Ngày mới yêu thương

e3d04-rose2banimation
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG. Ngày mới yêu thương gồm các bài mới : Chào ngày mới 20 tháng 6; Chờ, Lâm Cúc bình thơ “Gặp” của Phan Chí Thắng; Tiếng Anh cho em. Tái cân bằng Trung Mỹ ở châu Á; Tài liệu VOA Special English. Tài liệu luyện nghe đọc và dịch thuật tiếng Anh nông nghiệp; Câu chuyên tình yêu (Love Story Piano & Violin Duet); Ban mai (nhạc phẩm yêu thích Symphony of light của Frederic Delarue – biên tập video bởi Andreea Petcu).

Chào ngày mới 20 tháng 6


CNM365. Chào ngày mới 20 tháng 6. Tết Đoan Ngọ ngày 5 tháng 5 âm lịchTết giết sâu bọ hay Tết Đoan dương, là một ngày Tết truyền thống tại  Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên; cũng là ngày giỗ Quốc mẫu Âu Cơ, ngày Vía Bà ở Việt Nam. Năm 1867Chiến tranh Pháp-Đại Nam: Pháp chiếm thành Vĩnh Long lần thứ 2. Phan Thanh Giản tuẫn tiết sau khi mất thành.  Năm 1837Nữ vương Victoria bắt đầu trị vì, bà là quân chủ trị vì lâu nhất trong lịch sử Anh Quốc. Năm 1810 – ngày sinh Thái hậu Từ Dụ, Thái hậu nhà Nguyễn Việt Nam (mất năm 1902). Năm 1895 – Hoàng đế Đức Wilhelm II khánh thành kênh đào Kiel băng qua bán đảo Jylland, hiện là thủy đạo nhân tạo bận rộn nhất trên thế giới. xem tiếp…

LamCuc

CHỜ …

Lâm Cúc

Khi đọc được bài thơ thích, lòng mừng như vừa được tặng quà.

Gặp

Sáng nay ra ngõ gặp đường
Qua chợ thấy mú, lên phường đụng quan
Sa chân vấp phải đoạn đàng
Phố đông rặt những vội vàng lấn chen
Nắng trời nát mặt lọ lem
Cành cao vất vưởng cũ mèm câu thơ
Tháp chuông rầu rĩ nhà thờ
Tìm không ra cái bất ngờ lọt tai

Nhìn mình thấy thõng hai vai
Phú Xuân cỏ lút, Đồng Nai sông tàn.

Phan Chí Thắng

Tại sao thích bài thơ “Gặp” của anh Phan Chí Thắng? Vì tôi có nỗi chờ đợi của mình trong bài thơ này.

Chờ một điều gì đó mới mẻ.

Cuộc sống đang mòn đi trong sự trì trệ quen thuộc. Đáng buồn hơn, sáo rỗng và giả dối đang trở thành quen thuộc, chiếm lĩnh từng phần của con người và đang trên tư thế, chiếm trọn cả phần người trong nhiều cá nhân. Nhiều cá nhân trở thành đám đông!

Tục ngữ có câu : “ Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”.

Tác giả bài thơ đã bước ra đường, trong tâm thế chờ đợi để học hỏi, để vui mừng, để nâng mình lên “ một tầm nào đó”…Hoặc gặp gỡ những người có thể nâng đất nước, xã hội lên một tầm nào đó như đã hoài mong đợi.

Nhưng, ngậm ngùi thay, “ra ngõ gặp đường. Lên phường đụng quan”. Sa chân, dù là cao tốc phẳng lì vẫn “vấp phải đoạn đàng” nhiều bất trắc.

Sáng nay ra ngõ gặp đường
Qua chợ thấy mú, lên phường đụng quan
Sa chân vấp phải đoạn đàng
Phố đông rặt những vội vàng lấn chen
Nắng trời nát mặt lọ lem
Cành cao vất vưởng cũ mèm câu thơ

Ai chẳng biết ra ngõ gặp đường. Lên phường không đụng quan thì đụng nhà thơ à? Tác giả cũng rõ mười mươi những điều ấy, liệt kê lại cái đã biết trong thơ mình nhằm khắc họa một điều khác, đó là điều tác giả mong đợi, khao khát thấy: “cái bất ngờ lọt tai”.

Làm kinh tế mà dừng lại ở một điểm là tự suy thoái. Sống trong xã hội lập đi, lập lại những điều quen thuộc tiềm ẩn vô vàn bất trắc, bất an như trộm cắp chực chờ đâu đó quanh nhà. Bước ra đường phập phồng vì sợ tai nạn giao thông. Lê tàu xe sợ cướp giật. Bữa cơm thì sợ mọi món ăn điều chứa chất độc…Sợ liên miên và nhìn những cái quen thuộc ẩn chứa nhiều bất an như vậy lập đi, lập lại quanh cuộc sống, khác nào nhìn chính sợi thòng lọng ngày càng siết nhỏ vòng, quanh trái tim?

Phải tìm cái gì đó phá vỡ những quen thuộc đang dần trở thành bức bách. Ví dụ như Hà Nội đang tuyên chiến với nói tục để hy vọng vãn hồi văn hóa đang tuột dốc thê thảm.

Suốt một ngày lang thang trên con đường tìm kiếm của mình, tác giả chỉ nhìn thấy mình trong hình hài lõng khỏng, với đôi vai xuôi thõng. Tôi chắc hôm đó trời về chiều rồi, con đường vắng vẻ, nhưng không có mưa. Chỉ trong lòng người, miên man rơi một cơn mưa buồn ngậm ngùi:

“Nhìn mình thấy thõng hai vai
Phú Xuân cỏ lút, Đồng Nai sông tàn”

Người thõng hai vai là người hoặc không đủ sức gánh vác, hoặc không muốn gánh vác, hoặc muốn gánh vác cũng không thể làm được. Trước cuộc đời của con người không thể gánh vác ấy là “ Phú Xuân cỏ lút, Đồng Nai sông tàn”. Tác giả hy vọng gặp được, hay thấy được Người sẽ làm cho Phú Xuân thay cỏ bằng hoa, làm cho Đồng Nai cuộn trào trở lại những cơn sóng tung mình qua mọi vật cản hòa vào biển rộng?

Tôi thích bài thơ, dù bài thơ không có câu chữ hay, không có nghĩa ẩn, nghĩa bóng chồng chồng, lớp lớp; không có cả hình ảnh gợi tình, gợi cảnh miên man. Toàn bài thơ chỉ có một điều đó là nói lên sự thật!

Chao ôi! Đã bao nhiêu lâu rồi tôi mới được đọc một bài thơ nói thật? Một bài thơ không tô hồng, không vẽ cánh cho bắp cải?

Vàng quí vì vàng ít. Kim cương quí hơn vàng vì kim cương ít hơn vàng. Giả sử một ngày nào đó, người ta phát hiện ra một vùng chứa kim cương nhiều đến đổi ai muốn dùng bao nhiêu cứ lấy, lúc đó, kim cương sẽ như là cát bây giờ thôi.

Lâu lắm rồi, không rõ từ khi nào, tôi “đói” cái thật trong thơ, sự dũng cảm khi lột trần vấn đề, đặt nó nguyên bản như cuộc sống vốn có lên ghế thơ, dù sự thật không phải là một tiêu chí tối cần để làm nên bài thơ, hay một bài thơ hay.

Bài thơ “Gặp” có 10 câu. Nhưng nếu không có hai câu cuối, tôi có thể không còn thích bài thơ nữa. Với tôi, trong mỗi câu thơ gặp được chữ thơ hay đã sướng. Trong từng bài thơ, đọc được câu thơ hay là hạnh phúc long lanh.

Tiếng Anh cho em

Học song ngữ Anh Việt đối chiếu
qua các trích đoạn “Tôi có một giấc mơ”

“So sánh “giấc mơ Trung Quốc” của Chủ tịch Tập với giấc mơ Mỹ nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai hệ thống chính trị và xã hội. Tập tán dương thành công của Trung Quốc trong “trẻ hóa dân tộc” bằng cách khai thác những tài năng và năng lực của người dân trong việc phục vụ nhà nước. Ngược lại, giấc mơ Mỹ ca ngợi sự thành công của cá nhân mạnh mẽ – những người đạt được vị trí xã hội cao hơn và giàu có hơn bằng cách vượt qua những trở ngại gây ra bởi các quy ước hoặc thành kiến xã hội hoặc chính quyền lạm dụng quyền lực của mình, hoặc do may mắn. Mỹ muốn Trung Quốc thực hiện theo các giá trị của mình, nhưng các lãnh đạo Trung Quốc cho rằng họ đang bị lật đổ.”

“Comparing President Xi’s “Chinese dream” with the American dream highlights the difference between the two political and social systems. Xi extols China’s success in “rejuvenating the nation” by harnessing the talents and energies of its people in service of the state. By contrast, the American dream extols the success of the rugged individual who achieves upward social mobility and material prosperity by overcoming obstacles posed by social conventions or prejudices or authorities abusing their power, or sheer bad luck. The US would like China to adopt its values but the Chinese leadership considers them subversive.”

Xem thêm:
Tôi có một giấc mơ, Martin Luther King
Tôi có một giấc mơ, Wikipedia tiếng Việt
Tôi có một giấc mơ, Hoàng Kim


Biển Đông vạn dặm

Tái cân bằng Trung Mỹ ở châu Á?

Báo Mỹ, tờ The New York Rewiew of Books  có bài bình luận mới, rất đáng chú ý ngày 19. 6. 2015 của tác giả George Soros:  A Partnership with China to Avoid World War (Xây dựng mối quan hệ đối tác với Trung Quốc nhằm tránh cuộc chiến tranh thế giới, người dịch Nguyễn Hoàng Mỹ Phương, trích dẫn trên trang Viet-Studies). Tổng thống Mỹ Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Bắc Kinh, tháng 11 năm 2014, ảnh Pete Souza/ Nhà Trắng trên trang The New York Rewiew of Books. xem tiếp….

VOA Learning English
không chỉ là tiếng Anh cho em mà còn là tình yêu cuộc sống

Tinhyeucuocsong

Agriculture Report

  • 3:03

Cocoa Smuggling Increases in West Africa
  bởi VOA Learning English

Conflicts Place Heavy Demands on World Food Program

Video yêu thích
Love Story (Piano & Violin Duet)
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim  Ngọc Phương Nam  Thung dung  Dạy và học  Cây Lương thực  Dạy và Học  Tình yêu cuộc sống  Kim on LinkedIn  Kim on Facebook

Ngày mới yêu thương

Chaongaymoi
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG. Ngày mới yêu thương gồm các bài: Quên (thơ của Phan Chí Thắng);  Nhớ (thơ Hoàng Kim); Kim Dung Gia Quốc và hai con (ảnh Nguyễn Sơn Nam); Những ngày kỷ niệm ( chùm ảnh Lớp Trồng trọt 2A Thu Nguyễn);  Sen hồng ngày hạ (ảnh Nguyễn Tuyết Hạnh); Tiếng Anh cho em (tài liệu luyện dịch tiếng Anh nông nghiệp); Ban mai (nhạc phẩm yêu thích Symphony of light của Frederic Delarue – biên tập video bởi Andreea Petcu).

PhanChiThang
QUÊN

Phan Chí Thắng

Tôi người vốn tính hay quên
Chia tay em, đã quên liền, lạ không?
Bây giờ em đã lấy chồng
Tôi quên ngay chính nỗi lòng của tôi.

Tôi quên cái cách em cười
Cái câu em dạ, cái lời em thưa
Tôi quên chiều ấy đứng chờ
Bồn chồn góc phố bụi mờ mắt say.

Tôi quên cả một đêm dài
Hôn em – vĩnh viễn một đời nụ hôn
Tôi quên hết những lúc buồn
Câu vui, chuyện giận, nỗi hờn với em.

Thế là tôi cũng đã quên
Như ngàn năm cách xa em mất rồi.

Quên thì quên hết.
Hỡi ôi
Mà sao vẫn nhớ là tôi quên nàng!

NhoNHỚ

Hoàng Kim

Anh chẳng quên được em rồi
Hỡi ơi anh lại nhớ rồi em ơi
Nhớ hơi, nhớ tiếng em cười
Nhớ câu hờn giận, nhớ lời em trao.

Nhớ làm sao những khát khao
Mò kim đáy biển, hái sao trên trời.
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”.(*)

Ở đâu nhà bé, bóng em … (**)
Một trời thương nhớ, thương em cháy lòng.
Nợ em đầy tuổi thanh xuân
Vần thơ tôi chở mênh mông nỗi niềm.

Hoàng Kim

Xem thêm:
(*)  CA DAO VIET NAM (khuyết danh, http://www.thivien.net)
(**) Ở ĐÂU, TA NỢ, Thơ Phan Chi Thắng
https://hoangkimvietnam.wordpress.com/2010/09/13/phan-chí-thắng/

DungQuoc
Kim Dung Gia Quốc và hai con (Album ảnh Nguyễn Sơn Nam)

LopTT2A
Nhungngaykyniem
VeTruong

Những ngày kỷ niệm (chùm ảnh của Thu Nguyễn) xem tiếp tại đây…
Gia đình Nông nghiệp và Lộc xuân xem tiếp tại đây

SenHongTuyetHanh
Sen hồng ngày hạ (ảnh Nguyễn Tuyết Hạnh)

Tiếng Anh cho em
Biasachsan2015

SUSTAINABLE MANAGEMENT OF CASSAVA IN ASIA
From Research to Practice

By Reinhardt Howeler and Tin Maung Aye


FOREWORD

Cassava is one of the most popular crops in Asia’s uplands for its flexibility in cropping systems, its ability to produce well in challenging conditions and for its multiple uses – providing food, animal feed, and income to support farming families. But although cassava has a reputation as an easy crop to grow, it requires good management in order to get good yields year after year, while protecting the soil and water resources.

The world of agriculture is changing quickly, and cassava is not immune to this change. On the one hand, the market for cassava and cassava products is growing in several Asian countries, with the potential to become more lucrative. Many new, higher yielding varieties are available for farmers to use, and their knowledge about crop and soil management has grown steadily.

Yet at the same time, pests and diseases are growing in importance and can often impact yields. Their control requires very good knowledge and careful integrated management practices. There are many options for managing soil preparation, planting density, weeds and harvesting. The production of high-quality planting material (stakes or seed) is a kind of invisible benefit that is often not fully appreciated by growers, and understanding and implementing the inputs and practices that contribute to long-term optimized productivity is fundamental to a cassava farmer’s success. For example, soil fertility management is the core practice for long-term success for many cassava farmers.

But the right combination of practices will be specific for each farm. Farmers who grow cassava often do not have easy access to good information on best management practices. In most countries, the extension systems for providing technical advice to cassava farmers are non‑existent or not as well developed as for rice or maize, for example. The experts, charged with providing that advice – usually extension agents, sales representatives of companies providing inputs, such as fertilizer or pesticides, or the technical outreach staff of processing companies – typically work with many crops and many farmers, or may have a commercial interest in advice that motivates the purchase of specific products or services. Most technologies developed for cassava are designed to be environmentally friendly, that is, they do not rely on high inputs of chemicals or destructive practices. It is important that technologies that are disseminated and promoted take full advantage of this concern for the environment.

This book aims to provide well-founded and unbiased information on managing the cassava crop for maximum profitability and household well-being, while protecting the soil for long-term sustainability. It is based on the experience and research results from many decades, especially in Asia but also in Africa and Latin America. Much of the information was developed by the International Center for Tropical Agriculture (CIAT) – with headquarters in Cali, Colombia, and a regional office for Asia, previously in Bangkok, Thailand, and currently in Hanoi, Vietnam – and partner institutions throughout the region. These partners are mentioned throughout the manual in discussion of the relevant experiments or technologies. Many farmers themselves participated in developing research ideas and solutions through a process of Farmer Participatory Research (FPR). This has been a key part of assuring the practical relevance of the results.

The book is designed both for those who provide advice directly to farmers, as well as the teachers who train students to become extension agents, agronomists, or industry representatives. It can also serve to provide advice and information directly to well-informed farmers, who can understand some of the more technical information and apply it for their own needs and conditions. No manual can provide detailed advice at the individual farm level, but it will give good guidance for extension agents and others who work with farming communities to adjust and adapt to specific needs. We invite national partners to use this manual freely to develop additional material for local training and extension purposes.

The authors of this book, Drs. Reinhardt Howeler and Tin Maung Aye, have worked extensively with a broad range of partners, on experiment stations and on farmer fields across the region. The work summarized in this manual represents the best available advice from more than 50 years of combined research experience and work with farmers to understand their real-life challenges and opportunities.

This manual would not have been possible without the support of the Nippon Foundation. This support involved more than two decades of funding for research, training, and network development activities throughout Southeast Asia. CIAT gratefully acknowledges the key role of the Nippon Foundation, both in the research initiatives that developed the information included in this manual, and the support to write, translate, and produce it.

CIAT’s Cassava Program is pleased to present this manual for use in managing cassava production systems that will optimize the short- and long-term benefits for farmers who grow the crop, while protecting the environment.

Clair Hershey

Leader, CIAT Cassava Program

Bản dịch tiếng Việt
QUẢN LÝ BỀN VỮNG SẮN CHÂU Á: Từ Nghiên cứu đến Thực hành
(Tác giả: Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye; Chủ biên dịch: Hoàng Kim
với sự cộng tác của: Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai)

LỜI NÓI ĐẦU Sắn là một trong những loại cây trồng thích nghi vùng cao phổ biến nhất ở châu Á vì tính linh hoạt của nó trong hệ thống cây trồng, khả năng sản xuất thuận lợi trong điều kiện khó khăn và tính đa dụng cung cấp thực phẩm, thức ăn gia súc, nguồn thu nhập cho hộ nông dân. Mặc dù sắn có tiếng là cây dễ trồng, nó vẫn đòi hỏi phải quản lý tốt để có được năng suất cao qua các năm, đi đôi việc bảo vệ nguồn đất và nước.

Thế giới nông nghiệp đang chuyển đổi một cách nhanh chóng và cây sắn cũng không tránh khỏi sự thay đổi này. Một mặt, thị trường sắn và sản phẩm sắn đang tăng trưởng ở một số nước châu Á với khả năng thu lợi nhiều hơn từ cây này. Nhiều giống sắn mới năng suất cao là có giá trị đối với hệ thống sản xuất và sự hiểu biết về quản lý đất và cây trồng tối ưu đã được tăng đều đặn. Đồng thời, vấn đề sâu bệnh cũng trở nên quan trọng và thường ảnh hưởng đến sản lượng cây trồng. Kiểm soát chúng đòi hỏi kiến thức tốt và quản lý cẩn thận. Có nhiều lựa chọn trong hoạt động quản lý cây trồng như chuẩn bị đất, mật độ trồng, quản lý cỏ dại và các công cụ thu hoạch. Việc sản xuất cây giống chất lượng cao (homhạt giống) có lợi thế tiềm năng mà thường không được đánh giá đầy đủ bởi người trồng sắn. Quản lý độ phì đất là thực hành cốt lõi mang lại thành công lâu dài cho nhiều nông dân trồng sắn. Hiểu biết thấu đáo các yếu tố đầu vào và thực hiện những điều đó góp phần tối ưu hóa năng suất, về lâu dài là nền tảng thành công của một người nông dân trồng sắn.

Nhưng kết hợp đúng thực tiễn cần được cụ thể cho mỗi trang trại. Những người nông dân trồng sắn thường không dễ tiếp cận thông tin chuẩn mực về thực hành quản lý tốt nhất. Ở hầu hết các nước, hệ thống khuyến nông cung cấp tư vấn kỹ thuật cho người nông dân trồng sắn không phát triển như đối với cây lúa hoặc cây ngô và thỉnh thoảng còn không có. Các chuyên gia tư vấn thường là cán bộ khuyến nông, các đại diện bán hàng của công ty cung cấp nguyên liệu đầu vào như phân bón hay thuốc trừ sâu, hay các chuyên viên kỹ thuật của các công ty chế biến. Họ thường làm việc với nhiều loại cây trồng và nhiều nông dân, hoặc có thể có các lợi ích thương mại với động cơ mua bán sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể. Hầu hết các công nghệ được phát triển cho sắn được thiết kế thân thiện môi trường, nghĩa là không phụ thuộc vào đầu vào cao của hóa chất hoặc các thực hành bất lợi. Điều quan trọng là công nghệ được phổ biến và phát huy tận dụng mối quan tâm đối với môi trường.

Cuốn sách này nhằm mục đích cung cấp thông tin có cơ sở tốt về quản lý cây sắn để nông hộ thu lợi tối đa và phát triển tốt hơn trong khi vẫn bảo tồn độ phì nhiêu của đất và phát triển bền vững lâu dài. Nó được dựa trên những kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu từ nhiều thập kỷ qua, đặc biệt không chỉ ở châu Á mà còn ở châu Phi và châu Mỹ Latinh. Rất nhiều thông tin được phát triển bởi sự tham gia làm việc giữa Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới (CIAT) – có trụ sở ở Cali, Colombia, và một văn phòng khu vực châu Á, trước đây đặt ở Bangkok, Thái Lan và hiện nay đang đặt ở Hà Nội, Việt Nam – với các tổ chức đối tác trong khu vực. Các đối tác này được đề cập trong tài liệu thông qua hướng dẫn thảo luận các thí nghiệm hoặc công nghệ liên quan. Nhiều nông dân tham gia phát triển ý tưởng và giải pháp trong chương trình nghiên cứu có sự tham gia của nông dân (FPR). Đây là một phần quan trọng trong việc đảm bảo sự phù hợp thực tế của các kết quả.

Cuốn sách được thiết kế cho những người cung cấp tư vấn trực tiếp đến nông dân, cũng như các giáo viên, nhà nông học, sinh viên, cán bộ khuyến nông, đại lý nông sản và công nghiệp chế biến cùng những ai quan tâm đến quản lý đất và cây trồng bền vững đối với sắn ở châu Á. Sách cũng được dùng để cung cấp thông tin tư vấn trực tiếp đến nông dân, những người hiểu biết kỹ thuật canh tác sắn để vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Tuy sách chưa có hướng dẩn chi tiết tại trang trại cá nhân nhưng nó là cẩm nang hướng dẫn cho cán bộ khuyến nông và những người làm việc với cộng đồng nông dân để điều chỉnh thích hợp với nhu cầu cụ thể. Chúng tôi mời các đối tác quốc gia sử dụng hướng dẫn này một cách tự do để phát triển các tài liệu bổ sung cho mục đích đào tạo và khuyến nông địa phương.

Các tác giả cuốn sách này là tiến sĩ Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye đã làm việc rộng khắp với một loạt các đối tác, các trạm thí nghiệm và trên đồng ruộng của nông dân. Công việc tóm tắt trong tài liệu này thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt.

Sách hướng dẫn này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự hỗ trợ của quỹ Nippon. Những gắn bó hơn hai thập kỷ hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và phát triển mạng lưới trên khắp Đông Nam Á. CIAT trân trọng cảm ơn vai trò quan trọng của Quỹ Nippon trong các sáng kiến nghiên cứu phát triển thông tin bao gồm hướng dẫn này, cũng như hỗ trợ biên dịch và sản xuất tài liệu hướng dẫn.

Chương trình sắn CIAT hân hạnh giới thiệu hướng dẫn này để sử dụng trong việc quản lý hệ thống sản xuất trồng sắn nhằm tối ưu hóa lợi ích ngắn và dài hạn cho nông dân cũng như để bảo vệ môi trường.
Clair Hershey

Trưởng Chương trình sắn CIAT