Vui đến chốn thung dung

NHỚ RƯỢU NÚI BẠN HIỀN
Hoàng Kim


Ngày đầu xuân nhớ ruộng
Thương rượu núi bạn hiền
Thèm thái dương đồng rộng
Giấc mơ lành mênh mông …

Chuyện ngày này năm xưa
VUI ĐẾN CHỐN THUNG DUNG
Hoàng Kim


Người rất muốn đi về nơi tịch lặng
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Ta đến chốn thung dung tìm hoa lúa
Rong chơi đường trần sống giữa thiên nhiên.

Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành
Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (*)
Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm
Người tri kỷ cùng ta và năm tháng.
Giác Tâm, ta về còn trọn niềm tin.

Xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vui-den-chon-thung-dung/

CHÙA BỬU MINH 
Thích Giác Tâm

Chùa Bửu Minh, xã Nghĩa Hưng, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai đặt đá trùng tu lại từ năm 2004, những năm đó chúng tôi còn khỏe, phật sự nào chúng tôi cũng làm, không hề từ chối. Các vị lãnh đạo thủy điện Sông Đà luôn mời chúng tôi làm lễ cầu siêu trong những lần có công nhân tử nạn, và cầu an đầu năm. Nhiều năm như thế Chùa Bửu Minh và thủy điện Sông Đà luôn gắn kết với nhau.

Sau mỗi khóa lễ cầu an, cầu siêu chúng tôi xin các anh hiến tặng cho chúng tôi xi măng, nhờ vậy mà ngôi chùa Bửu Minh từng bước xây dựng hoàn thành.

Các vị lãnh đạo Sông Đà lớn tuổi nay đã về hưu, còn tôi thì quá tuổi hưu nhưng vẫn còn lao động nhọc nhằn.

Đăng lại bài viết này để cảm ơn các vị lãnh đạo Sông Đà, và để nhớ lại một thời làm đạo có rất nhiều niềm vui, dấn thân không nề hà gian khổ.

TGT

—————————

DÒNG SÔNG SÊ SAN ƠI !
Thích Giác Tâm

“Đầu năm đứng trên dòng sông Sê San, tôi đã ngắm nhìn sông và tôi đã thấy như thế. Rừng đại ngàn đã ngã gục xuống, dòng sông mênh mang đẹp như một dải lụa trắng của các đại sư Tây Tạng, Ấn Độ quấn choàng cổ, bắt nguồn từ các đỉnh núi cao của núi rừng Ngọc Linh tỉnh Kon Tum băng qua đồi núi chập chùng của hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai để rồi chảy qua biên giới Campuchia”.

Sông ơi !

Chảy đi sông ơi ! Là lời của một bài hát. Đó là tiếng kêu thảng thốt của con người khi đứng trên bờ của dòng sông. Sông đã không sống đời của sông nữa, mà sông đã sống theo cách mà con người muốn nó sống. Ngày xưa sông vô tư , hồn nhiên sống, khi lên ghềnh, khi xuống thác, khi buông thư chầm chậm nhởn nhơ như người vô sự ngắm mây bay, xem hoa nở, lắng nghe tiếng chim hót. Nhưng rồi con người đã can thiệp vào, bắt sông phục vụ con người, mà nhu cầu của con người ở trong cõi người ta này thì vô hạn, vô chừng, không biết bao nhiêu là đủ. Thủy hỏa tương khắc, nhưng với trí tuệ con người biến nước thành hỏa, thành điện năng. Biến bao nhiêu cũng không đủ cung cấp, bởi con người không khác gì con khỉ Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký. Đào tiên quý là vậy mà hái trong thoáng chốc đã sạch vườn đào của Tây Vương Mẫu, mỗi trái chỉ cắn một miếng rồi quẳng đi, vứt bỏ. Quẳng đi không hề nuối tiếc, mà đào tiên mấy ngàn năm mới ra trái một lần ( điện rất quý có khác gì trái đào tiên đâu !).

Đầu năm đứng trên dòng sông Sê San, tôi đã ngắm nhìn sông và tôi đã thấy như thế. Rừng đại ngàn đã ngã gục xuống, dòng sông mênh mang đẹp như một dải lụa trắng của các đại sư Tây Tạng, Ấn Độ quấn choàng cổ, bắt nguồn từ các đỉnh núi cao của núi rừng Ngọc Linh tỉnh Kon Tum băng qua đồi núi chập chùng của hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai để rồi chảy qua biên giới Campuchia. Ngăn chặn dòng chảy, nhiều nhà máy thủy điện đã mọc lên, mọc lên để cung cấp năng lượng điện cho con người. Bên này nhà máy thủy điện nước mênh mang, bến bờ rộng thoáng vì nước tích tụ, đổ dồn nước về ba cái cống chạy tua bin phát điện. Bên kia nhà máy giòng sông khô cạn lởm chởm vô số đá, như những bãi đá ở bãi biển Quy Nhơn gần ngôi mộ Hàn Mặc Tử, so sánh cho dễ hình dung vậy thôi. Bãi đá ở biển Quy Nhơn, là đá sống, bởi có con người lân mẫn chăm sóc, cùng vui chơi ca hát quây phim chụp hình. Còn bãi đá ở giòng sông Sê San là bãi đá chết, đá chết bởi vì sông đã chết. Trong kinh Phật thường dùng từ:” Bên này bờ, bên kia bờ “. Bờ bên này là bờ sinh tử, vô minh, khổ đau. Bờ bên kia là giải thoát, an lạc, Niết Bàn. Đứng bên bờ sông Sê San tôi đã ngộ ra không có bờ bên này thì cũng không có bờ bên kia. Để tạo ra năng lượng điện con người phải trả giá cho cái được và cái mất. Được cho nhu cầu tiêu thụ của con người và mất cho môi trường sinh thái không còn cân đối, đảo lộn.

Câu kinh, tiếng chuông, tiếng mõ

Sáu năm qua mùa xuân nào thầy trò chúng tôi cũng có mặt, có mặt theo lời mời của các vị lãnh đạo ban điều hành dự án thủy điện Sê San 4. Chúng tôi không có huyền thuật ấn chú gì cao siêu, chỉ có tấm lòng đến với các vị lãnh đạo, với anh em công nhân đang treo mình trên ghềnh đá cheo leo, trên công trường hiểm nguy, mà tánh mạng như sợi chỉ mành treo chuông, sơ sẩy một chút là rơi xuống vực thẳm. Chiếc y vàng, câu kinh tiếng kệ trong những ngày đầu năm đã động viên an ủi anh chị em công nhân, đã đỡ nâng họ phần nào trong những ngày phơi nắng gió sương, hiểm nguy rình rập.

Tâm người lãnh đạo

Nhớ lại thời gian mới bắt đầu làm thủy điện, Thầy trò chúng tôi cùng với các vị trong ban quản lý làm một cái lán giữa rừng để cúng cầu an, và cúng cô hồn. Lán được làm bằng cây rừng và phủ bạt, cúng nửa chừng bỗng có một trận gió lớn nổi lên, tăng bạt bị gió thổi tung lên, một cây đòn tay trên cao rớt xuống, phóng xuống in tựa như phóng lao., hơn mười con người đang ngồi tụng kinh, vậy mà không trúng người nào, hú hồn hú vía. Đầu xuân năm nay thì vì vị chủ tịch HĐQT thủy điện từ Hà Nội vô cúng, cùng ngồi tụng kinh với thầy trò chúng tôi để cầu nguyện cho nhân viên công nhân xây dựng thủy điện một năm mới an lành, cúng xong tức tốc ra Hà Nội liền vì công việc quá bộn bề.

Cùng xây dựng, cùng hoàn thành

Nhà máy thủy điện Sê San xây dựng đúng sáu năm. Ngày 26 tháng 11 năm 2004 lễ khởi công, dự kiến ngày 30 tháng 06 năm 2010 là khánh thành. Kinh phí 5.600.000.000.000 đồng ( năm nghìn sáu trăm tỷ đồng ). Công suất 360 MW.

Nhà máy tọa lạc tại xã Iao, Huyện Iagrai, tỉnh Gia Lai, cách trung tâm thành phố Pleiku khoảng 70km.

Chùa Bửu Minh đặt đá xây dựng trùng tu năm 2004, đến hôm nay cũng tròn 6 năm, mái ngói chưa có điều kiện để sơn, nhưng cũng tạm hoàn thành. Trong nước chưa có ngôi chùa nào đặt tên là chùa Nhân Dân, hay có lẽ đã là của Nhân Dân rồi đặt thêm thừa . Thực sự chùa là của Nhân Dân, không của riêng ai . Chùa Bửu Minh xây dựng kinh phí rất lớn, tuy vậy không có một nguồn tiền nào khác, ngoài đồng tiền mồ hôi nước mắt của thập phương phật tử. Cứ mỗi đầu năm chúng tôi đem tấm lòng thành cầu nguyện cho công trường đang thi công, và sau đó các vị lãnh đạo ban quản lý dự án công đức lại năm mười tấn xi măng, cũng chỉ chừng đó thôi, không gì hơn nữa. Nửa bên kia trái đất bà con Phật tử, cũng hướng về quê hương đạo pháp, cũng nhín chút tịnh tài gởi về khi 20 khi 50 khi 100 đồng USD để chúng tôi mua xi măng. Người đi xa kẻ ở gần luôn nghĩ đến vai trò văn hóa của ngôi chùa trong nền văn hóa chung của dân tộc. Ngôi chùa mà ai đó cúng xây dựng trọn, ngôi chùa đó sẽ không vững bền với thời gian.

Người nằm xuống

Mỗi người một nghiệp khác nhau, nghề nghiệp có khi ta chọn, có khi cha mẹ chọn, có khi con Vua thì được làm Vua, con Sãi ở chùa thì quét lá đa. Nghề nào cũng có những khó nhọc khác nhau, nhưng tôi thấy nghề xây dựng thủy điện quả là nguy hiểm, chết chóc trong gang tất, sơ xẩy là mất mạng ngay. Nhiều năm qua thầy trò chúng tôi lúc nào cũng nghĩ đến Sông Đà, nghĩ đến ân tình kỷ niệm cưu mang nhau trong những giai đoạn khó khăn nhất, nghĩ đến anh chị em công nhân xây dựng thủy điện, luôn cầu nguyện mỗi khi có dịp. Nhưng rồi sinh tử vô thường, khó ai tránh khỏi. Sáu năm xây dựng bảy công nhân bị tai nạn lao động tại công trường thủy điện Sê San 4 đã ra đi. Đó là Kim văn Việt, sinh 1960. Nguyễn thị Thúy, sinh 1978. Lại thị Hà, sinh 1983, khi bị tại nạn mất đi, con gái của Hà mới biết đi lẩm đẩm. Lý Công Kim, sinh 1982, Hoàng văn Thôn sinh, sinh 1984. Dương văn Thực, sinh 1985, Bùi văn Cường sinh năm 1991. Bốn người công nhân này chưa lập gia đình. . Riêng trường hợp anh Bùi văn Cường, sáu năm xây dựng gian khổ hiểm nguy thì không sao, đến khi công trình sắp hoàn thành chuẩn bị bàn giao thì bị tử nạn tại công trường. Mỗi lần khấn nguyện cầu siêu cho các anh các chị lòng chúng tôi ngậm ngùi thương tiếc. Muốn có tiện nghi, nhu yếu cho đồng bào, cho cộng đồng, người công nhân ngành xây dựng thủy điện phải trả giá thật đắc, trả bằng sinh mạng của chính mình.

Chia tay.

Mỗi năm thầy trò chúng tôi gặp các anh các chị ngành xây dựng thủy điện ở Sê San một đôi lần. Và đầu xuân năm Canh Dần – 2010 các anh đã hoàn thành phần việc xây dựng của mình, giao lại cho đơn vị quản lý nhà máy và phát điện. Các anh lại tiếp tục ra đi: Ngành xây dựng thủy điện có câu:” Rừng xanh thì đến, đỏ ngói thì đi” Nơi nào có nhà máy thủy điện thì nơi đó có điện có đường ,có trường, có chợ và nhà cửa lợp ngói mọc lên san sát như nấm mọc lên trong những tháng mưa .

Buổi chia tay với mâm cơm chay còn lại rất nhiều, vì không khí oi bức, vì tình cảm sắp chia xa. Anh A, anh Quỹnh đại diện ban quản lý dự án thủy điện Sê San 4 với lời lẽ chúc tụng cảm ơn, nhà chùa Bửu Minh sáu năm qua đã đến với Sông Đà, đến với Sê San bằng tấm lòng, bằng câu kinh tiếng kệ cầu nguyện cho anh chị em công nhân đang thi công, giờ lại phải chia tay không biết bao giờ gặp lại. Chúng tôi cũng đứng lên đáp tạ:” Sáu năm chúng ta gặp nhau như những người bạn cùng đi chung một chuyến tàu, và tàu đã tới sân ga mọi người lại đi về mỗi hướng khác nhau. Mỗi người mỗi nghiệp khác nhau, nên hướng về đích đến cũng khác nhau, chúng tôi cũng chỉ biết nói lời cảm ơn, và trong cuộc sống hằng ngày mỗi khi dùng cái gì liên quan đến điện là chúng tôi luôn nhớ đến các anh, các chị, những con người đã đem tiện nghi cần thiết đến với tất cả chúng tôi. Khi dùng điện chúng tôi sẽ không hoang phí như Tề Thiên Đại Thánh ăn phá vườn đào tiên của Tây Vương Mẫu.

Pleiku, đầu năm 2010

Thích Giác Tâm

ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
Hoàng Kim


Vui việc thiện lắng nghe kinh
Ngắm hoa mai nở giữ mình thảnh thơi
Mới hay mọi việc trên đời
Thung dung phúc hậu là nơi tìm về.

Vu Lan năm nay muộn
Tháng nhuận ngày vắn dài
Trời đất gió Bắc thổi
Vần vũ mây gió hoài

Nắng mưa chuyện của trời
An nhiên vui khỏe sống
Thung dung ngày tháng rộng
Mai sớm thành rừng thôi

ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
Hoàng Trung Trực

Vất bỏ ngoài tai mọi chuyện đời
Lòng không vướng bận dạ an thôi
Ráng vun đạo đức tròn nhân nghĩa
Huệ trí bùng khai tỏa sáng ngời

Lòng lộng đêm nghe tiếng mõ kinh
Bao nhiêu ham muốn bỗng an bình
Tâm tư trãi rộng ngàn thương mến
Mong cả nhân loài giữ đức tin.

Thượng Đế kỳ ba gíáo đô đời
Vô minh cố chấp tại con người
Thánh Tiên tùy hạnh tùy công đức
Ngôi vị thiêng liêng tạo bởi Người.

Vững trụ đức tin đạo chí thành
Vô cầu vô niệm bả công danh
Sớm hôm tu luyện rèn thân chí
Đạo cốt tình thương, đức mới thành

VUI BƯỚC TỚI THẢNH THƠI
Hoàng Kim

Chân trần bước tới thảnh thơi
Trăng rằm cổ tích nhớ lời của Anh:

“Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ hết cay hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”.
(Hoàng Ngọc Dộ)

Đến chốn thung dung
Sống giữa thiên nhiên
Về với ruộng đồng
Tổ ấm Rồng Tiên
Trở lại với mình.
Bước tới thảnh thơi
Trăng rằm cổ tích
Giấc mơ hạnh phúc.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ta-ve-song-giua-thien-nhien.jpg

VUI ĐẾN CHỐN THUNG DUNG
Hoàng Kim

Thăm người ngọc nơi xa vùng tỉnh lặng
Chốn ấy non xanh người đã chào đời
Nơi sỏi đá giữa miền thiêng hoa cỏ
Thiên nhiên an lành, bước tới thảnh thơi.

Sống giữa đời vui giấc mơ hạnh phúc
Cổ tích đời thường đằm thắm yêu thương
Con cái quây quần thung dung tự tại
Minh triết cuộc đời phúc hậu an nhiên.

Xuân Hạ Thu Đông bốn mùa luân chuyển
Say chân quê ngày xuân đọc Trạng Trình
Ngày ra ruộng đêm thì đọc sách
Ngọc cho đời giữ trọn niềm tin.

(*) Nhạc Trịnh

Emve

VUI SỐNG GIỮA THIÊN NHIÊN
Hoàng Kim

Người rất muốn đi về trong tịch lặng
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Ta đến chốn thung dung tìm hoa lúa
Rong chơi đường trần sống giữa thiên nhiên.

Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành
Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (*)
Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm
Người tri kỷ cùng ta và năm tháng.
Giác Tâm ta về còn trọn niềm tin.

TA VỀ VỚI ĐỒNG XUÂN
Hoàng Kim

Người khôn về chốn đông người
Cái nhìn thì mỏng cái cười thì nông
Ta vui về với ruộng đồng
Để gieo tục ngữ để trồng dân ca.

Thỏa thuê cùng với cỏ hoa
Thung dung đèn sách, nhẫn nha dọn vườn
Mặc ai tính thiệt so hơn
Bát cơm gạo mới vẫn thơm láng giềng

Thiên nhiên là thú thần tiên
Chân quê là chốn bình yên đời mình
Bạn hiền bia miệng anh linh
Thảnh thơi hưởng trọn ân tình thế gian.

Nước trong ngập ánh trăng vàng
Ta ra cởi bỏ nhọc nhằn âu lo
Lợi danh một thực mười hư
Trăm điều ước vọng chỉ phù du thôi.

Thung dung thanh thản cuộc đời
Tình quê bồi đắp về nơi sâu đằm
Ta vui hạnh phúc trăm năm
Chọn tìm giống tốt đêm nằm chiêm bao.

TA VỀ TRỜI ĐẤT HỒNG LAM
Hoàng Kim

Ta về trời đất Hồng Lam
Bâng khuâng bước dưới trăng vàng lộng soi
Ngực trần chạm tới thảnh thơi
Nghe lưng thấu đến bồi hồi đất quen.

Linh miêu chốn Tổ Rồng Tiên
Quấn quanh trao gửi nổi niềm Thái Sơn
Hỡi ai là kẻ phi thường
Đỉnh chung dâng nén tâm hương nhớ Người.


MÌNH VỀ VỚI CHÍNH MÌNH
Hoàng Kim

Mình về với chính mình thôi
Ở nơi bếp núc nói lời yêu thương
Hành trình của chính linh hồn
Giấc mơ hạnh phúc, con đường tình yêu.

Thênh thênh đồng rộng trời chiều
Nụ cười mãn nguyện bao điều ước mong
Dẫu rằng xuân đến tự xuân
Vượt qua đông lạnh đã dần sương tan.

Lời nguyền cùng với nước non
Hiếu trung trọn nghĩa lòng son vẹn tình
Yêu thương phúc hậu hi sinh
Đường xuân chung lối hương linh muôn đời.

CHÙA RÁNG GIỮA ĐỒNG XUÂN
Hoàng Kim


Nơi cổ tự mây lành che xóm vắng
Viên Minh xưa chùa Ráng ở đây rồi
Bụt thư thái chim rừng nghe giảng đạo
Trời trong lành gió núi lắng xôn xao.

Nhớ Pháp Chủ người hiền Thích Phổ Tuệ
Viên ngọc lành tính sáng gửi tin yêu:
“Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”

Thương hạt ngọc trắng ngần vui Bạch Ngọc
Phước nhân duyên thơm thảo học làm người
“Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
Mưa thuận gió hòa nhân quả tốt tươi”

Ngát hương sen lồng lộng bóng trúc mai
Đồng xuân đất lành trời xanh bát ngát
Hoa Đất, Hoa Người tổ tiên phước đức
Con biết ơn Người hiếu thảo ghi ơn …

THIỀN SƯ LÃO NÔNG TĂNG
https://youtu.be/w21hkPfEA2M
“Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”

Viên Minh Thích Phổ Tuệ
Lời Thầy dặn thung dung

Nhớ Viên Minh Hoa Lúa
Chùa Ráng giữa đồng xuân
Kim Notes lắng ghi chú
Hoa Đất thương lời hiền. ·

Noi theo dấu chân Bụt
Dạy và học làm Người
Hiểu Quân Dân Chính Đảng
Thấu Nông Lâm Y Sinh
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thien-su-lao-nong-tang/

CHỮ TUỆ 慧
Hán Nôm ( Học với chữ Hán-Nôm )
Đỗ Hoàng  · 2 4 2022 lúc 21; 42  

Tuệ có nghĩa là thông minh tài trí, sáng dạ. Tuệ thường được sử dụng để chỉ sự sáng suốt mau mắn lanh trí của con người. Sinh ra đã thông minh hơn người, tư duy nhanh nhẹn gọi là có tuệ căn. Có con mắt nhìn thấu mọi thứ soi rõ tiền nhân hậu hoạn gọi là tuệ nhãn.

Chữ tuệ được dùng nhiều trong phật học. Nhưng từ này cũng hàm ý chỉ sự tốt đẹp, nên thường được dùng để đặt làm tên người.

Cách viết chữ Tuệ

Tuệ – Huì – 慧. Bên trên là hai chữ phong 丰, bên dưới có bộ kệ 彐, sau đó là chữ tâm.

Chua Giang giua dong xuan

Thiền Sư Lão Nông Tăng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thien-su-lao-nong-tang/

Những trang đời lắng đọng
TĨNH THỨC HOA SEN TRẮNG
Hoa sen trắng
Nhà văn Triết gia Ấn độ Osho


Tổ sư Bồ đề đạt ma đến với một chiếc giầy;

Triết gia Osho nổi tiếng người Ấn độ nói: Tôi cực lạc vì tên của Tổ sư Bồ đề đạt ma đã làm cho tôi phiêu diêu. Đã từng có nhiều chư phật trên thế giới, nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma sừng sững như đỉnh Everest. Cách hiện hữu của ông ấy, cách sống, và cách diễn đạt chân lí đơn giản là của ông ấy; nó là vô song.

Trong các chùa ở Miền tây thường bên cạnh thờ tượng Đức Phật, có thờ tượng của Tổ sư Bồ đề đạt ma. Tượng Tổ sư dễ nhận biết. Gương mặt một người hung dữ, vai đeo gậy. Trên gậy có chỉ một chiếc giày.Tổ sư Bồ đề đạt ma đã du hành từ Ấn Độ sang Trung Quốc để truyền bá thông điệp của Đức Phật, người thầy của mình, mặc dầu họ sống cách nhau một nghìn năm.

*

Khi Tổ sư Bồ đề đạt ma đến Trung Quốc, Vũ Đế ra đón ông ấy ở biên ải. Mọi ngưỡi nghĩ rằng một chứng ngộ lớn đang tới! Và tất nhiên Vũ Đế đã tưởng tượng Tổ sư có nét gì đó giống như Đức Phật: rất hoà nhã, duyên dáng, vương giả. Tuy nhiên khi ông ta thấy Bồ đề đạt ma thì ông đã bị choáng. Tổ sư Bồ đề đạt ma trông rất thô thiển. Không chỉ thế, ông ấy còn có vẻ rất ngớ ngẩn. Ông ấy đến cây gậy đeo trên vai chỉ có một chiếc giầy.Vũ Đế bối rối. Ông ta đã tới cùng với cả đoàn triều đình với các hoàng hậu quí phi. Họ sẽ nghĩ gì khi ta ra đón một loại người như thế này? Ông cố gắng vì lịch sự bỏ qua điều đó. Và ông đã không muốn hỏi “Sao ông lại đến nước chúng tôi chỉ với một chiếc giầy?

Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma đã không để Vũ Đế yên. Ông ấy nói: -Đừng cố bỏ qua nó. Hãy hỏi và thẳng thắn ngay từ chính lúc đầu đi. Ta đã đọc được câu hỏi trong đầu ông rồi.Vũ Đế đâm ra lúng túng; sau cùng ông nói:-Vâng, ông đúng, câu hỏi này đã nảy sinh trong ta: Sao ông đến mà chỉ mang một chiếc giày?

Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Để mọi thứ vào cảnh quan đúng như từ chính lúc đầu. Ta là người vô lí! Ông phải hiểu điều đó từ chính lúc bắt đầu. Ta không muốn tạo ra bất kì rắc rối nào về sau. Hoặc ông chấp nhận ta như ta vậy hoặc ông đơn giản nói rằng ông không thể chấp nhận được ta. Và ta sẽ rời khỏi vương quốc của ông. Ta sẽ đi lên núi. Ta sẽ đợi ở đó đến khi người của ta đến với ta. Vũ Đế lúng túng. Ông đã mang theo nhiều câu hỏi khi đến đón Tổ sư. Nhưng ông băn khoăn có nên đưa chúng ra hay không? Ông nghi ngai câu trả lời là lố bịch. Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma một mức khăng khăng:-Ông hãy nên hỏi những câu ông đã mang tới đây.

Vũ Đế gượng gạo hỏi:-Câu hỏi đầu: Ta đã làm được nhiều phước đức…. Tổ sư Bồ đề đạt ma nhìn sâu vào trong đôi mắt của Vũ Đế. Một cơn lạnh toát chạy dọc sống lưng nhà vua. Ông nói:-Toàn những điều vô nghĩa! Làm sao ông có thể làm được nhiều phước đức ? Ông còn chưa nhận biết phước đức được hình thành từ nhận biết . Mà ông ngụ ý phước đức nào? Làm sao ông có thể tạo ra được phước đức? Phước đức chỉ được tạo ra từ Đức Phật.

Vũ Đế ngại ngần:-Việc ta nói làm nhiều phước đức. Ta ngụ ý rằng ta đã làm nhiều đến chùa, nhiều điện thờ cho Phật. Ta đã làm nhiều đạo tràng cho các khất sĩ Phật tử, các tín đồ, và tì kheo. Ta đã thu xếp cho hàng nghìn học sĩ để dịch kinh sách Phật sang tiếng Trung Quốc. Ta đã tiêu tốn hàng triệu đồng bạc cho việc phục vụ Đức Phật. Nhiều triệu khất sĩ xin ăn mọi ngày từ cung điện này nọ này trên khắp nước.

Và Tổ sư Bồ đề đạt ma cười. Vũ Đế chưa từng bao giờ nghe thấy tiếng cười như thế. Tiếng cười bụng có thể làm rung chuyển cả núi. Tổ sư cười sằng sặc và nói:-Ông đã hành động một cách ngu xuẩn. Mọi nỗ lực của ông đều đã là cực kì phí hoài. Sẽ không tạo ra kết quả nào từ nó cả. Đừng cố, và đừng tưởng tượng rằng ông sẽ được lên cõi trời thứ bẩy như các khất sĩ Phật giáo đã nói cho ông. Họ chỉ khai thác ông thôi.

Đây là chiến lược khai thác những người ngu như ông. Họ khai thác lòng tham của ông về thế giới bên kia, Họ vẽ cho ông những hứa hẹn lớn. Và lời hứa của họ không thể chứng minh là sai được vì không ai quay trở về từ thế giới bên kia để nói liệu những lời hứa đó có được hoàn thành hay không. Ông đã bị họ lừa rồi. Không có cái gì sẽ xảy ra từ điều mà ông nghĩ là việc làm phước đức. Thực ra, ông sẽ rơi vào địa ngục thứ bẩy, vì một người sống với những ham muốn sai như thế, người sống có ham muốn như thế, đều sẽ rơi vào địa ngục.

Vũ Đế e ngại. Ông cố gắng lái câu chuyện sang một chủ đề khác: -Vậy có cái gì linh thiêng hay không? Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Không có cái gì linh thiêng, cũng như không có cái gì là báng bổ. Linh thiêng và báng bổ, đều là thái độ của tâm trí, của định kiến. Mọi việc đều đơn giản như chúng vậy. Không cái gì sai và không cái gì đúng, không cái gì tội lỗi và không cái gì phước đức. Vũ Đế buồn bực:-Ông thật quá thể đối với ta và người của ta. Sau đó, Tổ sư Bồ đề đạt ma nói lời tạm biệt, quay lưng lại và đi lên núi.

Trong chín năm trên núi ông ấy ngồi quay mặt vào tường. Mọi người đến với ông bởi vì đã được nghe, biết về cuộc đối thoại này. Dù khoảng cách sống giữa Tổ sư và Đức Phật trong hơn một nghìn năm, nhưng về trung tâm Tổ Sư vẫn ở cùng Đức Phật. Tổ sư nói điều tinh tuý của Đức Phật – tất nhiên theo cách riêng của ông ấy, theo phong cách của ông ấy, Ngay cả Phật cũng sẽ thấy cách trình bày này đó là kì lạ.

Đức Phật là người văn hoá, phức tạp, và duyên dáng. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma chính là cái đối lập trong cách diễn đạt của Đức Phật. Tổ sư không là người mà là con sư tử. Tổ sư không nói, mà ông ấy gầm lên. Tổ sư không có cái duyên dáng mà Đức Phật có. Cái mà ông ấy có là sự thô thiển, dữ dằn. Không thanh nhã như kim cương; Tổ sư hệt như vĩa quặng: thô ráp tuyệt đối , không có một sự đánh bóng. Và đó là cái đẹp của ông ấy. Đức Phật có cái đẹp rất nữ tính, lịch sự, mảnh mai. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma có cái đẹp riêng . Cái đẹp của một tảng đá – mạnh mẽ, nam tính, không thể phá huỷ được, cái đẹp của một sức mạnh lớn lao.

Đức Phật toả sức mạnh, nhưng sức mạnh của Đức Phật rất im lặng, như tiếng thì thào, như làn gió mát. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma là cơn bão, sấm rền và chớp giật. Đức Phật đến cửa nhà bạn nhẹ nhàng không một tiếng động, bạn thậm chí sẽ không nghe thấy tiếng bước chân của ông ấy. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma, khi ông ấy đến nhà bạn, ông ấy sẽ làm rung chuyển cả ngôi nhà từ tận móng của nó. Đức Phật sẽ không lay bạn dậy ngay cả khi bạn đang ngủ. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma? Ông ấy sẽ dựng bạn dậy từ trong nấm mồ! Ông ấy đánh mạnh, ông ấy là chiếc búa.

Tổ sư là chính cái đối lập của Đức Phật trong cách diễn đạt, nhưng thông điệp của ông ấy với Đức Phật là một. Tổ sư cúi mình trước Đức Phật là thầy của mình. Tổ sư chưa bao giờ nói “Đây là thông điệp của ta”. Tổ sư đơn giản nói:-Điều này thuộc về chư phật, chư phật cổ đại. Ta chỉ là sứ giả. Không cái gì là của ta, bởi vì ta không có. Ta như cây trúc hồng được chư phật chọn để làm chiếc sáo cho họ. Họ hát: ta đơn giản để cho họ hát qua ta.

PHÁP TRẦN, QUAY ĐẦU LÀ BỜ
Thích Thanh Từ (Sư Ông Trúc Lâm)

Trong nhà thiền thường nói, khi ngộ đạo rồi mắt thấy như mù, tai nghe như điếc. Như mù nhưng không phải mù, như điếc nhưng không phải điếc. Giả sử chúng ta đi chợ, nghe người ta xôn xao đủ thứ, nhưng mình không dính, không chú ý. Khi về người nhà hỏi: “Bữa nay đi chợ thấy cái gì?” Mình nói: “Không thấy gì hết”. Nhưng sự thật mình có thấy không? Có thấy nhưng không dính thành ra như không thấy. Còn nếu ta để tâm vào việc gì thì khi được hỏi, mình liền trả lời: “Thấy thế này, thế kia”. Đó là ta đã tích lũy vào pháp trần trong tâm rồi.

Cho nên việc tu có nhiều điểm rất hay mà chúng ta không biết. Như ra đường bị ai nói xúc phạm tới danh dự mình, về nhà ít nhất ta cũng kể lại với người thân nghe. Kể một người nghe mình cũng chưa vừa lòng, phải kể cho người này người kia nghe chừng một trăm lần, như vậy mình đã thuộc lòng trong ký ức sâu quá rồi. Vì vậy khi ngồi thiền nó trồi lên, bỏ được một lát nó trồi lên nữa. Đó là vì chúng ta đã ghi nhớ quá sâu đậm.

Giống như lúc còn bé đi học, mỗi khi muốn thuộc bài, mình phải đọc tới đọc lui nhiều lần mới thuộc. Đem vô sâu là do ôn tới ôn lui nhiều lần. Lỡ nhớ rồi, khi muốn quên cũng phải tập bỏ thường xuyên mới quên được, không có cách nào khác hơn. Vậy mà vừa có chuyện buồn, chuyện giận là chúng ta đem ra kể liền. Gặp ai kể nấy, kể hoài như vậy quên sao được. Khi ngồi thiền nó trồi lên lại than: “Khổ quá! Con tu khó”. Khó là tại ai? Tại mình chứ tại ai, tích lũy nhiều thì nó trồi lên nhiều.

Bây giờ chúng ta thấy chỉ thấy, không thèm quan tâm chú ý gì cả. Thấy tất cả mà tâm không giữ, không dính thì tu dễ không khó. Nếu tu là tìm cái gì ở đâu xa thì khó, đằng này nó đã sẵn nơi mình rồi, chỉ quay lại là hiện tiền. Chúng ta không thấy được cái chân thật là do pháp trần đầy cứng bên trong, nên quay lại thấy toàn tạp nhạp.

Những giờ ngồi thiền là những giờ quay lại, mình thấy pháp trần lăng xăng lộn xộn nên nói thấy loạn tưởng nhiều quá. Thấy loạn tưởng nhiều là tu tiến nhiều. Vì ngày xưa, mỗi khi chúng dấy lên mình chạy theo nên không thấy chúng, bây giờ chúng dấy lên mình biết liền bỏ, đó là tu tiến. Tuy nó còn nhưng mình đã làm chủ được chút chút. Hồi xưa nó dẫn mình chạy theo hoàn toàn, bây giờ nó trồi lên mình từ chối không theo, đó là tiến rõ ràng. Nhưng nhiều khi Phật tử thấy nó rồi sợ, tu gì mà vọng tưởng quá chừng. Sự thật có tiến, tiến từng bước, chứ không phải không tiến.

Bước tiến tiếp theo là ngoài giờ ngồi thiền, khi tiếp xúc với mọi cảnh mọi vật, chúng ta thấy biết rõ ràng nhưng bỏ qua, không chú tâm, đó là ta tu trong mọi lúc mọi nơi. Không phải tay lần chuỗi, thân tọa thiền mới tu. Lần chuỗi tọa thiền mà ai động tới liền la hét là không phải tu. Người không tỏ vẻ tu hành gì hết, nhưng đi đứng tự nhiên thoải mái, ai nói gì thì nói, bỏ qua không để lòng, ấy mới thật là chân tu.

Nhiều khi chúng ta như điên khùng với nhau. Thí dụ mình tưởng mình thông minh, sáng suốt, nhưng ai vừa nói “Chị ngu quá!”, mình liền la đông đổng lên, để nói rằng ta không ngu. Nhưng thật ra như vậy là đã chứng tỏ mình đang ngu. Nếu không ngu, ta chỉ cười, nói: “Phải, tôi ngu” Nói vậy còn gì nữa để la, thì đâu có khổ. Vậy mà ai nói mình ngu liền cự lộn, rồi đủ thứ chuyện thưa kiện … có khổ không? Thế là cả hai đàng đều khùng điên với nhau hết.

Những chuyện hết sức nhỏ như vậy, nhưng mình không biết tu, nên cứ tích lũy trong tâm thành ra sanh bệnh. Bây giờ muốn bỏ, chúng ta phải gỡ lần những thứ đó, từ từ ngồi thiền sẽ được nhẹ nhàng yên ổn. Ai nói gì mình cũng cười. Đức Phật ngày xưa bị Bà la môn theo sau mắng chửi, Ngài im lặng không nói, không nhận, thế mà Bà la môn phải chịu phép, không dám mắng chửi nữa, khỏe khoắn làm sao.

Phật là bậc giác ngộ nên thấy người mê Ngài thương, không phản đối, không chống cự gì cả nhưng lại nhiếp phục được họ. Còn chúng ta bây giờ nghe nói một câu không vừa lòng liền phản đối, chống cự, rốt cuộc càng thêm lớn chuyện. Như vậy ta cùng những người mê kia, không hơn không kém, phải không? Mình là người tỉnh thì phải hơn kẻ mê. Họ nói bậy mình chỉ cười thôi thì không xảy ra chuyện gì hết. Như vậy có khỏe không ?

Cho nên người biết tu xả bỏ hết những gì không quan trọng. Quan trọng là đừng để sáu trần lôi dẫn đi, phải quay về với cái chân thật của chính mình. Cái chân thật ấy ai cũng có nhưng vì vọng tưởng che lấp nên mình không nhận ra. Cho nên Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện nói, người tu thiền như con ngỗng chúa uống sữa chừa nước lại. Câu nói nghe muốn bể cả đầu! Làm sao mà uống sữa chừa nước được? Hai thứ ấy hòa lẫn nhau, lọc thế nào ?

Những câu như vậy, tôi cũng mất nhiều năm lắm mới thấy rõ ý nghĩa của nó. Cái gì là sữa?. Cái gì là nước ? Vọng tâm và chân tâm nơi mình hòa lẫn nhau, không phải một cũng không phải hai. Vậy làm sao để lọc chân tâm ra khỏi vọng tâm? Ở đây, chúng ta chỉ cần khéo một chút là thấy liền. Cái biết trong sáng hiện tiền đó là sữa, còn cái biết lăng xăng lộn xộn là nước. Cái biết lăng xăng lộn xộn thì chúng ta không theo, chỉ sống với cái biết yên tĩnh, trong sáng. Đó là mình đã loại nước, uống sữa. Được thế ta là ngỗng chúa.

Những giây phút yên tĩnh, chúng ta ngồi chơi không nghĩ gì hết. Lúc đó tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy mà không nghĩ suy điều chi. Như vậy cái biết đó mình đã có sẵn, nhưng vừa dấy nghĩ cái này cái nọ liền quên mất cái biết hằng hữu. Bây giờ chỉ cần không chạy theo các thứ xao động thì nó hiện tiền. Nếu chúng ta đừng đuổi theo những gì mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm … ăn cứ ăn uống cứ uống, làm tất cả việc mà đừng dính, nếu không phải Phật thì ít nhất mình cũng là Bồ tát con rồi.

Vì vậy không dính với sáu trần là biết quay đầu, còn dính với sáu trần là đã lao đi trong sanh tử, không có gì khó khăn hết. Trong nhà thiền có câu chuyện của anh hàng thịt, khi nghe một câu nói của vị Thiền sư, liền tỉnh ngộ và làm bài kệ:
Tạc nhật dạ xoa tâm
Kim triêu Bồ tát diện
Dạ xoa dữ Bồ tát
Bất cách nhất điều tuyến.
Dịch:
Hôm qua tâm dạ xoa
Bữa nay mặt Bồ tát
Dạ xoa và Bồ tát
Không cách một đường tơ.

Bồ tát và Dạ xoa chỉ cách nhau ở một cái nhìn. Nhìn ra là mê, xoay lại là giác, dễ như trở bàn tay, không có gì ngăn cản hết. Vậy mà chúng ta làm không nổi, cứ ì ạch hoài. Thiền đặc biệt ở chỗ đó, nhưng vẫn phù hợp với những gì Phật dạy ngày xưa. Tôi sẽ dẫn kinh để chứng tỏ điều này.

Trong kinh A Hàm kể lại, một hôm, sau thời tọa thiền trong rừng, Đức Phật xả thiền ngồi chơi tự tại. Chợt Ngài thấy có một con rùa bò về phía mình, phía sau con dã can đuổi theo định cắn đuôi con rùa, con rùa liền rút đuôi vào trong mai. Dã can chụp lấy chân, con rùa liền rút chân vào trong mai. Cứ như vậy dã can chụp cắn tứ tung, rùa cũng rút hết các bộ phận vào trong mai. Con dã can chụp hoài không được bèn bỏ đi.

Kết thúc câu chuyện, Phật nói: “Người tu cũng thế, nếu biết giữ sáu căn không cho chạy theo sáu trần thì không có ma vương nào bắt được”. Còn nếu chạy theo sáu trần bị nó cắn đứt đầu đứt cổ. Chuyện thật là hay.

Thêm một câu chuyện nữa. Phật kể trong một đàn khỉ, có con khỉ nhỏ đi sau đàn thấy mấy con lớn đi trước ăn nhiều trái cây ngon, còn mình thiệt thòi quá. Nó bèn tách đàn, đi một mình để được ăn ngon. Khi thấy miếng mồi ngon, nó liền đưa tay chụp, không ngờ đó là cái bẫy nhựa, nên tay nó bị dính nhựa. Nó liền đưa tay kia gỡ nên tay kia bị dính luôn. Con khỉ liền lấy chân phải quào, chân phải dính; lấy chân trái quào, chân dính luôn. Nó quật cái đuôi để gỡ, đuôi cũng dính. Cuối cùng còn cái miệng, nó liền đưa miệng cạp, thế là miệng dính luôn. Như vậy tổng cộng sáu bộ phận đều dính nhựa hết. Gã thợ săn chỉ cần tới lượm con khỉ bỏ vô giỏ là xong.

Phật nói: “Cũng vậy, nếu người nào sáu căn dính với sáu trần, cũng như con khỉ kia để sáu bộ phận dính với nhựa, người đó sẽ bị ma vương dẫn đi dễ dàng, không nghi ngờ”. Như vậy Phật dạy chúng ta tu như thế nào? Là giữ sáu căn đừng cho dính mắc với sáu trần. Đây là một lẽ thật chứ không phải tưởng tượng. Đó là tôi đã dẫn trong kinh A Hàm.

Đến kinh Kim Cang, Lục Tổ ngộ được từ câu: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm; ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, tức là không dính mắc vào các trần mà sanh tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề là tâm thanh tịnh, không dính mắc thì tâm Bồ đề hiện tiền. Còn dấy niệm là tâm sanh diệt. Sau khi ngộ rồi, Lục Tổ thốt lên: “Đâu ngờ tâm mình xưa nay thanh tịnh!. Vì thanh tịnh nên không sanh diệt, còn loạn tưởng là tâm sanh diệt. Ngay đó Ngũ Tổ truyền tâm ấn và trao y bát cho ngài.

Sự tu chẳng có gì lạ hết. Phật Tổ không hai đường, chỉ vì phương tiện truyền bá khác nhau thôi. Thấy như vậy, hiểu như vậy, chúng ta mới nhận ra việc tu không phải chuyện quanh co, khó khăn, mà trái lại rất đơn giản. Ngài Lâm Tế nói: “Đâu ngờ Phật pháp của Hoàng Bá rất ít”, nghĩa là rất đơn giản. Cho nên trọng tâm của việc tu là nghe và hiểu được ý Phật dạy, rồi ứng dụng thực hành. Đó mới là người biết tu.

Thơ Thiền Thích Nhất Hạnh
CẦU HIỂU, CẦU THƯƠNG
Thích Nhất Hạnh (Sư Ông Làng Mai)


Lắng lòng nghe tiếng gọi quê hương
Sông núi trông ra đẹp lạ thường
Về tới quê xưa tìm gốc cũ
Qua rồi cầu Hiểu, tới cầu Thương.

Tôi (Hoàng Kim:) nghe nói ‘ đạo Phật dấn thân’ “Có một đạọ Phật như thế” (lời Bùi Tín) với Làng Mai của thiền sư Thích Nhất Hạnh có những điểm dị biệt nên chính quyền hai phía xưa và nay chưa thực lòng ủng hộ. Tôi không chấp nhân Bùi Tín và các vị mưu toan ‘li tâm’ xa rời đường sống của dân tộc, nhưng dẫu vậy sự thực hành các thức chánh niệm: ”Từng bước chân thảnh thơi”, ”An lạc ngay lúc này”, ”Vui với từng hơi thở”, ”Bụt ở ngay trong ta” “Thơ thiền Thích Nhất Hạnh” là những tuyệt phẩm Phật học thật đáng đọc lại và suy ngẫm.

Biển Hồ Chùa Bửu Minh

VỀ TRONG TỊCH LẶNG
Thích Giác Tâm

Ta rất muốn đi về trong tịch lặng.
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Lòng thao thức Đạo Đời luôn vướng nặng
Mũ ni che tai, tâm lại hóa bình yên.

Đời chộn rộn sao còn theo chộn rộn?
Đạo hưng suy ta mất ngủ bao lần.
Đời giả huyễn thịnh suy luôn bề bộn.
Đạo mất còn ta cứ mãi trầm ngâm.

Vai này gánh cho vai kia nhẹ bớt .
Tìm tri âm ta nặng bước âm thầm.
Sợi tóc bạc trên đầu còn non nớt.
Tháng năm nào ta thấy lại nguồn tâm?

ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
Hoàng Kim

cảm ơn bài viết hay TẢN MẠN CÀ PHÊ PHỐ NÚI của Thượng tọa Thích Giác Tâm, xin phép được chia sẻ, bảo tồn và phát triển: Ảnh đẹp thanh khiết sang trọng, lãng đãng giữa tối sáng ban mai Biển Hồ. Văn chương tiếng nhạc trong lành, ngân nga trong đất trời bình minh Phố Núi. Thật hạnh phúc, an nhiên, thư thái. Ta về còn trọn niềm tin . xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/doi-thoai-voi-thien-su/

Chua Buu Minh
27 tháng 4 năm 2020 :lúc 11: 17 ·

TẢN MẠN CÀ PHÊ PHỐ NÚI.
Thích Giác Tâm

Trong tâm thức của mỗi người đều có một quê hương riêng. Có người coi trái đất là quê hương mình, có người coi Tổ Quốc mình là quê hương mình, có nguời coi Tỉnh mình là quê hương mình, có người coi nơi mình chôn nhau rốn là quê hương mình. Tâm tôi không to rộng, nên tôi chỉ coi phố núi Pleiku là quê hương mình. Quê hương với bao ân tình kỷ niệm, ngồi bên tách cà phê, nhắm mắt lại là từng con người, dãy phố, con đường ở Pleiku hiện ra.

Nhắc đến cà phê, chúng ta vô cùng cảm ơn, nhớ ơn Đức Phật, hai ngàn sáu trăm năm trước Ngài đã không cấm đệ tử mình uống cà phê, Ngài chỉ cấm uống rượu và các thức uống gây say khác. Bởi Thầy mình không cấm, nên ngày hôm nay các Tăng sĩ phật giáo ngồi nhâm nhi ly cà phê công khai, chứ nếu Phật cấm thì không công khai được đâu, chỉ tìm cách uống lén thôi.

Diện tích trồng cà phê ở Pleiku – Gia Lai chỉ thua Đắc Lắc – Buôn Mê Thuột, và có lẽ cà phê ở Pleiku không ngon bằng cà phê Ban Mê Thuột, có thể do chất đất, có thể do cách sao tẩm, chế biến chưa đạt đến đỉnh cao. Cả nước khi nhắc đến cà phê là liên tưởng đến Ban Mê Thuột, ít khi liên tưởng đến Pleiku. Bởi các doanh nghiệp trồng cà phê, chế biến cà phê Pleiku – Gia Lai chưa có dịp cùng với các vị lãnh đạo, văn nghệ sĩ, dân ghiền cà phê tỉnh nhà ngồi lại với nhau, cùng uống cà phê, cùng trao đổi, cùng thổi hồn, thổi nghệ thuật, thổi triết lý nhân sinh vào cho từng giọt cà phê, để cà phê trở thành một thứ Đạo, như Trà Đạo, tại sao ta không biến thú vui tao nhã là uống cà phê, thành cà phê Đạo.

Ừ cũng vui lắm chứ, cũng thú vị lắm chứ !

Ngày xưa khi đất nước chưa công nghiệp hoá, chưa hiện đại hoá, con người tiêu thụ ít hơn, có nhiều thời gian hơn ta cùng với bạn lành ngồi bên tách cà phê phin, trong một buổi sáng sương mù lãng đãng trong một quán cà phê vỉa hè, vừa uống vừa nghe nhạc Trịnh với chiếc máy đĩa to đùng, nhìn mọi người lướt qua nhẹ nhàng, không vội vã không hấp tấp, do vậy ta cũng bình tĩnh hơn để nhắp ly cà phê, tương tác mà. Đức Phật dạy: ” Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt”. Thiên hạ mà vội vội vàng vàng thì ta cũng vội vội vàng vàng theo, chế một ly cà phê tốc hành uống vội rồi đi, đi như bị ma đuổi, đi mà không biết mình đi về đâu.

Bên tách cà phê buổi sáng, sương mù giăng giăng khép nẻo, cùng với tiếng vó ngựa lốc cốc trên mặt đường, đường trồng nhiều cây thông, ta nghe lòng thanh thản, thư giản. Nhìn từng giọt cà phê rơi ! rơi ! nhè nhẹ rơi ! Ta thấy như giọt thời gian rơi vào hư vô, nhắc ta phải làm gì, biết mình phải làm sao trong cuộc đời này. Mình từ đâu đến và chết rồi sẽ đi về đâu. Không có cái gì bỗng dưng mà có, không có cái gì bỗng dưng mà không, tất cả là nhân duyên trùng điệp. Giọt cà phê này từ đâu mà có, uống vô bụng rồi thì đi về đâu. Có thiệt là uống vô bụng rồi thì mất hẳn ? Khi buồn ta uống cà phê để suy gẫm, suy gẫm vì sao đời mình lao đao lận đận, vì sao cuộc tình nào đến với mình rồi cũng vỗ cánh bay, vì sao mình cứ chối bỏ quê hương, vì sao tháng năm biền biệt chưa về thăm cha già mẹ yếu, em thơ….. Khi vui ta uống cà phê và ta nhận diện ra rằng không có gì hạnh phúc bằng giây phút hiện tại, ta an lạc với giây phút này, bởi ta không biết trân quý giây phút này, thì biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao.

Tôi không ghiền cà phê, nhưng tôi có uống, bởi có thói quen suy tưởng nên ghi lại đây vài dòng tâm tư tản mạn, để tặng mình và tặng thân hữu gần xa.

Pleiku, ngày xuân

Thích Giác Tâm

MẪU PHƯƠNG NAM TAO ĐÀN
Hoàng Kim


Mẫu Phương Nam Tao Đàn
Một vùng thiêng cổ tích
Bạn và tôi dạo chơi
Chuyện thú vui tao nhã

Thoáng chốc là trăm năm
Đời người như giếng Ngọc
Nước mát lọc an lành
Đất dưỡng vòm cây xanh.

Vui đi dưới mặt trời
Nghe vườn cây trò chuyện
Gió mát và bạn hiền
Lặng thinh lời trìu mến.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/doi-thoai-voi-thien-su/

NGÔI ĐỀN THIÊNG VĂN CHƯƠNG
Hoàng Kim

Tuổi thơ đọc Kiều, tôi thích nhất hai câu: “Cỏ non xanh rợn chân trời./ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Lớn lên, lời thơ ám ảnh là mối tình của Thuý Kiều và Từ Hải “Trai anh hùng, gái thuyền quyên. Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”. Sau này khi qua trãi nghiệm, tôi tâm đắc nhất  với hai câu kết: “Thiện căn ở tại lòng ta. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Đến nay  thì từ việc thích hai câu kết tài hoa trên, lan tỏa ra thích một chùm câu thơ tài hoa liên vận tóm tắt rất hay cốt truyện Kim Vân Kiều:

“Nguyên người quanh quất đâu xa. Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh. Nền phú hậu bậc tài danh. Văn chương nết đất thông minh tính trời. Phong lưu tài mạo tuyệt vời Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”… ” Vân xem trang trọng khác vời. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mặn mà. So bề tài sắc lại là phần hơn. Làn thu thủy nét xuân sơn. Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”… “Một nhà phúc lộc gồm hai. Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần. Thừa gia chẳng hết nàng Vân Một cây cù mộc, một sân quế hòe. Phong lưu phú quý ai bì. Vườn xuân một cửa để bia muôn đời”… “Đã mang lấy nghiệp vào thân. Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Người tu dưỡng chí thiện tâm sáng mặt hiền là phúc tướng.

Thơ Nguyễn Du lung linh, huyền ảo, đã có biết bao lời bình suốt từ xưa đến nay. Gần đây, có những lời bình rất hay của Nguyễn Thế Quang (Nguyễn Du, Tiểu thuyết lịch sử, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, Công ty TNHH Sách Phương Nam phát hành năm 2010, 416 trang) càng thông tỏ hơn sự hiền tài của một nhà văn hoá lớn. Những bài viết khác đó là bài viết của nhà giáo Nguyễn Đình Chú “Nhà văn Đặng Thai Mai chọn câu Kiều hay nhất” mà tôi đã chép lại tại Nguyễn Du và những câu thơ tài hoa (1) và bài viết của Cảnh Chương Trao đổi về “nét ngài” của Thúy Vân trong Truyện Kiều  (GDVN) với lời bình chi tiết “tướng tại tâm sinh, tướng tùy tâm tính’ tại Giếng Ngọc Tao Đàn (3) càng sáng tỏ thêm cái hay của ngôn ngữ văn chương Nguyễn Du danh sĩ tinh hoa. Cám ơn nhà giáo Cảnh Chương  và các trao đổi của  Pine Le Xuan Đính, Mai Trúc Nguyễn ThịHoang To Nguyen đã giúp tôi viết ghi chú này. Cảnh Chương là nhà giáo, nhà ngôn ngữ học tiếng Việt đã nhận định trong bài  Trao đổi về “nét ngài” của Thúy Vân trong Truyện Kiều  (GDVN) rằng: Chúng ta đều có cơ sở để khẳng định cách miêu tả “nét ngài” là hình ảnh “nét mày ngài” của nàng Vân hơn là nét người, dáng người của nhân vật này. Trang giaoduc.net.vn đã đăng tải nhiều thông tin đa chiều liên quan đến trao đổi này như Vẻ đẹp Thuý Vân và những ngộ nhậnThúy Vân “mày rậm” hay thân hình nở nang?; Ông lang Hiệu cao chọi với kho Truyện Kiều cổ nhất đất Kinh Bắc.   TS Lê Xuân Đính (Pine Le Xuan) là một nhà giáo khoa học nghề nông chuộng văn chương thích văn phong khoa học lời văn chuẩn mực đã cho rằng “nét ngài” thực chất là câu phương ngữ tiếng Nghệ đồng nghĩa với “nét người” . Điều đó có nghĩa là “khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” nên hiểu là  “khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang”. TS Lê Xuân Đính viết: “Trong bài này Cảnh Chương phân tích rất nhiều, đưa ra rất nhiều dẫn chứng về việc dùng chữ “người” và “ngài” của Nguyễn Du, nhưng có sự nhầm lẫn rất cơ bản. Người Hà Tĩnh (thậm chí cả Nghệ An và Quảng Bình) đều dùng cả hai từ này, nhưng từ “người” là để chỉ người này, người nọ, còn từ ngài chủ yếu dùng chỉ thân xác con người, hay là đối tượng là thân hình người. Chính vì vậy mà dù có rất nhiều từ người trong truyện Kiều nhưng không thể chuyển sang từ ngài được. Còn trong câu thơ kia (nét ngài nở nang) là nói đến thân hình của Vân chứ không phải mục đích chỉ người này người nọ. Tác giả bài này đã quên rằng – quạ đen, chứ không phải đen là quạ! Và . tương tự – mày ngài, chứ không phải ngài là mày. Con nữa, tả lông mày mà dùng từ “nở nang” thì không ai công nhận ông là đại thi hào.”  

Tôi trao đổi của anh Pine Le Xuan “phản biện của anh là ý hay nhưng mình cho rằng đây là câu thơ tài hoa của Nguyễn Du như lời mình đã bình thơ với Mai Trúc Nguyễn ThịHoang To Nguyen. Câu thơ  tài hoa “khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang” của Nguyễn Du đã dụng công dùng chữ ‘nét ngài’, để lại một câu thơ ẩn ngữ cho hậu thế.  Câu thơ tài hoa này làm nhẹ đi sự phán xét nghiêm ngặt của triều đại nhà Nguyễn đối với Nguyễn Du và họ Nguyễn Tiên Điền “Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa. Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Bán mình trong bấy nhiêu năm. Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai” thông qua bài thơ ‘Vịnh Thúy Kiều’ sự phán xét của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ là người bạn, người đồng hương của Nguyễn Du đã được trích dẫn ở bài Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Du 250 năm nhìn lại; Nguyễn Công Trứ và ‘Vịnh Thúy Kiều’.  Kim Vân Kiều cũng lọt qua sự “hiệu đính” “kiểm duyệt” ngặt nghèo sau này của vua Tự Đức ‘nổi tiếng ông vua sinh chữ’  trong bản Kinh của Truyện Kiều đã không hề sửa “nét ngài’ thành ‘nét người” theo như cách hiểu của anh  Đính. Và, Truyện Thúy Kiều bản của Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ hiệu đính và giới thiệu dựa trên bản khắc in gần gũi nhất với Truyện Kiều bản phường cũng giữ là ‘nét ngài’ mà không phải là “nét người”

“Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang” vì sao là câu thơ tài hoa? “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” là khuôn mặt đầy đặn phúc hậu, mắt đẹp hiền hòa có “nét ngài” lông mày thanh tú, dài che trọn mắt (mi thanh mục tú, mày ngài). Hai đặc điểm này cùng với ẩn tướng “Hơi thở êm ái khi ngủ nhẹ tựa như rùa thở (quy tức). Đó là ba nét đặc biệt quý tướng, đoan chính, phúc hậu, của người nữ trong nhân tướng học rất được xem trọng. Thúy Vân có nét đẹp “trang trọng”, “đoan trang”, “phúc hậu”. “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” “hoa cười ngọc thốt đoan trang” Với quý tướng phúc hậu này, Thúy Vân trong nhân tướng học được coi là người rất chuộng cuộc sống hạnh phúc, chí thiện “đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con” “Một cây cù mộc, một sân quế hòe”. Người có tướng đoan trang phúc hậu thì tốt hơn nhiều so với người có tướng sắc sảo,  vượt trội  người khác “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Phúc hậu hơn thì phước lộc hơn  ‘có tài mà cậy chi tài/ chữ tài kia với chữ tai một vần’ ‘chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài’ .

“Tướng tại tâm sinh, tướng tùy tâm tính” minh triết  phương Đông chi rõ: Nhân cách thể hiện qua “tướng mạo” con người.  Một người luôn an hòa vui vẻ, lòng tràn đầy ý nghĩ tích cực thì hoàn cảnh chuyển biến thành tốt. Trái lại, nếu một người mà trong lòng luôn chứa đựng ý nghĩ tiêu cực thì hoàn cảnh xung quanh của người ấy cũng trở nên không tốt, rất nhiều mâu thuẫn sẽ nối gót nhau mà đến. Tướng tại tâm sinh là vậy. Một người tướng mạo đoan trang, lời nói và việc làm trung hậu, chính trực, không đơn thuần là dung mạo bên ngoài đẹp mà phản ảnh trực tiếp đến từ tâm tính tốt. Bảo trì thường xuyên một tâm tính tốt là phương pháp làm đẹp và thu phục lòng người hữu hiệu nhất. Một người thường xuyên vui vẻ thì nét mặt dễ chịu ôn hòa dẫu không xinh đẹp cũng rất ưa nhìn. Sức khỏe thân thể của một người thể hiện qua tướng mạo cũng là thể hiện nhân cách tâm tính của con người đó. Tướng tùy tâm tính là vậy.

Bốn phương pháp cổ điển để thầy thuốc thăm khám bệnh (Tứ chẩn) là nhìn (Vọng), nghe (Văn), Hỏi (Vấn), sờ (Thiết). Trong đó, nhìn thần sắc đứng đầu trong “Tứ chẩn” rất quan trọng trong chẩn đoán bệnh. Người mà ‘mi thanh mục tú, nét ngài nở nang’ mi dài quá mục và mi thanh mục tú nở nang đầy đặn thì người khỏe không bệnh, tâm tính tốt.  Câu thơ tài hoa này thật khéo, ‘ý tại ngôn ngoại’ có sức gợi mở sâu, chứ không là câu thơ ép vần “ngài” và “người” theo phương ngữ xứ Nghệ thông thường.

Nguyễn Du những câu thơ tài hoa có câu “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” là dụng công và có chủ ý.  Hồ Chí Minh sau này viết về Lý Công Uẩn, Nguyễn Huệ cũng có hai câu thơ ẩn ngữ tỏ ý như vậy. Trong bài ‘Lịch sử nước ta’ Hồ Chí Minh đã dùng chữ “Công Uẩn là kẻ phi thường” (Hồ Chí Minh tuyển tập, 1 (1919-1945, NXB CTQG, Hà Nội 2002, trang 596) “Nguyễn Huệ là kẻ phi thường” (Sách đã dẫn, trang 598). Hồ Chí Minh là bậc thầy văn chương. Câu thơ trên sử dụng hai làn cố nhiên là dụng công và có chủ ý.

Văn là đẹp, chương là sáng. Ngôn ngữ đẹp và sáng mới là văn hay; thơ thấm thía xúc động đọc  tự dưng thuộc mới thật sự là thơ hay. Nguyễn Trãi viết: ‘Chữ học ngày xưa quên hết dạng. Chẳng quên có một chữ cương thường’. Đối với Trần Đăng Khoa ‘thơ hay là thơ giản dị, xúc động, ám ảnh’. (Giếng Ngọc Vườn Tao Đàn, bài viết Hoàng Kim và ảnh của Hoàng Tố Nguyên).

Hoàng Kim

Tài liệu dẫn

(1) Giáo sư Nguyễn Đình Chú có câu chuyện “Nhà Văn Đặng Thai Mai chọn câu Kiều hay nhất” đăng trên trang Giáo sư Trần Hữu Dũng viet-studies 1-3- 2011 được trích dẫn toàn văn tại trang DẠY VÀ HỌC 13.3.2011 của TS. Hoàng Kim trong bài “Nguyễn Du và những câu thơ tài hoa

NHÀ VĂN ĐẶNG THAI MAI
CHỌN CÂU “KIỀU” HAY NHẤT

Nguyễn Đình Chú

Hè 1958, vì là trợ lý của giáo sư Đặng Thai Mai tại Khoa Văn chung của hai trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Tổng hợp Hà Nội, tôi được giao nhiệm vụ tháp tùng “ông cụ” đi nghỉ mát ở Sầm Sơn (Thanh Hóa). Trong thời gian sống cạnh Thầy, qua những chuyện đàm đạo tôi học được nhiều điều bổ ích, quý báu. Hôm đó, trong không khí thầy trò thân mật như cha con, tôi hỏi thầy:

–         Dạ! theo thầy, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, câu thơ nào hay nhất? Ông cụ nhếch mép cười – vẫn cái cười hóm nhẹ, đôn hậu, thâm thúy rất Đặng Thai Mai – trả lời ngay:

–         Câu ấy, chứ còn câu nào.

–         Dạ câu nào ạ?

–         Câu Nguyễn Du tả cơ thể Thúy Kiều:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên
Tôi hỏi: Dạ! đây là thầy nói với em giữa bãi biển Sầm Sơn lộng gió ban chiều, chứ về giảng đường đại học, thầy có nói như vậy không ạ, với mọi người sinh viên? Thầy tôi đã nghiêm mặt lại, nói với một giọng cương quyết có pha chút gay gắt: sao lại không? Tôi hơi sợ và không dám thả giọng bông lơn gì thêm. Câu chuyện đó xảy ra cách đây 34 năm. Và sau đó, trong quan hệ thầy trò đã bao phen gần gũi, cho đến ngày thầy qua đời, tôi cũng không bao giờ trở lại trò chuyện với thầy về hai câu thơ Kiều hay nhất này nữa. Nhưng trong lòng thì vẫn vương vấn, vẫn nhiều lần suy nghĩ về cách chọn của người thầy, nhà văn, vị học giả- mà trí thức Việt Nam, dù theo chính kiến nào cũng kính nể này.

Hẳn là từ lâu, đến với Truyện Kiều, người Việt Nam vẫn có thú chơi, thi nhau chọn và giải thích câu Kiều nào hay nhất (chứ không phải hay duy nhất). Và dĩ nhiên là đã có nhiều cách chọn. Không ít người đã chọn 2 câu:

Dưới câu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Hai câu thơ này hay là ở giá trị tâm lý đi đôi với giá trị tạo cảnh và tạo hình là để tạo tình. Nguyễn Du viết hai câu thơ này là nhằm gói lại cái chuyện Kim Kiều vừa gặp nhau buổi đầu đã chớm nở một mối tình trong sáng tuyệt trần. Có điều, đây đang là “tình trong”, chưa phải “tình ngoài”: “Tình trong như đã mặt ngoài còn e” đó mà nói ra là Kim Kiều đã yêu nhau thì quả là tồ, chẳng tế nhị gì. Nguyễn Du thiên tài – mà ở ông, trước hết là có một khả năng vào bậc thánh trong việc nhận thức và phản ánh tâm lý con người trong sáng tạo nghệ thuật, sẽ không bao giờ, dù là một lần, sa vào sự thô thiển đó. Ông đã gói chuyện lại bằng hai câu thơ tả cảnh mà riêng hình thức tả cảnh này đã là một sự thích ứng không thể nào hơn với trạng thái “tình trong” kia. Nguyễn Du đã lấy cái kín, để nói cái kín, nhưng đâu phải kín bưng, kín mít để không ai hiểu ra chuyện gì trong đó nữa? Với Nguyễn Du, trong trường hợp này, kín mà vẫn hở. Thế mới thành chuyện. Trong hai câu thơ tả cảnh này, cái độ “trong veo” của giòng “nước chảy” dưới cầu kia là gì? Những cành liễu bên cầu có lá dài, mềm như tơ rủ xuống, bóng liễu ban chiều ngả dài hòa quyện với giòng nước “trong veo” xuôi chảy, chập chờn “thướt tha” và không đứt kia là gì? Từ đâu ra ? Nếu không phải là từ cái “tình trong như đã mặt ngoài còn e” trong sáng tuyệt trần đó.

Nói hai câu Kiều này là hay nhất, rất đúng. Nhưng không ít người còn chọn hai câu  này:

Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Hai câu thơ thật là đơn giản. Tưởng như ai cũng làm được.Ấy nhưng hoàn toàn không. Phụ nữ, đàn bà Việt Nam khổ, tự đời nảo đời nào, nhưng văn chương Việt Nam trước Nguyễn Du đã nói gi được nỗi “đau đớn” đó? – Có. Văn học dân gian đã nói nhiều, nhưng thiếu độ khái quát. Riêng văn học viết, văn học bác học thì đến trước thời  Nguyễn Du một ít và cùng thời Nguyễn Du mới cất tiếng được, nhưng cũng chưa ai nói đến độ là quy luật là “lời chung” , là cái “phận” đàn bà “đau đớn thay” này. Mà Nguyễn Du đâu chỉ nói về cái “bạc mệnh” của cái phận đàn bà Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Mộng Liên Đường chẳng đã nhận xét rất đúng: Nguyễn Du có con mắt trông thấu sáu cõi, có tấm lòng nghĩ tới muôn đời” đó sao. Trên trái đất này, ở đâu và lúc nào, với quá khứ đã đành, còn với hiện tại và tương lai, chả lẽ tiếng kêu xé lòng của Nguyễn Du trong hai câu thơ này đã thôi không cần thiết? Nói hai câu Kiều này là hay nhất, cũng rất đúng.

Nhưng hãy trở lại với hai câu Kiều mà học giả Đặng Thai Mai đã chọn. Phải nói ngay, đây là một hình tượng khỏa thân không có trong Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm tài nhân – Trung Quốc và là độc nhất vô nhị trong lịch sử văn chương Trung đại Việt Nam. Đến hôm nay, dù văn chương Việt Nam đã bắt đầu không né tránh cái thứ của “cấm” ấy nữa nhưng tôi vẫn có thể tin chắc mà nói rằng: chưa một ái xứng đáng là học trò của Nguyễn Du trong chuyện này. Con người trong đó bao gồm hai giống đực và cái, là một thực thể tự nhiên trước khi là một thực thể xã hội và vẫn là thực thể tự nhiên trong khi đã trở thành thực thể xã hội. Trong muôn vàn thực thể tự nhiên, con người là thực thể đẹp nhất, vô song. Đó là chân lý tuyệt đối. Nhưng nhân loại không phải ở đâu lúc nào cũng dễ phát hiện được chân lý đó, kể cả hôm nay. Không tính đến tín ngưỡng thờ Linga, thờ sinh thực khí có mặt từ thời cổ tại một số nước, thì có thể nói là phương Tây đặc biệt là thời đại Phục hưng, đã đi trước nhân loại trong việc phát hiện, nhận thức chân lý này. Chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng ở phương Tây, từ chỗ thoát ra khỏi tư tưởng thần quyền của thời trung cổ cho rằng chúa sáng tạo ra muôn loài (trong đó có loài người) đã đi đến ý tưởng cao đẹp: Con người trước hết là con người tự nhiên, con người chưa cần mặc quần áo-là trung tâm của vũ trụ. Một hệ thống quan điểm triết học mang tính nhân văn cao đẹp đã được hình thành, phát triển từ ý tưởng cốt lõi đó. Một thời đại văn minh huy hoàng thông qua vai trò sáng tạo của nhiều thiên tài “khổng lồ”của thời đại Phục hưng trên các lĩnh vực văn hóa, khoa học, nghệ thuật…là sản phẩm thực tiễn của nền triết học nhân văn vĩ đại đó. Nói riêng , trong nghệ thuật (đặc biệt là điêu khắc, hội họa), nghệ thuật khỏa thân phát triển và đã để lại nhiều thành tựu kiệt xuất có giá trị vĩnh hằng đối với nhân loại, cũng là nhờ có sự phát hiện chân lý trên về con người tự nhiên. Cũng cần nói thêm, ở đây không chỉ có sự cao cả, sự thăng hoa, mà còn có sự đê hèn, thú vật. Tất nhiên, đã là đê hèn, thú vật thì chẳng còn gì là nghệ thuật mặc dù vẫn có từ nghệ thuật kiêu dâm, đáng phỉ nhổ.

Ở Việt Nam ta, trong suốt thời trung đại, với hoàn cảnh chế độ phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, với sự chi phối nặng nề của đạo Nho, kể cả đạo Phật, con người tự nhiên (cũng như con người cá thể: L’ individu), theo quan niệm nhân văn cao đẹp như trên, có thể nói là chưa được phát hiện. Ít ra, trong phạm vi văn học là như vậy. Dù đã có một truyện cổ tích Chử Đồng Tử trong đó có cuộc gặp gỡ kỳ thú của hai con người tự nhiên, một đực một cái, Chử Đồng Tử và Tiên Dung mà thực ra chưa được hình tượng hóa. Dù đã có một bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày” của bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương, thật là táo bạo nhưng vẫn dừng lại ở mức độ hớ hênh, vô ý, vừa đủ khêu gợi sự thèm thuồng của các bậc “quân tử” đạo đức giả mà thôi. Tất cả, có lẽ chỉ có thế. Cho nên mới nói Nguyễn Du là người tạo ra bức tranh khỏa thân phụ nữ độc nhất vô nhị trong lịch sử văn học thời trung đại ở Việt Nam. Nhưng điều quan trọng đáng nói hơn là Nguyễn Du đã vẽ lên hình tượng khỏa thân đó với tất cả sự trong sáng tuyệt vời mà quan niệm nhân văn cao cả, đòi hỏi. Nhìn vào thủ pháp văn chương của Nguyễn Du sẽ thấy rõ điều đó.  Nếu với hai câu “Dưới cầu nước chảy trong veo; Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”, Nguyễn Du đã dùng thủ pháp kín nhưng hở , thì ở hai câu thơ vẽ tranh khỏa thân nàng Kiều này ông làm ngược lại, hở nhưng kín. Ông nói “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà; Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”, nghĩa là cơ thể nàng đẹp tuyệt trần, đẹp đến mê người như thế nhưng nào nó là cái gì cụ thể đố ai biết. Nguyễn Du nói “rõ ràng” mà chẳng rõ ràng gì. Hai chữ “rõ ràng” của Nguyễn Du cứ như là một sự đánh lừa người đọc, nhưng là sự đánh lừa hóm hỉnh, dễ thương, mà xét cho cùng chính là chuyện ông tự giữ cho mình mà cũng là giữ cho người đọc, ở sự trong sáng của tâm hồn. Khi đến với bức tượng khỏa thân này, người đọc cứ tha hồ mà tưởng tượng, tự hình dung, tự chiêm ngưỡng. Thế là đủ. Không nên khác nữa. Và đến đây thì có thể nói thêm thế này được chăng? Tung ra một bức tượng khỏa thân của Thúy Kiều như trên vừa nói, quả là Nguyễn Du như ném một trái bom nguyên tử vào thành trì ý thức hệ phong kiến vốn là kiên cố trong lịch sử Việt Nam thời trung đại (mà đâu chỉ Việt Nam). Nếu đúng vậy thì cách chọn hai câu Kiều của sư phụ tôi: nhà văn-học giả Đặng Thai Mai, không chỉ là đúng mà còn là cao siêu. Xin được nhắc lại: đây là chuyện đã xảy ra vào mùa hè 1958, cách đây 34 năm mà mọi người biết, bấy giờ trên sách báo Mác xít, trong các giảng đường đại học tại Hà Nội, cũng như ngoài xã hội, người ta quan niệm như thế nào về cái thứ “của cấm” này. Tôi chỉ tiếc là hôm nay sư phụ (thầy cũng như cha) của tôi đã không còn nữa ở thế giới này để lại chỉ bảo, chấm bài viết này cho tôi như thuở nào, vẫn chấm bài, vẫn chỉ bảo lúc tôi là học trò, là trợ lý của thầy. Tôi xin bù lại sự mất mát đó bằng cách nhờ bạn đọc xét, thẩm định cho vậy./.
Cuối thu 1992
Nguồn: viet-studies 1-3- 2011

(2) Nhà ngôn ngữ học tiếng Việt cũng là nhà giáo Cảnh Chương trong bài Trao đổi về “nét ngài” của Thúy Vân trong Truyện Kiều đã tiếp tục mạch trao đổi về cách hiểu sự mô tả của Nguyễn Du về hình dáng nhân vật Thúy Vân. Trước đó nhiều tác giả cũng đã có loạt bài của bình về Truyện Kiều như Vẻ đẹp Thuý Vân và những ngộ nhậnThúy Vân “mày rậm” hay thân hình nở nang?; Ông lang Hiệu cao chọi với kho Truyện Kiều cổ nhất đất Kinh Bắc. Các thông tin này đăng trên trang Giáo Dục Việt Nam và được trích dẫn tại trang TÌNH YÊU CUỘC SỐNG 16.12.2012 của TS. Hoàng Kim trong bài “Nguyễn Du những câu thơ tài hoaTRAO ĐỔI VỀ NÉT NGÀI THÚY VÂN TRONG TRUYỆN KIỀU

Cảnh Chương

Trên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 22/01/2015 có bài viết của tác giả Huy Thư: Thúy Vân mày rậm hay thân hình nở nang?, bài viết khiến tôi nhớ lại cuộc tranh luận cũng về nội dung này cách đây hơn 10 năm (vào tháng 9/2003) trên một tờ báo giấy,… Khi đó tôi đang còn là sinh viên và rồi câu chuyện cũng lùi dần, bây giờ đọc bài viết của tác giả Huy Thư cảm thấy thú vị; trong thời điểm hiện tại có điều kiện tìm hiểu kỹ hơn, tôi xin được chia sẻ một vài ý kiến với tác giả và độc giả như sau:

Về phương diện chữ

Trong các bản Truyện Kiều đều phân biệt rõ chữ “ngài” có bộ “trùng” (虫):chỉ “con ngài” với chữ “người” có bộ “nhân đứng”(人)chỉ người. Trong Truyện Kiều có hơn 200 từ “người” (chính xác là 225 chữ – Trừ bản Kinh thời Tự Đức 1870 chép câu 20 là “Khuôn lưng đầy đặn, nét người nở nang”) đều viết có bộ “nhân” và có 5 chữ “ngài” đều có bộ “trùng” để chỉ “mày ngài” (ở các câu: 20, 927, 1213, 2167, 2274), xuất phát từ chữ “nga my” (蛾眉): “Nghĩa là râu của con ngài, chỉ lông mày của người con gái đẹp, cong vút và dài như râu con ngài ( đôi khi chỉ cả lông mày đàn ông ): “Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ, sắp song song đôi lứa nhân duyên” (Cung oán ngâm khúc ). “Đa tình chi mấy bạn nga my” ( Nguyễn Công Trứ )”. (Xin xem Hán Việt từ điển: Thivien.net).

Toàn bộ “Truyện Kiều” có 05 chữ “ngài”. Chữ “ngài” ở câu 20 nói về Thúy Vân như ta đã biết; chữ “ngài” ở câu 927 để chỉ các cô gái lầu xanh khi Kiều bị họ Mã đưa đến lầu xanh và thấy: “Bên thì mấy ả mày ngài/ Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi”; chữ “ngài” ở câu 1213 để chỉ Tú Bà dạy Kiều về làm nghề “Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” để thu hút khách, luyện tập thể hiện ánh mắt, nét mày: khi mắt liếc, khi mày đưa: “Khi khóe hạnh, khi nét ngài/ Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa”; chữ “ngài” ở câu 2167 để miêu tả lông mày Từ Hải: “Râu hùm, hàm én, mày ngài”; và chữ “ngài” cuối cùng trong Truyện Kiều ở câu 2274 cũng nói về Từ Hải: sau khi “nửa năm hương lửa đương nồng” phải chia tay Kiều vì “Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”, Từ Hải với “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” ra trận, thắng trận và trở về đón rước Kiều, Kiều nhận ra Từ vẫn như xưa với: “Rỡ mình, là vẻ cân đai/ Hãy còn hàm én, mày ngài như xưa”.

Thúy Vân “mày rậm” hay thân hình nở nang?
(GDVN) – Một câu thơ 6 chữ của đại thi

Như vậy trong hệ thống từ dùng của Truyện Kiều, chữ “ngài” đều có bộ “trùng” và thống nhất để chỉ lông mày. Việc hiểu chữ “nét ngài” để chỉ dáng người theo cách phát âm của tiếng Nghệ là khó có khả năng xảy ra. 05 chữ “ngài” trong Truyện Kiều đã thống nhất một ý khẳng định rõ điều đó. Vì khi viết chữ Nôm khác với viết chữ quốc ngữ như chúng ta đang dùng, có sự phân biệt bộ rõ ràng. Hơn nữa đặt giả thiết: trong hơn 200 chữ “người” trong Truyện Kiều có những lúc tác giả có thể chuyển là “ngài” để vừa hợp gieo vần vừa biểu ý nhưng nhà thơ đã không viết như vậy. Những câu như:

 …Chung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.”

“… Nàng rằng: Muôn sự ơn người,
Thế nào xin quyết một bài cho xong. “

-“… Khi về hỏi liễu Chương-đài,”
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay!”

-“…Chiến hòa sắp sẵn hai bài,
Cậy tay thầy thợ mượn người dò la.”

-“…Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.”

-“… Thuê năm ngư phủ hai người,
Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông.”

-“…Trông lên linh vị chữ bài,
Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?”

-“… Hai em phương trưởng hòa hai,
Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa! “

Đều có thể chuyển chữ “người” thành chữ “ngài” theo cách đọc của tiếng Nghệ để hợp vần, nhưng tác giả hoặc các bản Kiều đều không khắc in như thế (hiện nay vẫn chưa phát hiện bản gốc của tác giả). Thậm chí đặc biệt như câu:

Quây nhau lạy trước Phật đài,
Tái sinh trần tạ lòng người từ bi.”

Có thể chuyển đổi chữ “người” thành chữ “ngài” (theo cách phát âm tiếng Nghệ) vừa hợp vần vừa ý nghĩa: chữ “Ngài” sẽ thể hiện sự kính trọng đối với Phật. Nhưng tác giả vẫn viết là “người” mà không theo cách đọc của tiếng Nghệ. Và, một điểm cũng phải để ý rằng Nguyễn Du có quê gốc ở Nghệ Tĩnh nhưng ông sinh ra và lớn lên ở Thăng Long, rồi ở nhờ quê vợ Sơn Nam Hạ (Thái Bình), sau đó làm quan ở Quảng Bình, Huế…; tính ra thời gian ông ở Tiên Điền chỉ khoảng 7 năm trong cuộc đời 54 năm tài hoa đó.

Về bút pháp

Văn học trung đại thường dùng bút pháp ước lệ, tượng trưng. Nguyễn Du khi sáng tác cũng dùng hệ thống bút pháp đó. Các tác giả trung đại khi nói đến người quân tử thường so sánh với tùng, cúc, trúc; viết về người con gái đẹp thường dùng hình ảnh của “liễu yếu đào tơ”, là mai, là cúc (“Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai” – Truyện Kiều). Trong truyện thơ các nhà thơ phân làm hai hệ thống nhân vật: chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện thường được dùng thiên nhiên để ước lệ, miêu tả; nhân vật phản diện thường dùng hiện thực để miêu tả.

Bởi vậy khi Nguyễn Du miêu tả chị em Thúy Kiều, nhà thơ đã dùng: Mai ví với “cốt cách” của hai nàng, dùng “tuyết” ví với “tinh thần”, mây với “tóc”, tuyết với “màu da”. Khi miêu tả Kim Trọng, nhà thơ cũng dùng tự nhiên làm chuẩn mực: “Đề huề lưng túi gió trăng… Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời… Một vùng như thể cây quỳnh cành dao”. Trong khi đó, miêu tả những nhân vật như Mã Giám sinh, Nguyễn Du dùng những hình ảnh hiện thực trần trụi: “Quá niên trạc ngoại tứ tuần/ Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Đặc biệt nhà thơ miêu tả Tú Bà thể hiện rất rõ bản chất con người và nghề nghiệp của mụ: “Thoắt trông nhờn nhợt màu da/ Ăn chi to lớn đẫy đà làm sao”. Bởi vậy khi miêu tả Thúy Vân, Nguyễn Du không thể dùng “nét ngài” để chỉ dáng người nở nang đầy “hiện thực” của Thúy Vân được mà chỉ có thể là nét mày ngài.

Bút pháp ước lệ, tượng trưng này nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng dùng để miêu tả Nguyệt Nga và Kim Liên trong tác phẩm nổi tiếng “Lục Vân Tiên”: “Con ai vóc ngọc mình vàng/ Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng”. Và nhà thơ đất Đồng Nai cũng dùng “mày tằm” để miêu tả Lục Vân Tiên:

Liếc coi tướng mạo Vân Tiên,
Khá khen họ Lục phước hiền sinh con.
Mày tằm mắt phụng môi son,
Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.

(Còn khi nhà thơ miêu tả Bùi Kiệm – tên phản bạn, máu dê, ép duyên Nguyệt Nga thì rất thông tục: “Còn người Bùi Kiệm máu dê/ Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu…).

Qua cách miêu tả Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta đã có thể có thêm cơ sở để lý giải thêm về vấn đề giữa “nét ngài” của Thúy Vân và “mày ngài” của Từ Hải. Đó là vì các nhà thơ trung đại đã dùng bút pháp tượng trưng, chỉ chung cho lông mày của nam và nữ. Hơn nữa, ở đây có một sự thống nhất ở hai nhà thơ Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu, và chúng tôi mượn cách lí giải của nhà nghiên cứu Cao Xuân Hạo khi nói về “mày ngài” của Từ Hải: “…mày ngài, nếu hiểu theo cái nghĩa duy nhất có thể có của nó, chỉ hợp với giai nhân hay thư sinh chứ không hợp với Từ Hải. Vì đã là đấng anh hùng như Từ thì phải “hổ đầu, yến hạm, ngoạ tàm my” như Quan Vũ mới được. Nếu hiểu mày ngài theo nghĩa đúng của nó thì sẽ sai mất điển tích. Quả có vậy. Nhưng nếu vì một lý do nào đấy Nguyễn Du không muốn lấy trọn, mà chỉ muốn lọc lấy một phần thôi, thì sao? Nếu ông hình dung Từ Hải không giống như Quan Vũ, mà lại giống như… Từ Hải (của Thanh Tâm Tài Nhân chẳng hạn) thì sao?”.

Và nhà nghiên cứu Cao Xuân Hạo dẫn đoạn duy nhất có miêu tả dung mạo của Từ Hải ở hồi XVIII trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân như sau: “Bạch diện tú my (mặt trắng, mày đẹp); hổ đầu yến hạm” (đầu hùm, hàm én), và bình: “bức phác hoạ chân dung này dường như chia làm hai phần, một phần là những nét của một thư sinh, một phần là những nét của một võ tướng”. Cao Xuân Hạo lại dẫn đoạn tiểu sử của Từ Hải ở hồi XVII: “Chàng tinh cả lục thao tam lược, nổi danh cái thế anh hùng, trước vốn theo nghề nghiên bút, thi hỏng mấy khoa, sau xoay ra buôn bán. Tiền của có thừa, hay giao du với giới giang hồ hiệp khách…?” là đoạn có thể biện minh cho bức chân dung lưỡng diện của Từ Hải. Ông nghĩ: “Và ta có cơ sở để giả định Nguyễn Du chấp nhận bức chân dung song diện này chứ không đồng nhất tướng mạo của Từ Hải với tướng mạo của một Quan Vân Trường, vì ông sống ở một thời đại có đủ điều kiện để chấp nhận và thưởng thức một kiểu nhân vật không vẹn thuần như thế. Nếu vậy, ta có thể hiểu rằng những nét thư sinh trong dung mạo của Từ Hải đã được Nguyễn Du phác bằng hai chữ “mày ngài”. Nguyễn Du đã bỏ nét “bạch diện” có lẽ vì nó không hợp với một con người suốt mười năm “phong trần mài một lưỡi gươm” và cũng không gây được mỹ cảm bao nhiêu, nhất là khi được diễn đạt bằng hai từ Việt “mặt trắng”. Còn Tú My mà diễn bằng “mày ngài” thì chắc cũng đủ thỏa mãn những độc giả khó tính” (Cao Xuân Hạo: Nghĩa của “ mày ngài” trong câu thơ “ râu hùm, hàm én, mày ngài” in trong Đào Thái Tôn: Văn bản Truyện Kiều – nghiên cứu và thảo luận, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2001; các trích dẫn ở tr. 494, 495, 496).


Vẻ đẹp Thuý Vân và những ngộ nhận

(GDVN) – Mở đầu Truyện Kiều có đoạn tả tài sắc hai thiếu nữ nhà họ Vương, trong đó 4 câu, từ 19 đến 22 là để tả Thuý Vân; riêng câu 20 đã gây nhiều tranh luận …

Cũng như vậy, ở “Lục Vân Tiên”, Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả Lục Vân Tiên là một chàng trai tuấn tú, văn võ song toàn: “Văn đà khởi phụng đằng giao/ Võ đã tam lược sáu thao ai bì” cho nên hình ảnh của Lục Vân Tiên là: “Mày tằm mắt phụng môi son/ Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân”. Đó là cách miêu tả ước lệ, tượng trưng nét “song diện” (chữ dùng của GS. Cao Xuân Hạo), văn võ song toàn của Lục Vân Tiên chứ không phải là như miêu tả một hổ tướng hữu dũng. Và như vậy, trong hình ảnh ước lệ, người đọc có thể chấp chận được.

Đặt trong tổng thể tác phẩm và tổng kết

Trong suốt tác phẩm “Truyện Kiều”, Nguyễn Du muốn nói đến thuyết “tài mệnh tương đố” (Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau) và Kiều là nhân vật thể hiện thuyết đó của Nguyễn Du. Một người tài sắc vẹn toàn như nàng Kiều sẽ bị trời xanh đố kỵ, ghen ghét và phải chịu “nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa”. Trong 24 câu thơ, từ câu 15 đến câu 38, giới thiệu và miêu tả chị em Thúy Kiều và Thúy Vân thì bốn câu đầu là lời giới thiệu chung hai chị em đều có vẻ đẹp “mười phân vẹn mười” và “mỗi người một vẻ” nhưng đều có “cốt cách” của “mai”, “tinh thần” như “tuyết”:

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Chi tiết thứ nhất: “mai cốt cách” đã không thể hiểu nàng Thúy Vân sẽ có một thân hình, “nét người” nở nang được.

Sau đó, nhà thơ dùng thủ pháp “vẽ mây nẩy trăng”, dùng bốn câu thơ tiếp để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân (không miêu tả tài):

Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

Để rồi làm nổi bật nàng Thúy Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Như vậy phần hơn của Kiều là cả tài và sắc. Trong suốt 16 câu tiếp theo nhà thơ nói rõ điều đó. Trong khi Nguyễn Du không miêu tả tài của Thúy Vân thì đối với Thúy Kiều, nhà thơ nhắc đến cả tài thơ, họa, ca ngâm, đặc biệt là tài đàn, Kiều còn tự sáng tác một “Thiên bạc mệnh”. Cuối cùng nhà thơ nhấn mạnh: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Tài của nàng Kiều có thể tìm người thứ hai nhưng sắc thì chỉ có một. Điều đó Nguyễn Du đã nhấn mạnh đến cái nguyên nhân cái cốt lõi của “Tài mệnh tương đố” ở con người bạc mệnh này. Nét đẹp sắc sảo cùng với cái tài, tình của Kiều đã bị trời xanh “đánh ghen”, đày đọa.

Chính vì vậy, nét đẹp “mỗi người một vẻ” là nét đẹp sắc sảo ở Kiều và nét đẹp “trang trọng”, “đoan trang” hồn hậu ở Vân. “Khuôn trăng đầy đặn” của Vân chỉ có thể phù hợp cân đối với “nét mày ngài” nở nang, tươi sáng, phúc hậu; thêm vào đó là nụ cười như hoa, lời nói như “ngọc thốt đoan trang” … tất cả rất lôgic. Con người Thúy Vân phúc hậu, không quá “sắc sảo” đó đã không bị “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” như quan niệm của nhà thơ cũng như của thời đại, bởi vậy đã có được một cuộc sống hạnh phúc cùng Kim Trọng với “Một cây cù mộc, một sân quế hòe”:

Một nhà phúc lộc gồm hai,
Ngàn năm dằng dặc quan giai lần lần.
Thừa gia chẳng hết nàng Vân,
Một cây cù mộc một sân quế hòe .
Phong lưu phú quý ai bì,
Vườn xuân một cửa để bia muôn đời.

Có thể thấy, từ phương diện chữ, đến bút pháp, đến nội dung ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm, chúng ta đều có cơ sở để khẳng định thêm cách miêu tả của Nguyễn Du đối với nàng Thúy Vân. Và bởi vậy, nên chăng hiểu “nét ngài” là hình ảnh “nét mày ngài” của nàng Vân hơn là nét người, dáng người của nhân vật này.   CẢNH CHƯƠNG  

(3) Giếng Ngọc Tao Đàn và chuyện cổ (Hoàng Kim)

TƯỚNG TẠI TÂM SINH, TƯỚNG TÙY TÂM TÍNH

Cổ nhân giảng: “Tướng do tâm sinh”. Kỳ thực, tướng ở đây không chỉ là “tướng mạo” mà còn là hoàn cảnh xung quanh của một người. Nếu một người mà trong lòng luôn vui vẻ và tràn đầy ý nghĩ tích cực thì hoàn cảnh liền lập tức chuyển biến thành tốt. Trái lại, nếu một người mà trong lòng luôn chứa đựng ý nghĩ tiêu cực thì hoàn cảnh xung quanh của người ấy cũng trở nên không tốt, rất nhiều mâu thuẫn sẽ nối gót nhau mà đến.

Tướng tại tâm sinh

Chúng ta trong cuộc sống hàng ngày, thường gặp phải không ít người luôn mang tâm oán trách. Họ oán trách công việc quá nhiều, oán trách bạn bè không hiểu mình, thậm chí trời mưa hay trời nắng cũng oán trách… Họ không biết được rằng, oán trách là một loại cảm xúc xấu nhất khiến mối quan hệ căng thẳng và mâu thuẫn trở nên kịch liệt hơn. Nó không chỉ khiến cho sức khỏe của chính bản thân người ấy xấu đi mà còn khiến người thân bạn bè dần dần xa lánh họ.

Mục sư người Mỹ – Will Bowen đã viết trong cuốn “A Complaint Free World” (Thế giới không có lời phàn nàn) rằng, những người phàn nàn quanh năm cuối cùng có thể bị cô lập và bị mọi người xung quanh xa lánh. Oán giận là một loại độc dược. Nó có thể làm giảm nhiệt huyết, phá hủy ý chí, hạ thấp địa vị, hủy hoại cả tâm và thân của con người. Cho nên, oán trách vận mệnh chi bằng hãy cải biến vận mệnh, oán trách cuộc sống chi bằng hãy cải thiện cuộc sống!

Trong “Thế giới không có lời phàn nàn” có một ví dụ thực như thế, một người vì “không oán trách” mà đã cải biến được vận mệnh của mình. Tại một thành phố của nước Mỹ, có một vị khách trung niên bắt taxi đến sân bay. Sau khi lên xe, vị này phát hiện ra chiếc xe mà mình đang đi không chỉ có vẻ ngoài bắt mắt mà bố trí trong xe cũng rất ngăn nắp, trang nhã. Tài xế ăn mặc rất chỉnh tề, lịch sự. Khi xe vừa chạy, ông ấy liền nhiệt tình hỏi hành khách xem độ ấm trong xe đã thích hợp chưa? Không lâu sau, ông lại hỏi hành khách muốn nghe nhạc hay radio? Hành khách lựa chọn nghe nhạc và một đoạn hành trình thoải mái của hai người bắt đầu. Khi xe dừng trước một đèn đỏ, lái xe quay đầu lại và bảo cho vị khách biết trên xe có tờ báo buổi sáng và tạp chí định kỳ. Ngoài ra, phía trước còn có một tủ lạnh nhỏ, trong tủ lạnh có nước trái cây và cocacola, hành khách có thể tự lấy dùng, nếu muốn uống cà phê, bên cạnh cũng có bình thủy chứa cafe nóng.

Người tài xế mở lời: “Tôi là một người dễ nói chuyện, nếu anh muốn nói chuyện phiếm thì tôi có thể nói cùng anh. Nếu anh muốn nghỉ ngơi hoặc ngắm phong cảnh, tôi sẽ yên lặng lái xe, không quấy rầy anh.” Sự phục vụ đặc biệt này khiến vị khách thực sự ngạc nhiên, anh không khỏi nhìn vị tài xế thắc mắc, khó hiểu. Vị khách cất lời hỏi: “Từ bao giờ anh bắt đầu sự phục vụ này vậy?” Trầm mặc một lát, vị tài xế nói: “Thực ra, khi mới bắt đầu, xe của tôi cũng không có cung cấp dịch vụ toàn diện như bây giờ. Tôi cũng chỉ giống những người khác, hay phàn nàn, thường xuyên càu nhàu khách, phàn nàn chính phủ bất tài, phàn nàn tình hình giao thông không tốt, phàn nàn xăng quá đắt đỏ, phàn nàn con cái không nghe lời, phàn nàn vợ không hiền thục… cuộc sống mỗi ngày quả thực là ảm đạm.

Nhưng một lần, tôi vô tình nghe được một cuộc đàm thoại về cuộc sống trong một tiết mục quảng cáo. Đại ý là nếu bạn muốn thay đổi thế giới, thay đổi cuộc sống của bạn, đầu tiên hãy thay đổi chính mình. Nếu bạn cảm thấy luôn không vừa lòng thì tất cả những chuyện phát sinh đều khiến bạn cảm thấy như gặp xui xẻo. Trái lại nếu bạn cảm thấy hôm nay là một ngày may mắn, như vậy hôm nay mỗi người bạn gặp phải, đều có thể là quý nhân của bạn. Cho nên tôi tin rằng, nếu tôi muốn vui vẻ, phải thôi phàn nàn, phải thay đổi chính mình. Từ thời khắc đó, tôi quyết định sẽ đối xử tử tế với mỗi hành khách của mình.

Năm thứ nhất, tôi sửa sang xe trong ngoài sạch sẽ, trang trí mới hoàn toàn. Tôi luôn nở nụ cười với mỗi hành khách, kết quả là thu nhập năm đó của tôi tăng lên gấp đôi.

Năm thứ hai, tôi dùng lòng chân thành của mình để quan tâm chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn của khách hàng. Đồng thời tôi cũng khoan dung và thăm hỏi khách hàng nhiều hơn. Thu nhập năm thứ hai của tôi tăng gấp đôi năm thứ nhất. 

Đến năm thứ ba, cũng chính là năm nay tôi đã biến chiếc xe của mình thành một chiếc xe “5 sao” độc nhất này. Ngoài thu nhập tăng lên, hiện tại khách hàng mà tôi chở phần lớn đều là khách quen.

Đến nơi, tài xế xuống xe, ra phía sau giúp hành khách mở cửa, cũng đưa một tấm danh thiếp đẹp, nói: “Mong lần sau có thể tiếp tục phục vụ anh.” Kết quả, việc làm ăn của anh tài xế không hề bị ảnh hưởng khi nền kinh tế trở nên đình trệ. Anh đã thay đổi, không chỉ sáng tạo ra một nguồn thu nhập tốt, mà còn tạo nên một cuộc sống bình yên như vậy.

Cuộc đời là một chuyến lữ hành, mỗi chúng ta đều có cơ hội trở thành tài xế, nghênh đón những vị khách đi ngang qua đời ta. Có lẽ chúng ta sẽ không thể luôn gặp những vị khánh hiền hòa, nhưng chúng ta có thể làm một người tài xế tốt bụng, dù không tránh được đoạn đường kẹt xe, nhưng có thể dùng tâm tình vui vẻ, cùng nhau hưởng thụ một đoạn hành trình hạnh phúc và ấm áp.

Tướng tùy tâm tính

Một nhà tâm lý học người Mỹ đã nói rằng: Lực hấp dẫn của một người không phải đơn thuần đến từ dung mạo bên ngoài mà là trực tiếp đến từ tâm tính. Bảo trì một tâm tính tốt là phương pháp làm đẹp hữu hiệu nhất.

Các nhà tâm lý học nước Mỹ gần đây đã làm một nghiên cứu để đánh giá sự ảnh hưởng của dung mạo bên ngoài và bên trong của một người đối với người tiếp xúc. Trong nghiên cứu họ đã ghi hình một số nhóm người. Ban đầu, một số nhóm người này được dẫn vào một căn phòng riêng biệt, rồi từng người sẽ tự giới thiệu về bản thân.

Sau đó họ mời một số người không quen biết những người giới thiệu này, căn cứ vào video ghi hình và chấm điểm cho từng người. Những căn cứ để chấm điểm là hình dáng bên ngoài, biểu hiện cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, cuối cùng đánh giá xem bản thân mình có yêu thích người ấy hay không. Kết quả cho thấy, những nhân tố bên ngoài có sức ảnh hưởng nhỏ nhất, những nhân tố tích cực bên trong lại có sức ảnh hưởng lớn nhất đối với người tiếp xúc.

Tâm tình tốt hay xấu đều sẽ thể hiện hết ra ở khuôn mặt

Các chuyên gia cho rằng, khi trong lòng cảm thấy vui vẻ, dễ chịu, lượng máu chảy về phía bề mặt da sẽ tăng lên làm cho sắc mặt hồng hào và sáng bóng hơn. Những trạng thái cảm xúc không tốt như căng thẳng, ức chế, hốt hoảng, sợ hãi sẽ làm rối loạn nội tiết khiến cho lượng máu cung cấp cho da sẽ giảm đi. Từ đó, khiến sắc mặt mất đi vẻ sáng bóng mà trở nên khô, thậm chí xuất hiện nếp nhăn. Nếu như tâm tình không tốt kéo dài trong một thời gian sẽ làm suy nhược thần kinh, mất ngủ, làm da bị lão  hóa.

Ngoài ra, sự bài tiết hormone do thần kinh chi phối, nên vào lúc tâm tình không vui, thì tuyến mồ hôi và tuyến bã nhờn bị ức chế, khiến sự bài tiết dầu trên da bị bất thường. Nó cũng làm cho lỗ chân lông to hơn, da trở nên nhão hơn. Đây cũng là một nguyên nhân gây ra các bệnh về da.

Nếu như một người thường xuyên vui vẻ, thì vẻ mặt sẽ dễ chịu, tường hòa. Đây là nguyên nhân vì sao có một số người có khuôn mặt cũng không phải xinh đẹp xuất chúng nhưng lại rất ưa nhìn.

Tướng do tâm sinh, người tâm thiện có vẻ mặt hiền lành

Trong tướng thuật, “tướng” thông thường là chỉ tướng mặt, cũng đại thể là chỉ toàn bộ tướng mạo. “Tướng do tâm sinh” là có ý nói rằng, một người có tâm tính như thế nào thì sẽ có tướng mạo như thế ấy. Tâm tư (ý nghĩ) và hành vi của một người có thể thông qua các đặc điểm trên khuôn mặt mà được hiển hiện ra.

Trong “Tứ khố toàn thư” viết: “Vị tương nhân chi tương, tiên thính nhân chi thanh; vị thính nhân chi thanh, tiên sát nhân chi hành; vị sát nhân chi hành, tiên quan nhân chi tâm.” Ý nói rằng, đừng nhìn tướng mạo người mà trước tiên hãy nghe thanh âm của người ta, đừng nghe thanh âm người mà trước tiên hãy quan sát hành vi của người ta, đừng quan sát hành vi người mà trước tiên hãy xét cái tâm của người ta. Âu cũng là nhấn mạnh rằng cái “tâm” quyết định cái “tướng” của con người, rằng biến hoá của tướng mặt cũng là biểu hiện ra bên ngoài của sự biến hóa của tâm mang lại.

Thời xưa có câu ngạn ngữ: “Hữu tâm vô tương, tương do tâm sinh; hữu tương vô tâm, tương tùy tâm diệt”, ý nói có tâm thì dẫu vô tướng, tướng cũng sẽ do tâm mà sinh. Có tướng mà không tâm, thì tướng ấy cũng tuỳ tâm mà tiêu mất. Những lời này cũng là để nói rằng, tướng mạo của một cá nhân là tuỳ theo tâm niệm thiện-ác của cá nhân ấy mà biến hoá theo.

Dưới đây là một truyền thuyết lâu đời về “tướng do tâm sinh”:

Thời cổ đại có một thợ thủ công sinh sống ở tỉnh Sơn Đông. Mặc dù lớn lên khôi ngô tuấn tú nhưng anh ta lại thích tạc những hình tượng ma quỷ. Những tác phẩm điêu khắc của anh vô cùng sống động, và theo thời gian, việc buôn bán của anh càng ngày càng phát đạt. Một ngày, anh nhìn vào gương và vô cùng kinh ngạc khi thấy rằng diện mạo của mình đã trở nên hung tợn và xấu xí. Anh đã đến gặp rất nhiều danh y nổi tiếng, nhưng không ai có thể giúp được anh.

Chàng trai dừng lại ở một ngôi đền và kể sự tình với một người lớn tuổi. Ông lão trả lời: “Tôi có thể giúp điều ước của anh trở thành sự thật, với điều kiện là anh hãy tạc cho tôi một số bức tượng Quan Thế Âm với các dáng điệu khác nhau”. Người nghệ nhân đã đồng ý ngay lập tức và bắt đầu nghiên cứu tư tưởng và diện mạo của Quan Thế Âm Bồ Tát. Anh cũng cố gắng hết sức để thực hành theo đạo đức của Ngài như thể chính mình là đức Quan Thế Âm vậy.

Sau sáu tháng nghiên cứu và làm việc chăm chỉ, anh đã khắc được một số bức tượng sinh động của Phật Bà Quan Âm, thể hiện lòng tốt, từ bi, khoan dung và thần thánh của Ngài. Mọi người rất ngạc nhiên trước những bức tượng sinh động giống như thật. Người nghệ nhân cũng rất ngạc nhiên khi thấy rằng tướng mạo của mình đã hoàn toàn thay đổi, giờ đây nhìn anh thật hùng dũng và oai nghiêm.

Kỳ thực, từ Trung Y cổ đại cũng như sinh lý học và tâm lý học hiện đại là có thể thấy rằng đạo lý “tướng do tâm sinh” cũng giản đơn. Cái tướng mạo của người ta là do hai bộ phần ‘hình’ và ‘thần’ tạo thành. Hình tướng là đặc thù của sinh lý còn thần tướng vừa bao hàm nhân tố sinh lý, vừa phụ thuộc vào sự tu chỉnh quyết định. Nhất cử nhất động từng ý từng niệm trong cuộc sống, qua một thời gian thì dần dần sẽ ngưng đọng trên khuôn mặt, nghĩa là “hữu chư nội tất hình chư ngoại” (có gì bên trong ắt xuất hình bên ngoài).

Tâm niệm nảy sinh, cũng sẽ ảnh hưởng lên thân thể. Nếu như nội tâm an hoà tĩnh tại thì thần thanh khí sảng, lạc quan, đôn hậu, quang minh ngay thẳng. Điều đó sẽ khiến cho khí huyết điều hoà, ngũ tạng an định, công năng chính thường, thân thể khoẻ mạnh, ắt sẽ thể hiện ra mặt mũi sáng sủa, thần thái phấn khởi, ai gặp mặt cũng cảm thấy thoải mái, có cảm giác thân thiện an hoà một cách tự nhiên.

Tướng do tâm sinh: Trung y thời cổ đại nhìn tướng mặt biết bệnh

(HÌnh minh họa: Qua Kknews.cc)

Cổ nhân cho rằng, tướng mạo chính là thước đo sức khỏe thân thể của một người. Trung y thời cổ đại có thể thông qua nhìn tướng mạo mà biết được nguyên nhân của bệnh. Trung y cổ đại giảng: “Tứ chẩn”, gọi là “Vọng, Văn, Vấn, Thiết”, tức là bốn phương pháp để thầy thuốc thăm khám bệnh, gồm có Vọng (nhìn), Văn (nghe), Vấn (hỏi), Thiết (sờ).

Trong đó, Vọng chính là nhìn thần sắc. Vọng đứng đầu trong “Tứ chẩn”, cho nên nó được đánh giá là rất quan trọng trong chẩn đoán bệnh.

Từ bên ngoài của một người có thể thấy: Nếu một người mà mắt nhìn không được rõ thì điều đó chứng minh là gan người ấy có vấn đề. Đầu lưỡi không cảm giác rõ vị thì tim có vấn đề. Môi tái nhợt, không có sắc thì tính khí bất hòa. Mũi ngửi mà không rõ mùi vị thì phổi có vấn đề, tai nghe không rõ thì chức năng thận suy yếu. Các bộ phận khác nhau của tướng mạo là có liên quan mật thiết đến lục phủ ngũ tạng trong thân thể người. Cho nên, người ta nhìn sự biến hóa của tướng mạo bên ngoài sẽ biết được nguyên nhân then chốt của bệnh.

Đối với người lớn tuổi, từng trải, cũng có thể thông qua nhìn tướng, nhìn cách đi, nghe giọng nói, là biết được tính cách, sở thích và tình trạng bệnh của người này. Có rất nhiều điều khiến người ta tin rằng đã được định trước trong mệnh, nhưng cũng có rất nhiều điều đều là do tư tưởng không tốt, thói quen không tốt và hành vi không thiện của bản thân tạo thành.

Cho nên, cũng có thể coi “tâm” là nhân của “tướng”, “tướng” là quả của “tâm” (theo quan hệ nhân-quả). Nếu nội tâm của một người yên bình, tĩnh lặng, lạc quan, từ bi, ngay chính, lương thiện thì cơ thể của người ấy sẽ hoạt động một cách trơn tru, người ấy đương nhiên sẽ có được một sức khỏe tốt, tinh thần tốt và dung mạo phúc hậu.

An Hòa (dịch và t/h) / ĐKN

Tướng ăn quan trọng hơn tướng mặt, từ cách ăn nhìn rõ một người

Cách đây hơn 5 năm, tôi ứng tuyển vào vị trí giám đốc kinh doanh cho một tập đoàn đa quốc gia. Sau khi tôi vượt qua các vòng sơ tuyển, trước khi quyết định có nhận tôi vào làm hay không, Tổng giám đốc muốn mời tôi dùng cơm tối. Lúc đó tôi ngạc nhiên, không hiểu tại sao họ lại tiếp đón long trọng một người còn chưa phải là thành viên trong công ty như vậy? Mãi sau này tôi mới hiểu: Kỳ thực, bữa ăn đó chính là buổi phỏng vấn sau cùng.

Từ tướng ăn, thế ngồi cũng có thể phản ánh ra dục vọng của một người

Cổ nhân có câu: “Quân tử thực lược thường chi vị, tiểu nhân sanh tử bất túc” (Người quân tử ăn biết ngon là đủ, kẻ tiểu nhân ăn tới chết cũng không vừa), ở đây không chỉ là nói đến thức ăn mà còn nói đến cả dục vọng. Bậc quân tử phàm làm việc gì cũng có mức độ, còn kẻ tiểu nhân thì vô độ mà hành.

Việc ăn uống quan trọng chính là để bản thân được thoải mái, chúng ta khó có thể làm được tuyệt đối. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa cũng cần phải có sự chế ước tự thân, có câu: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, cần phải học cách quan sát trước sau, đừng để vì một chút sơ ý mà trở thành nỗi ám ảnh của người khác.

Tướng ăn xấu sẽ bị người khác xem thường

Trước đây, tôi có một đồng nghiệp có thói ăn hay lấy đũa gẩy gón thức ăn, khi gặp món mình không thích thì hay chống đũa gẩy gẩy thức ăn ở đĩa. Ví như có lần ăn cùng, hôm ấy ăn món mực xào chua cay, vì không thích ăn hành tây nên anh bạn này chuyên lấy đũa gẩy sang một bên, chọn miếng mình thích để ăn, nhìn rất phản cảm.

Một lần khác, trong đám cưới một người bạn, tôi vô tình ngồi ở một bàn toàn người không quen biết. Mỗi lúc thức ăn lên liền thấy 3, 4 người khách nhanh nhanh chóng chóng gặp thức ăn, có người khi thấy món ăn mình thích nên thức ăn trong bát vẫn còn chưa ăn hết đã vội gắp món mới về ăn, thậm chí có người khi thấy mọi người đã gắp hết lượt liền trút luôn cả đĩa vào bát mình. Người ngồi trong mâm đều ăn diện bảnh bao, lịch sự nhưng tôi khó lòng tôn kính họ cho được.

Tướng ăn quyết định cả vận mệnh và sự nghiệp

Có người bạn nói với tôi: “Từ nhỏ ở nhà đã được mẹ quản giáo rất nghiêm khắc, cái gì mẹ cũng quản, từ tướng đi ra sao, tướng đứng thế nào, tướng ngồi làm sao, ngay cả tướng ngủ mẹ cũng yêu cầu. Khi ăn thì không được chọn, gắp miếng nào ăn miếng đó, tôi luôn cảm thấy mẹ quản quá nhiều, nhưng đợi đến khi lớn rồi đi làm mới phát hiện một điều, tướng ăn của một người đôi khi không chỉ là ảnh hưởng tới công việc mà còn quyết định cả vận mệnh, sự nghiệp của một người”.

Tôi còn nhớ cách đây hơn 5 năm, tôi ứng tuyển vào vị trí giám đốc kinh doanh cho một tập đoàn đa quốc gia làm về ngành điện tử. Sau khi phỏng vấn qua các vòng sơ tuyển, trước khi quyết định có nhận tôi vào làm hay không, thư ký của tổng giám đốc nhà máy đã gọi điện cho tôi, thông báo tổng giám đốc muốn mời tôi dùng cơm tối.

Tôi có chút ngạc nhiên nhưng vẫn nhận lời đi. Khi đến nơi, ngoài tổng giám đốc ra còn có cả hai người giám đốc cùng tham gia. Lúc đó tôi giật mình, không hiểu tại sao họ lại tiếp đón long trọng một người còn chưa phải là thành viên trong công ty như vậy? Mãi sau này khi vào công ty tôi mới hiểu, đây là quy định của công ty cho những vị trí quan trọng.

Kỳ thực, bữa ăn đó chính là buổi phỏng vấn sau cùng, xem tôi ứng xử như thế nào trong bữa ăn, đặc biệt có thể hoà nhập với hai vị giám đốc kia không? Bởi công việc của tôi sau này có quan hệ mật thiết với hai vị này, và cũng đây cùng là vòng phỏng vấn quan trọng nhất.

Qua đây chúng ta có thể thấy, những người làm việc lớn đòi hỏi sự tỉ mỉ, chi tiết cỡ nào? Câu nói “Người làm việc lớn không quên tiểu tiết” cũng chính là ý này đây. Có thể từ cách ăn, từ cách giao tiếp ứng xử với mọi người trong bữa ăn mà nhìn được ra sự giáo dưỡng của một người.

Cách bạn ăn phản ánh sự giáo dưỡng của bạn

Có câu rằng: “Sự giáo dưỡng của một người đều thể hiện ở cách ăn”. Tướng ăn tốt không chỉ thể hiện ở thế ngồi, dáng ăn mà còn được thể hiện ở cách biết chăm sóc người khác khi ăn, biết quan tâm đến cảm nhận của người ngồi ăn cùng.

Nhớ lại hồi còn nhỏ, tôi lớn lên ở nhà ngoại. Ngay từ khi còn nhỏ bà đã dạy tôi ăn cơm phải đợi người lớn cùng ngồi vào mâm cơm, khi người lớn động đũa rồi thì tôi mới được cầm đũa ăn, trước khi ăn cần phải mời ông bà, cha mẹ, các anh các chị rồi mới được ăn. Khi ăn phải nhỏ nhẹ, không được phát ra tiếng, khi gắp thức ăn thì chỉ nên gắp thức ăn ở góc đối diện gần mình nhất, cho dù đó là thứ mình không thích ăn nhất cũng phải lặng lẽ ăn hết.

Khi còn nhỏ, luôn cho rằng bà ngoại quá khắt khe, quá nhiều quy tắc thật là phiền phức. Bây giờ nhìn lại mới cảm nhận được sự thâm thuý những lời bà dạy, có thể thu nhận được lợi ích cả đời. Nuôi dưỡng một thói quen lâu ngày sẽ biến thành tự nhiên, dần dần nó cũng trở thành tư cách của một người.

Giáo dục chính là việc được bắt đầu từ những chi tiết nhỏ nhoi nhất, đặc biệt là trong những việc bình thường có tần suất lặp lại nhiều lần. Cổ nhân có câu: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Trẻ em sinh ra như tờ giấy trắng, cần phải được chú trọng dạy bảo từ những bước cơ bản, học đi, học đứng, học nói, học gói, học mở.

Thiết nghĩ một người muốn trưởng thành, muốn có chỗ đứng trong xã hội, bước chân ra đời tạo thân, lập nghiệp cần phải có cho mình một nhân cách sống. Trẻ em cần phải được chú trọng giáo dục ngay từ khi còn nhỏ, lấy giáo dục gia đình làm nền tảng để giáo dưỡng nhân cách. Giáo dưỡng nhân cách ở đây chẳng phải là những gì quá lớn lao, mà chỉ cần bắt đầu từ những hành động nhỏ hàng ngày mà cha mẹ chính là những tấm gương cho trẻ noi theo.

Minh Vũ

RuouNui

NHỚ RƯỢU NÚI BẠN HIỀN
Hoàng Kim


Ngày đầu xuân nhớ ruộng
Thương rượu núi bạn hiền
Thèm thái dương đồng rộng
Giấc trưa lành mênh mông
*
Lão Khoa thơ văn như phù thủy.
Mình kể chuyện này đã năm năm.
Hôm nay thung dung về chốn cũ.
Bất ngờ Rượu núi Lò Cao Nhum.

Hú , Rượu núi, đọc thơ vui

“Nào bạn ơi!
Cụng bát cùng rẻo cao muôn đời.
Chụm bền ngọn núi
Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời” (1)

“Chiều buông ngọn khói hoang sơ
Tiếng chuông ngàn tuổi tỏ mờ trong mây”
“Cái còn thì vẫn còn nguyên
Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan” (2)

“Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm” (3)

Mình ở xóm lá với Lão Khoa (4)
Ong và Hoa (5) việc ai siêng nấy
Rượu núi hôm nay vui biết mấy
Bạn hiền nắng ấm trăng thanh.

(*) Cảm nhận trên trang Rượu núi nhân dịp
ghé thăm CÂU HÁT MƯỜNG PHĂNG
Chín sẽ quên và mười sẽ quên
Nhưng không quên Pú Thẩu (*) Đại tướng” …
(1) Thơ Lò Cao Nhum
(2) Thơ Trần Đăng Khoa
(3) Thơ Hoàng Kim
(4) Bài viết “Nhớ Lão Khoa tìm ra rượu núi
cảm nhận và bài đăng lần đầu tiên
(5) Thơ Hoàng Kim

MÌNH Ở XÓM LÁ VỚI LÃO KHOA

(Trích “TRUYỆN LÃO KHOA“, Hoàng Kim)

Lão Khoa thơ văn như phù thuỷ. Bạn hãy đọc ÔNG CHỦ XE BỤI và cái kết của lão Khoa “Thương trường là chiến trường. Đây là chiến trường còn kinh hơn thời bom đạn! Chỉ có người trong cuộc mới biết được thôi. Nhiều đại gia trông bên ngoài rất hoành tráng, nhưng đang chết dần từng ngày. Nợ ngân hàng đến nghìn tỷ. Xoay xỏa thế nào. Chỉ còn chờ ngày sập tiệm. Ông không tin à? Kinh lắm! Thế nên mình cứ buôn thúng bán bưng, cứ làm ông chủ xe bụi cho chắc chắn. Nhếch nhác nhưng khỏe re. Rỗi rãi, có khi mình sẽ lại viết văn. Mà nếu viết văn, cuốn sách đầu tiên, không khéo mình lại viết về ông Lựu! Lôi ông Lựu ra bán, chắc chắn đắt hơn bia bụi rất nhiều! Nói rồi, Lưu Xuân Tình ngửa cổ cười. Trông lão rờn rợn như một gã địa chủ nhà quê, có của ăn của để. Kinh! “. Tôi chỉ bình được một chữ (kèm vỗ đùi đánh đét): Phục! Sướng thiệt! Tôi tự hào mình ở xóm lá với lão Khoa !

XUÂN DIỆU BÌNH THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA

Tôi nhớ cách đây 40 năm khi chú Xuân Diệu đến đọc thơ ở Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc. Mấy ngày hôm trước, trên bảng thông tin của Trường viết hàng chữ bằng phấn trắng. Lúc 7g tối thứ Bảy này có phim TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT CÓ THỂ HOÃN ! Thuở đó liên hệ phim rạp thật khó. Người viết có lẽ vì không chắc chắn nên đã viết câu trước rất khiêm tốn, nhỏ nhắn, còn câu sau thì viết rất to, ý muốn nói có thể có phim mà cũng có thể không, trường hợp đặc biệt có thể hoãn (để mọi người đừng phiền). Buồn cười là không hiểu sao, có lẽ là vì quá mong mỏi nên các lớp sinh viên chúng tôi lại kháo nhau, rũ nhau đi xem vì tên phim hay lắm, ngộ lắm. Trời mới chập tối, sân trường đã có nhiều người đến xí chỗ tốt gần rạp chiếu. Mặc dù thứ bảy là ngày cuối tuần, nhiều bạn thường về Hà Nội hoặc đi Bích Động. Cuối cùng, thì việc sẽ đến phải đến. Tối đó không có phim thật nhưng thay vào đó Đoàn trường đã rước được nhà thơ Xuân Diệu về nói chuyện.

Tôi thích thơ nên ngồi gần và nhớ như in cái chuyện thay kính của nhà thơ Xuân Diệu khi ông trò chuyện đến chỗ hứng nhất (Sau này trong “Chân dung và đối thoại”, tôi đặc biệt ấn tượng cái chi tiết tả thực này của Trần Đăng Khoa là Xuân Diệu không có thói quen lau kính mà ông có hai kính để luôn thay đổi, khi kính bị mờ là ông thay kính khác và nói chuyện thật say mê). Ông nói rất hào hứng và tôi thì nhìn ông như bị thôi miên. Đột nhiên ông chỉ vào mặt tôi: “Đố em biết Trần Đăng Khoa mấy tuổi?”. Tôi sững người hơi lúng túng vì bất ngờ nhưng sau đó kịp đáp ngay là Trần Đăng Khoa cỡ tuổi Hoàng Hiếu Nhân nên tôi nghĩ rằng có lẽ Khoa nhỏ hơn tôi ba tuổi. Hình như chú Xuân Diệu quên béng mất câu hỏi và cũng chẳng quan tâm đến tôi đang chờ đợi ông giải đáp cho mọi người là đúng hay sai. Mắt Xuân Diệu tự dưng như mơ màng, như thảnh thốt nhìn vào một chốn xa xăm … Giọng ông hạ chùng hẳn xuống như nói thủ thỉ với riêng tôi trước mặt mà quên mất cả một cử tọa đông đảo: “Tôi học bà má Năm Căn gọi anh giải phóng quân bằng thằng giải phóng quân cho nó thân mật. Tôi gọi Trần Đăng Khoa là thằng cháu Khoa vì sự thân mật, chứ thực tình Trần Đăng Khoa lớn lắm…. lớn lắm… lớn lắm (ông lắc lắc đầu và lặp lại ba lần). Mai sau, muốn biết thời gian lao của nước mình, người đọc chắc chắn phải tìm đến Khoa. Xuân Diệu đây này (Ông gập người xuống, tay nắm mũi làm điệu bộ )Tôi phải cúi..úi ..i xuống như thế này (Xuân Diệu gập người thấp, rất thấp, tay lay mũi, tay đỡ kính) đến lấm mũi và gọi là …. ông Khoa”. Ông đột ngột nói to: “ÔNG KHOA!” (mọi người cười ồ lên). Tôi – Xuân Diệu nói tiếp- đang chuyển thể và giới thiệu thơ Khoa ra thế giới. Hay lắm ! Thú lắm ! Tôi đọc cho các anh chị nghe nhé. EM KỂ CHUYỆN NÀY … Ông đọc chậm rãi –

Chưa khi nào và chưa bao giờ tôi nghe thơ hay đến vậy. Và tôi thuộc, thuộc nằm lòng suốt 40 năm! Các bạn biết không, tôi rất dở việc nhớ số điện thoại, thế mà lại thuộc một bài thơ dài. Số điện thoại của tôi đây, Hoàng Kim 0903613024. Bạn hãy kiểm tra bất chợt bất cứ lúc nào để biết chắc rằng tôi không có thủ một cuốn thơ của Khoa trong tay. Và rằng thật may mắn trên đời, chúng tôi có Khoa cùng xóm lá và Khoa thì may mắn có người thầy không lồ như Xuân Diệu để đứng lên vai, để lắng nghe những lời khen chê và tự soi lại mình, để Khoa mãi là Khoa trong lòng người cùng thời và Khoa không thể viết nhạt, không phụ lòng người đọc.

Để minh chúng, tôi xin chép lại bài thơ tôi nghe từ dịp đó. Bản này so với các bản in sau này, hình như Khoa có sửa một ít chữ hoặc cũng có thể nhà thơ Xuân Diệu hoặc tôi nhớ sai …

* Phản hồi từ: Trần Đăng Khoa @Hoang Kim Cám ơn bác đã cho tôi những tư liệu rất hay về nhà thơ XD. Động tác và tính cách là rất chuẩn. XD đúng như vậy. Hy vọng dịp nào chúng ta gặp nhau. Chúc bác thành công trong sự nghiệp Dạy và Học.

EM KỂ CHUYỆN NÀY…

Trần Đăng Khoa

Sáng nay
Bọn em đi đánh dậm
Ở ao làng
Bên ruộng Lúa xanh non
Những cô Lúa phất phơ bím tóc
Những cậu Tre
Bá vai nhau
Thầm thì đứng học

Những chị Cò trắng
Khiêng Nắng
Qua Sông
Cô Gió chăn Mây trên Đồng
Bác Mặt trời
đạp xe qua đỉnh Núi
vẻ vui tươi
nhìn chúng em nhăn nhó cười …

Chúng em rất vui
vì đánh được nhiều Cá.
Này chị Cua càng
giơ tay chào biển Lúa
Này thằng Rói nhớ ai
mà khóc mãi
mắt đỏ ngầu như lửa.
Này câu Trê
đánh võ ở đâu
mà ngã bẹp đầu.
Lòng chúng em dào dạt …

Bỗng …
Trên con đường cát
Có vài bạn gái
Dáng chừng vừa đi học về
Đầu đội mủ rơm
Lưng đeo túi thuốc
Khăn quàng nở xòe trước ngực
Theo gió bay bay…

-Các bạn tìm gì ở đây?
Hây tìm lọ mực
Hay tìm bút máy đánh rơi ?
Các bạn đều trả lời

– Hôm qua
Thằng Mỹ bị bắn rơi
xuống cánh đồng ta
Các chú dân quân dong nó đi xa
Vẫn còn lại
những dấu chân in trên cát
Vẫn còn lại
những dấu chân tội ác
Trông vào nhức mắt
Các bạn đào đổ xuống ao sâu
Đổ xuống lòng mương
Từ lúc mờ sương
Cho tới khi
tiếng trống gọi về trường
Vẫn chưa hết
những dấu chân trên cát
Vẫn chưa hết
những dấu chân tội ác
Các bạn còn đào
đổ xuống ao sâu.

– Chao ôi !
Những lão Trê
đánh võ ngã bẹp đầu
Thắng Rói
mắt đỏ ngầu như lửa
và những chị Cua càng
dơ tay chào biển Lúa
đã ăn phải dấu chân này
bẩn thỉu biết bao …

Chúng em lặng nhìn nhau
Chẳng ai bảo ai
Chúng em đổ cả xuống ao
Trở về nhà với chiếc giỏ không
Và hát nghêu ngao

(Em kể chuyện này…
Mẹ không mắng
nên chúng em rất thích)
Những chị chim Sâu trên cành
Nhìn chúng em cười
Tích !
Tích !

* Phản hồi từ: Trần Đăng Khoa @Hoangkim Tôi quên bài thơ này rồi mà bác thì nhớ. Tài thật. Có nhiều câu thêm vào như “mẹ không mắng đâu nên em rất thích”. Còn thì cơ bản chính xac. Vái bác

ĐÊM YÊN TỬ NGHĨ VỀ CÔN SƠN

Tôi viết cảm nhận này trực tiếp trên trang mạng của Khoa . Ý nghĩ chảy nhanh ra đầu bút. Tôi đang đánh máy bài thơ EM KỂ CHUYỆN NÀY chưa kịp lưu thì cảm nhận của Khoa hiện ra: “@Hoang Kim. Cám ơn bác đã cho tôi những tư liệu rất hay về nhà thơ Xuân Diệu. Động tác và tính cách là rất chuẩn. Xuân Diệu đúng như vậy. Hy vọng dịp nào chúng ta gặp nhau. Chúc bác thành công trong sự nghiệp Dạy và Học”. Hãy khoan, Khoa ơi để mình kể bạn nghe chuyện Đêm Yên Tử nghĩ về Côn Sơn nhé. Mình ám ảnh chuyện này quá. Chuyện này ví như: Sự ghi ơn người khai sinh chữ quốc ngữ; Nguyễn Du đâu chỉ đại thi hào; Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn; Bác có nhầm lẫn kẻ phi thường; Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Tâm linh đọc lại và suy ngẫm … Đó đều là những bí ẩn lịch sử cần người minh triết để thấu hiểu để trao lại… Mình nếu như không viết được vào ô cảm nhận này, vào chính thời điểm này thì hình như ít người hiểu thấu.

Đêm Côn Sơn của Khoa là đêm lạ lùng ! Đêm Yên Tử nghĩ về Côn Sơn là đêm thiêng kỳ l ạ. “Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử. Để thấm hiểu đức Nhân Tông. Ta thành tâm đi bộ . Lên tận đỉnh chùa Đồng. Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc.” Hình như bí ần của Nhân Tông và Nguyễn Trãi đã mách Khoa ở Đêm Côn Sơn và đã gợi cho mình nhìn thấy một chút dấu hiệu nhận biết để mách cho Khoa ghi lại. Thơ văn thời Lý Trần, Lê, Mạc, Nguyễn đặc biệt là các danh sĩ tinh hoa Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ, Nguyễn Du, Đặng Dung, Phùng Khắc Khoan, Phan Huy Chú, Phan Chu Trinh, Nguyễn Hiến Lê đều rất cần những chuyên luận kỹ. Bác Trường Chinh là người viết nhiều thơ, nhưng trước tác thơ của chính bác chọn lưu lại chỉ là “Dưới đèn đọc Ức Trai” và “Đi họp” hẳn là có ý sâu sắc riêng. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo có bài thơ “Nguyễn Trãi trước giờ tru di” cũng là bài thơ hay lắng đọng nỗi niềm của một góc nhìn về Nguyễn Trãi.

Năm trước khi “Chân dung và đối thoại” vừa mới ra lò. Mình nhớ cái chi tiết của Khoa khi nói về Đêm Côn Sơn trong đó có bốn câu:

“Ngoài thềm rơi cái lá đa.
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Mờ mờ ông bụt ngồi nghiêm.
Nghĩ gì ông vẫn ngồi yên lưng đền”.

Khoa viết rằng Xuân Diệu khen Khoa nghe tinh, có giác quan tinh tế và Xuân Diệu đã thay một chữ “nghĩ” cho chữ “sợ”mà ông Bụt hóa thành cơ thể sống, đã thành sự sống. Sự thẩm thơ tinh tưởng của Xuân Diệu là vậy. Ông chỉ thay đổi một chữ mà bài thơ biến đổi cả thần thái. Chữ “nghĩ “ này hay tương tự chữ “đi” trong câu thơ “Trái đất ba phần tư nước mắt/ Đi như giọt lệ giữa không trung” làm đổi thần thái câu thơ “Trôi như giọt lệ giữa không trung” mà Khoa đã bình luận.

Mình muốn bình thêm cái ý “thần đồng” nghĩa là “tuổi nhi đồng mà làm được những điều như có thần mách bảo”. Khoa né tránh bình luận chuyện này và viết “bây giờ thì y đã già và dứt khoát không phải là kẻ đắc đạo, vậy mà y vẫn phải còng lưng, ý ạch vác cái cây thánh giá ở lứa tuổi trẻ con.” Thực ra, phải nhìn nhận rằng Khoa có những câu thơ rất quý và rất lạ, lúc trẻ con mà đã viết được những câu “thần đồng” như trên mà người lớn không thể viết nổi.

Mình đã có cảm giác thật kỳ lạ khi ngồi một mình lúc ba giờ khuya ở dưới chân Bụt Trần Nhân Tông nơi vòm đá hang cọp phía sau chùa Bảo Sái gần đỉnh chùa Đồng. Nơi đó và giờ đó là lúc Trần Nhân Tông mất. Người từ chùa Hoa Yên lúc nữa đêm đã nhờ Bảo Sái- một danh tướng cận vệ và đại đệ tử thân tín – cõng Người lên đây.

Bảy trăm năm sau, giữa đêm thiêng Yên Tử, ngồi một mình trong đêm lạnh, đúng nơi và khoảng ba giờ khuya lúc đức Nhân Tông mất Lắng nghe tiếng lá cây gạo trên 700 tuổi rơi rất mỏng lúc canh khuya. Bóng của Phật Nhân Tông mờ mờ ngồi nghiêm ngồi yên bình thản lưng đền. Lúc đó vụt hiện trong đầu mình bài kệ “Cư trần lạc đạo” của đức Nhân Tông, bài thơ Yên Tử “đề Yên Tử sơn, Hoa Yên Tự” của Nguyễn Trãi và văng vẳng trong thinh không thăm thẳm vô cùng bài thơ chiêu tuyết Nguyễn Trãi “đêm Côn Sơn” của Khoa. Mình phục Khoa quá!

Khoa ơi, hãy tin mình đi. Những câu thơ thần đồng sức người không viết được. Khoa đã may mắn chạm được mạch tâm linh dân tộc, như tiếng đàn bầu ngân lên từ ruột trúc, mới viết được những câu thơ hay và lạ đến thế. Khoa ngẫm xem những câu thơ sau đây của Nguyễn Trãi tả Bình minh trên Yên Tử thật đúng là thần bút: “Non thiêng Yên Tử, đỉnh kỳ phong. Trời mới ban mai đã rạng hồng. Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả. Nói cười lồng lộng giữa không trung. Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu. Cỏ cây chen đá rũ tầng không, Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng”

Bình minh Yên Tử, https://thungdung.wordpress.com/yentu/

Nguyễn Trãi viết thơ trên đỉnh Yên Tử lúc ban mai, gần 5 giờ sáng. Vậy Người leo núi từ khi nào? Đi từ hôm trước hay đi từ lúc nửa đêm như đức Nhân Tông? E chỉ có Yên Tử trả lời.

* Phản hồi từ: TRẦN ĐĂNG KHOA @Hoàng Kim Cám ơn bác đã yêu quý cậu Khoa. Nhưng chuyện đã qua lâu rồi, chúng ta hãy để cậu “yên giấc ngàn thư”, vì cu cậu cũng đã xong phận sự. Tôi chỉ tò mò, sao bác lên Yên Tử giữa đêm? Bác lại có nhiều vốn liếng về Yên Tử và Trần Nhân Tông, giá bác làm thơ hay viết bút ký, tùy bút về Đêm Yên Tử thì hay biết mấy. Đặc biệt là không khí Yên Tử. Đã có nhiều bài thơ, ca khúc rất hay viết về vùng đất này. Thêm một tấm lòng và góc nhìn nữa của HK cũng sẽ làm cho YT phong phú thêm đấy.

Cảm ơn Trần Đăng Khoa đã khuyến khích mình viết về Yên Tử. Hôm trước Búi Anh Tấn, tác giả của cuốn sách Đàm đạo về Điếu Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông) 405 trang, được nhiều người yêu thích, cũng đã khuyến khích mình như ý của Khoa. Mình sẽ cố gắng và rất mong được sư góp ý thẩm định của các bạn.

Hoàng Kim

RƯỢU NÚI
Lò Cao Nhum

Bạn đến
Mời ngồi xếp bằng tròn trên núi
Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời.

Bát rượu trăng rằm
Mong hồn vía bạn đừng thất lạc
Cầu cụ ông, cụ bà cây si, cây đa
Gái bản nụ hoa, trai mường cây nghiến
Ngửa bàn tay cũng da
Úp bàn tay cũng thịt.

Rượu nhà tôi
Ủ từ lá sắc rừng gai
Chắt từ củ mài hốc đá
Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài.

Rượu nhà tôi
Có ngọt mật ong vách đá
Có chua măng ướp chum vò
Có cay của bạn tình cắn nhầm hạt ớt
Có đắng của em chồng phải lòng chị dâu.

Rượu nhà tôi
Rượu buộc chỉ cổ tay
Thắp lửa tình chiêng, tình trống
Đã uống vắt kiệt chum mà uống
Đã say đổ tràn tình mà say.

Nào bạn ơi
Cụng bát cùng rẻo cao muôn đời
Chụm bền ngọn núi
Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời.


Nhà thơ Lò Cao Nhum đọc bài thơ Rượu núi

Lời bình của nhà thơ NGUYỄN ĐỨC MẬU

Mở đầu bài thơ Rượu núi là mấy câu thơ giản dị theo kiểu mời khách đến nhà. Tác giả ngỏ lời rất mộc mạc, chân chất nhưng cũng biết lấy cái cớ mời bạn để nói về thứ rượu rất riêng của bản mình. Bởi lẽ vừa là chủ nhà, Lò Cao Nhum vừa là nhà thơ. Từ hương vị của rượu núi anh mở rộng biên độ để phát triển ý tưởng và tạo được những câu thơ gần với ngạn ngữ, giầu sự đúc kết, cô đọng: Gái bản nụ hoa, trai mường cây nghiến/ Ngửa bàn tay cũng da/ Úp bàn tay cũng thịt.

Lò Cao Nhum giới thiệu về rượu núi bằng chi tiết và hình ảnh rất thật: Ủ từ lá sắc rừng gai/ Chắt từ củ mài hốc đá/ Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài…, tuy nhiên tác giả không dừng lại ở chi tiết, hình ảnh, anh có những câu nói về cái “cay” cái “đắng” của rượu thật đột biến: Có cay của bạn tình cắn nhầm hạt ớt/ Có đắng của em chồng phải lòng chị dâu… Câu thơ hay không phải vì vần điệu mà vì sự liên tưởng gợi mở. Và sau khi đã giới thiệu cái men say của rượu núi, tác giả buông một câu mời thật hào phóng: Đã uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ tràn tình mà say.

Ở đoạn kết bài thơ, sức khái quát được nâng lên. Từ động tác uống rượu thường ngày, tác giả viết: Cụng bát cùng rẻo cao muôn đời/ Chụm bền ngọn núi… Câu thơ có sự dồn nén, hàm xúc gợi cho người đọc những suy nghĩ về mối quan hệ thương yêu của bè bạn, chòm bản xa gần. Toàn bộ bài thơ Rượu núi được viết bằng bút pháp giản dị, giầu chất dân tộc. Phải chăng Rượu núi là thứ rượu chan chứa tình đời, tình người, và chính những câu thơ hay trong bài cũng là men rượu chắt ra từ cuộc sống?

Trong cuộc thi truyện ngắn và thơ năm 1996 do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức, bài thơ Rượu núi đã giành được vị trí xứng đáng trong số các giải thưởng, thực sự là một đóng góp độc đáo cả về ý lẫn tình.

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vui-den-chon-thung-dung/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

RuouNui

Hoàng Kim.

“Lão Khoa thơ văn như phù thủy”.
Mình kể chuyện này đã năm năm.
Hôm nay thung dung về chốn cũ.
Bất ngờ Rượu núi Lò Cao Nhum.

Hú , Rượu núi, đọc thơ  vui

“Nào bạn ơi!
Cụng bát cùng rẻo cao muôn đời.
Chụm bền ngọn núi
Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời” (1)

“Chiều buông ngọn khói hoang sơ
Tiếng chuông ngàn tuổi tỏ mờ trong mây”
“Cái còn thì vẫn còn nguyên
Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan” (2)

“Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm” (3)

Mình ở xóm lá với Lão Khoa (4)
Ong và Hoa (5) việc ai siêng nấy
Rượu núi hôm nay vui biết mấy
Bạn hiền nắng ấm trăng thanh.

(*) Cảm nhận trên trang Rượu núi nhân dịp
ghé thăm CÂU HÁT MƯỜNG PHĂNG
Chín sẽ quên và mười sẽ quên
Nhưng không quên Pú Thẩu (*) Đại tướng” …
(1) Thơ Lò Cao Nhum
(2) Thơ Trần Đăng Khoa
(3) Thơ Hoàng Kim
(4) Bài viết “Nhớ Lão Khoa tìm ra rượu núi
cảm nhận và bài đăng lần đầu tiên
(5) Thơ Hoàng Kim

MÌNH Ở XÓM LÁ VỚI LÃO KHOA

(Trích “TRUYỆN LÃO KHOA“, Hoàng Kim)

Lão Khoa thơ văn như phù thuỷ. Bạn hãy đọc ÔNG CHỦ XE BỤI và cái kết của lão Khoa “Thương trường là chiến trường. Đây là chiến trường còn kinh hơn thời bom đạn! Chỉ có người trong cuộc mới biết được thôi. Nhiều đại gia trông bên ngoài rất hoành tráng, nhưng đang chết dần từng ngày. Nợ ngân hàng đến nghìn tỷ. Xoay xỏa thế nào. Chỉ còn chờ ngày sập tiệm. Ông không tin à? Kinh lắm! Thế nên mình cứ buôn thúng bán bưng, cứ làm ông chủ xe bụi cho chắc chắn. Nhếch nhác nhưng khỏe re. Rỗi rãi, có khi mình sẽ lại viết văn. Mà nếu viết văn, cuốn sách đầu tiên, không khéo mình lại viết về ông Lựu! Lôi ông Lựu ra bán, chắc chắn đắt hơn bia bụi rất nhiều! Nói rồi, Lưu Xuân Tình ngửa cổ cười. Trông lão rờn rợn như một gã địa chủ nhà quê, có của ăn của để. Kinh! “. Tôi chỉ bình được một chữ (kèm vỗ đùi đánh đét): Phục! Sướng thiệt! Tôi tự hào mình ở xóm lá với lão Khoa !

XUÂN DIỆU BÌNH THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA

Tôi nhớ cách đây 40 năm khi chú Xuân Diệu đến đọc thơ ở Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc. Mấy ngày hôm trước, trên bảng thông tin của Trường viết hàng chữ bằng phấn trắng. Lúc 7g tối thứ Bảy này có phim TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT CÓ THỂ HOÃN ! Thuở đó liên hệ phim rạp thật khó. Người viết có lẽ vì không chắc chắn nên đã viết câu trước rất khiêm tốn, nhỏ nhắn, còn câu sau thì viết rất to, ý muốn nói có thể có phim mà cũng có thể không, trường hợp đặc biệt có thể hoãn (để mọi người đừng phiền). Buồn cười là không hiểu sao, có lẽ là vì quá mong mỏi nên các lớp sinh viên chúng tôi lại kháo nhau, rũ nhau đi xem vì tên phim hay lắm, ngộ lắm. Trời mới chập tối, sân trường đã có nhiều người đến xí chỗ tốt gần rạp chiếu. Mặc dù thứ bảy là ngày cuối tuần, nhiều bạn thường về Hà Nội hoặc đi Bích Động. Cuối cùng, thì việc sẽ đến phải đến. Tối đó không có phim thật nhưng thay vào đó Đoàn trường đã rước được nhà thơ Xuân Diệu về nói chuyện.

Tôi thích thơ nên ngồi gần và nhớ như in cái chuyện thay kính của nhà thơ Xuân Diệu khi ông trò chuyện đến chỗ hứng nhất (Sau này trong “Chân dung và đối thoại”, tôi đặc biệt ấn tượng cái chi tiết tả thực này của Trần Đăng Khoa là Xuân Diệu không có thói quen lau kính mà ông có hai kính để luôn thay đổi, khi kính bị mờ là ông thay kính khác và nói chuyện thật say mê). Ông nói rất hào hứng và tôi thì nhìn ông như bị thôi miên. Đột nhiên ông chỉ vào mặt tôi: “Đố em biết Trần Đăng Khoa mấy tuổi?”. Tôi sững người hơi lúng túng vì bất ngờ nhưng sau đó kịp đáp ngay là Trần Đăng Khoa cỡ tuổi Hoàng Hiếu Nhân nên tôi nghĩ rằng có lẽ Khoa nhỏ hơn tôi ba tuổi. Hình như chú Xuân Diệu quên béng mất câu hỏi và cũng chẳng quan tâm đến tôi đang chờ đợi ông giải đáp cho mọi người là đúng hay sai. Mắt Xuân Diệu tự dưng như mơ màng, như thảnh thốt nhìn vào một chốn xa xăm … Giọng ông hạ chùng hẳn xuống như nói thủ thỉ với riêng tôi trước mặt mà quên mất cả một cử tọa đông đảo: “Tôi học bà má Năm Căn gọi anh giải phóng quân bằng thằng giải phóng quân cho nó thân mật. Tôi gọi Trần Đăng Khoa là thằng cháu Khoa vì sự thân mật, chứ thực tình Trần Đăng Khoa lớn lắm…. lớn lắm… lớn lắm (ông lắc lắc đầu và lặp lại ba lần). Mai sau, muốn biết thời gian lao của nước mình, người đọc chắc chắn phải tìm đến Khoa. Xuân Diệu đây này (Ông gập người xuống, tay nắm mũi làm điệu bộ )Tôi phải cúi..úi ..i xuống như thế này (Xuân Diệu gập người thấp, rất thấp, tay lay mũi, tay đỡ kính) đến lấm mũi và gọi là …. ông Khoa”. Ông đột ngột nói to: “ÔNG KHOA!” (mọi người cười ồ lên). Tôi – Xuân Diệu nói tiếp- đang chuyển thể và giới thiệu thơ Khoa ra thế giới. Hay lắm ! Thú lắm ! Tôi đọc cho các anh chị nghe nhé. EM KỂ CHUYỆN NÀY … Ông đọc chậm rãi –

Chưa khi nào và chưa bao giờ tôi nghe thơ hay đến vậy. Và tôi thuộc, thuộc nằm lòng suốt 40 năm! Các bạn biết không, tôi rất dở việc nhớ số điện thoại, thế mà lại thuộc một bài thơ dài. Số điện thoại của tôi đây, Hoàng Kim 0903613024. Bạn hãy kiểm tra bất chợt bất cứ lúc nào để biết chắc rằng tôi không có thủ một cuốn thơ của Khoa trong tay. Và rằng thật may mắn trên đời, chúng tôi có Khoa cùng xóm lá và Khoa thì may mắn có người thầy không lồ như Xuân Diệu để đứng lên vai, để lắng nghe những lời khen chê và tự soi lại mình, để Khoa mãi là Khoa trong lòng người cùng thời và Khoa không thể viết nhạt, không phụ lòng người đọc.

Để minh chúng, tôi xin chép lại bài thơ tôi nghe từ dịp đó. Bản này so với các bản in sau này, hình như Khoa có sửa một ít chữ hoặc cũng có thể nhà thơ Xuân Diệu hoặc tôi nhớ sai …

* Phản hồi từ: Trần Đăng Khoa @Hoang Kim Cám ơn bác đã cho tôi những tư liệu rất hay về nhà thơ XD. Động tác và tính cách là rất chuẩn. XD đúng như vậy. Hy vọng dịp nào chúng ta gặp nhau. Chúc bác thành công trong sự nghiệp Dạy và Học.

EM KỂ CHUYỆN NÀY…

Trần Đăng Khoa

Sáng nay
Bọn em đi đánh dậm
Ở ao làng
Bên ruộng Lúa xanh non
Những cô Lúa phất phơ bím tóc
Những cậu Tre
Bá vai nhau
Thầm thì đứng học

Những chị Cò trắng
Khiêng Nắng
Qua Sông
Cô Gió chăn Mây trên Đồng
Bác Mặt trời
đạp xe qua đỉnh Núi
vẻ vui tươi
nhìn chúng em nhăn nhó cười …

Chúng em rất vui
vì đánh được nhiều Cá.
Này chị Cua càng
giơ tay chào biển Lúa
Này thằng Rói nhớ ai
mà khóc mãi
mắt đỏ ngầu như lửa.
Này câu Trê
đánh võ ở đâu
mà ngã bẹp đầu.
Lòng chúng em dào dạt …

Bỗng …
Trên con đường cát
Có vài bạn gái
Dáng chừng vừa đi học về
Đầu đội mủ rơm
Lưng đeo túi thuốc
Khăn quàng nở xòe trước ngực
Theo gió bay bay…

-Các bạn tìm gì ở đây?
Hây tìm lọ mực
Hay tìm bút máy đánh rơi ?
Các bạn đều trả lời

– Hôm qua
Thằng Mỹ bị bắn rơi
xuống cánh đồng ta
Các chú dân quân dong nó đi xa
Vẫn còn lại
những dấu chân in trên cát
Vẫn còn lại
những dấu chân tội ác
Trông vào nhức mắt
Các bạn đào đổ xuống ao sâu
Đổ xuống lòng mương
Từ lúc mờ sương
Cho tới khi
tiếng trống gọi về trường
Vẫn chưa hết
những dấu chân trên cát
Vẫn chưa hết
những dấu chân tội ác
Các bạn còn đào
đổ xuống ao sâu.

– Chao ôi !
Những lão Trê
đánh võ ngã bẹp đầu
Thắng Rói
mắt đỏ ngầu như lửa
và những chị Cua càng
dơ tay chào biển Lúa
đã ăn phải dấu chân này
bẩn thỉu biết bao …

Chúng em lặng nhìn nhau
Chẳng ai bảo ai
Chúng em đổ cả xuống ao
Trở về nhà với chiếc giỏ không
Và hát nghêu ngao

(Em kể chuyện này…
Mẹ không mắng
nên chúng em rất thích)
Những chị chim Sâu trên cành
Nhìn chúng em cười
Tích !
Tích !

* Phản hồi từ: Trần Đăng Khoa @Hoangkim Tôi quên bài thơ này rồi mà bác thì nhớ. Tài thật. Có nhiều câu thêm vào như “mẹ không mắng đâu nên em rất thích”. Còn thì cơ bản chính xac. Vái bác

ĐÊM YÊN TỬ NGHĨ VỀ CÔN SƠN

Tôi viết cảm nhận này trực tiếp trên trang mạng của Khoa . Ý nghĩ chảy nhanh ra đầu bút. Tôi đang đánh máy bài thơ EM KỂ CHUYỆN NÀY chưa kịp lưu thì cảm nhận của Khoa hiện ra: “@Hoang Kim. Cám ơn bác đã cho tôi những tư liệu rất hay về nhà thơ Xuân Diệu. Động tác và tính cách là rất chuẩn. Xuân Diệu đúng như vậy. Hy vọng dịp nào chúng ta gặp nhau. Chúc bác thành công trong sự nghiệp Dạy và Học”. Hãy khoan, Khoa ơi để mình kể bạn nghe chuyện Đêm Yên Tử nghĩ về Côn Sơn nhé. Mình ám ảnh chuyện này quá. Chuyện này ví như: Sự ghi ơn người khai sinh chữ quốc ngữ; Nguyễn Du đâu chỉ đại thi hào; Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn; Bác có nhầm lẫn kẻ phi thường; Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Tâm linh đọc lại và suy ngẫm … Đó đều là những bí ẩn lịch sử cần người minh triết để thấu hiểu để trao lại… Mình nếu như không viết được vào ô cảm nhận này, vào chính thời điểm này thì hình như ít người hiểu thấu.

Đêm Côn Sơn của Khoa là đêm lạ lùng ! Đêm Yên Tử nghĩ về Côn Sơn là đêm thiêng kỳ l ạ. “Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử. Để thấm hiểu đức Nhân Tông. Ta thành tâm đi bộ . Lên tận đỉnh chùa Đồng. Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc.” Hình như bí ần của Nhân Tông và Nguyễn Trãi đã mách Khoa ở Đêm Côn Sơn và đã gợi cho mình nhìn thấy một chút dấu hiệu nhận biết để mách cho Khoa ghi lại. Thơ văn thời Lý Trần, Lê, Mạc, Nguyễn đặc biệt là các danh sĩ tinh hoa Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ, Nguyễn Du, Đặng Dung, Phùng Khắc Khoan, Phan Huy Chú, Phan Chu Trinh, Nguyễn Hiến Lê đều rất cần những chuyên luận kỹ. Bác Trường Chinh là người viết nhiều thơ, nhưng trước tác thơ của chính bác chọn lưu lại chỉ là “Dưới đèn đọc Ức Trai” và “Đi họp” hẳn là có ý sâu sắc riêng. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo có bài thơ “Nguyễn Trãi trước giờ tru di” cũng là bài thơ hay lắng đọng nỗi niềm của một góc nhìn về Nguyễn Trãi.

Năm trước khi “Chân dung và đối thoại” vừa mới ra lò. Mình nhớ cái chi tiết của Khoa khi nói về Đêm Côn Sơn trong đó có bốn câu:

“Ngoài thềm rơi cái lá đa.
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Mờ mờ ông bụt ngồi nghiêm.
Nghĩ gì ông vẫn ngồi yên lưng đền”.

Khoa viết rằng Xuân Diệu khen Khoa nghe tinh, có giác quan tinh tế và Xuân Diệu đã thay một chữ “nghĩ” cho chữ “sợ”mà ông Bụt hóa thành cơ thể sống, đã thành sự sống. Sự thẩm thơ tinh tưởng của Xuân Diệu là vậy. Ông chỉ thay đổi một chữ mà bài thơ biến đổi cả thần thái. Chữ “nghĩ “ này hay tương tự chữ “đi” trong câu thơ “Trái đất ba phần tư nước mắt/ Đi như giọt lệ giữa không trung” làm đổi thần thái câu thơ “Trôi như giọt lệ giữa không trung” mà Khoa đã bình luận.

Mình muốn bình thêm cái ý “thần đồng” nghĩa là “tuổi nhi đồng mà làm được những điều như có thần mách bảo”. Khoa né tránh bình luận chuyện này và viết “bây giờ thì y đã già và dứt khoát không phải là kẻ đắc đạo, vậy mà y vẫn phải còng lưng, ý ạch vác cái cây thánh giá ở lứa tuổi trẻ con.” Thực ra, phải nhìn nhận rằng Khoa có những câu thơ rất quý và rất lạ, lúc trẻ con mà đã viết được những câu “thần đồng” như trên mà người lớn không thể viết nổi.

Mình đã có cảm giác thật kỳ lạ khi ngồi một mình lúc ba giờ khuya ở dưới chân Bụt Trần Nhân Tông nơi vòm đá hang cọp phía sau chùa Bảo Sái gần đỉnh chùa Đồng. Nơi đó và giờ đó là lúc Trần Nhân Tông mất. Người từ chùa Hoa Yên lúc nữa đêm đã nhờ Bảo Sái- một danh tướng cận vệ và đại đệ tử thân tín – cõng Người lên đây.

Bảy trăm năm sau, giữa đêm thiêng Yên Tử, ngồi một mình trong đêm lạnh, đúng nơi và khoảng ba giờ khuya lúc đức Nhân Tông mất Lắng nghe tiếng lá cây gạo trên 700 tuổi rơi rất mỏng lúc canh khuya. Bóng của Phật Nhân Tông mờ mờ ngồi nghiêm ngồi yên bình thản lưng đền. Lúc đó vụt hiện trong đầu mình bài kệ “Cư trần lạc đạo” của đức Nhân Tông, bài thơ Yên Tử “đề Yên Tử sơn, Hoa Yên Tự” của Nguyễn Trãi và văng vẳng trong thinh không thăm thẳm vô cùng bài thơ chiêu tuyết Nguyễn Trãi “đêm Côn Sơn” của Khoa. Mình phục Khoa quá!

Khoa ơi, hãy tin mình đi. Những câu thơ thần đồng sức người không viết được. Khoa đã may mắn chạm được mạch tâm linh dân tộc, như tiếng đàn bầu ngân lên từ ruột trúc, mới viết được những câu thơ hay và lạ đến thế. Khoa ngẫm xem những câu thơ sau đây của Nguyễn Trãi tả Bình minh trên Yên Tử thật đúng là thần bút: “Non thiêng Yên Tử, đỉnh kỳ phong. Trời mới ban mai đã rạng hồng. Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả. Nói cười lồng lộng giữa không trung. Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu. Cỏ cây chen đá rũ tầng không, Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng”

Bình minh Yên Tử, https://thungdung.wordpress.com/yentu/

Nguyễn Trãi viết thơ trên đỉnh Yên Tử lúc ban mai, gần 5 giờ sáng. Vậy Người leo núi từ khi nào? Đi từ hôm trước hay đi từ lúc nửa đêm như đức Nhân Tông? E chỉ có Yên Tử trả lời.

* Phản hồi từ: TRẦN ĐĂNG KHOA @Hoàng Kim Cám ơn bác đã yêu quý cậu Khoa. Nhưng chuyện đã qua lâu rồi, chúng ta hãy để cậu “yên giấc ngàn thư”, vì cu cậu cũng đã xong phận sự. Tôi chỉ tò mò, sao bác lên Yên Tử giữa đêm? Bác lại có nhiều vốn liếng về Yên Tử và Trần Nhân Tông, giá bác làm thơ hay viết bút ký, tùy bút về Đêm Yên Tử thì hay biết mấy. Đặc biệt là không khí Yên Tử. Đã có nhiều bài thơ, ca khúc rất hay viết về vùng đất này. Thêm một tấm lòng và góc nhìn nữa của HK cũng sẽ làm cho YT phong phú thêm đấy.

Cảm ơn Trần Đăng Khoa đã khuyến khích mình viết về Yên Tử. Hôm trước Búi Anh Tấn, tác giả của cuốn sách Đàm đạo về Điếu Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông) 405 trang, được nhiều người yêu thích, cũng đã khuyến khích mình như ý của Khoa. Mình sẽ cố gắng và rất mong được sư góp ý thẩm định của các bạn.

Hoàng Kim

RƯỢU NÚI

Lò Cao Nhum

Bạn đến
Mời ngồi xếp bằng tròn trên núi
Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời.

Bát rượu trăng rằm
Mong hồn vía bạn đừng thất lạc
Cầu cụ ông, cụ bà cây si, cây đa
Gái bản nụ hoa, trai mường cây nghiến
Ngửa bàn tay cũng da
Úp bàn tay cũng thịt.

Rượu nhà tôi
Ủ từ lá sắc rừng gai
Chắt từ củ mài hốc đá
Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài.

Rượu nhà tôi
Có ngọt mật ong vách đá
Có chua măng ướp chum vò
Có cay của bạn tình cắn nhầm hạt ớt
Có đắng của em chồng phải lòng chị dâu.

Rượu nhà tôi
Rượu buộc chỉ cổ tay
Thắp lửa tình chiêng, tình trống
Đã uống vắt kiệt chum mà uống
Đã say đổ tràn tình mà say.

Nào bạn ơi
Cụng bát cùng rẻo cao muôn đời
Chụm bền ngọn núi
Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời.


Nhà thơ Lò Cao Nhum đọc bài thơ Rượu núi

Lời bình của nhà thơ NGUYỄN ĐỨC MẬU

Mở đầu bài thơ Rượu núi là mấy câu thơ giản dị theo kiểu mời khách đến nhà. Tác giả ngỏ lời rất mộc mạc, chân chất nhưng cũng biết lấy cái cớ mời bạn để nói về thứ rượu rất riêng của bản mình. Bởi lẽ vừa là chủ nhà, Lò Cao Nhum vừa là nhà thơ. Từ hương vị của rượu núi anh mở rộng biên độ để phát triển ý tưởng và tạo được những câu thơ gần với ngạn ngữ, giầu sự đúc kết, cô đọng: Gái bản nụ hoa, trai mường cây nghiến/ Ngửa bàn tay cũng da/ Úp bàn tay cũng thịt.

Lò Cao Nhum giới thiệu về rượu núi bằng chi tiết và hình ảnh rất thật: Ủ từ lá sắc rừng gai/ Chắt từ củ mài hốc đá/ Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài…, tuy nhiên tác giả không dừng lại ở chi tiết, hình ảnh, anh có những câu nói về cái “cay” cái “đắng” của rượu thật đột biến: Có cay của bạn tình cắn nhầm hạt ớt/ Có đắng của em chồng phải lòng chị dâu… Câu thơ hay không phải vì vần điệu mà vì sự liên tưởng gợi mở. Và sau khi đã giới thiệu cái men say của rượu núi, tác giả buông một câu mời thật hào phóng: Đã uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ tràn tình mà say.

Ở đoạn kết bài thơ, sức khái quát được nâng lên. Từ động tác uống rượu thường ngày, tác giả viết: Cụng bát cùng rẻo cao muôn đời/ Chụm bền ngọn núi… Câu thơ có sự dồn nén, hàm xúc gợi cho người đọc những suy nghĩ về mối quan hệ thương yêu của bè bạn, chòm bản xa gần. Toàn bộ bài thơ Rượu núi được viết bằng bút pháp giản dị, giầu chất dân tộc. Phải chăng Rượu núi là thứ rượu chan chứa tình đời, tình người, và chính những câu thơ hay trong bài cũng là men rượu chắt ra từ cuộc sống?

Trong cuộc thi truyện ngắn và thơ năm 1996 do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức, bài thơ Rượu núi đã giành được vị trí xứng đáng trong số các giải thưởng, thực sự là một đóng góp độc đáo cả về ý lẫn tình.