỌC

  35. Pingback: #cnm365 #cltvn 28 tháng 4 | Tình yêu cuộc sống

  36. Pingback: Chung sức trên đường xuân | Tình yêu cuộc sống

  37. Pingback: #cnm365 #cltvn 4 tháng 7 | DẠY VÀ HỌC

  38. Pingback: #cnm365 #cltvn 4 tháng 7 | Tình yêu cuộc sống

  39. Pingback: #cnm365 #cltvn 16 tháng 7 | DẠY VÀ HỌC

  40. Pingback: #cnm365 #cltvn 16 tháng 7 | Tình yêu cuộc sống

  41. Pingback: Tỉnh thức cùng tháng năm | DẠY VÀ HỌC

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.