Làng Minh Lệ quê tôi

LÀNG MINH LỆ QUÊ TÔI
Hoàng Kim

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

Ta về với Linh Giang
“Cao Cát Mạc Sơn
Sơn Hà Cảnh Thổ
Văn Võ Cổ Kim”

Linh Giang thông đại hải
Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn
Đình Bảng Cao Lao Hạ
Miếu cổ thủy sơn thần”.


Con về Đá Đứng Rào Nan
Cồn Dưa Minh Lệ của làng quê hương
Linh Giang chảy giữa vô thường
Đôi bờ thăm thẳm nối đường tử sinh.

Bến Lội, Bốn Miếu tinh anh
Cồn Dưa, Đá Đứng kết thành Bắc Nam
Rào Nan, Chợ Mới, Nguồn Son
Làng tôi khoai lúa thơm hương quê nhà.

Nam tiến của người Việt
Hoành Sơn với Linh Giang
Cao Biền trong sử Việt
Đá Đứng chốn sông thiêng

Đất Mẹ vùng di sản
Nguồn Son nối Phong Nha
Quảng Bình đất và người
Trúc Lâm Trần Nhân Tông

Quảng Bình với Trường Sơn
Minh triết Hồ Chí Minh
Ban mai trên sông Son
Đào Duy Từ còn mãi

Lời dặn của Thánh Trần
Lời thề trên sông Hóa
Ban mai đứng trước biển
Vị tướng của lòng dân

Linh Giang Đình Minh Lệ
Cầu Minh Lệ Rào Nan
Bến Lội Đền Bốn Miếu
Ta về với Linh Giang

xem tiếp 20 đường dẫn tại Làng Minh Lệ quê tôi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lang-minh-le-que-toi; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ta-ve-voi-linh-giang; https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/lang-minh-le-que-toi/

TA VỀ VỚI LINH GIANG

LINH GIANG ĐÌNH MINH LỆ

ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIẾNG

BẾN LỘI ĐỀN BỐN MIẾU

LỜI THỀ TRÊN SÔNG HÓA
Hoàng Kim


Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang
Ta đến nơi đây chẳng một lần
Lời thề sông núi trời đất hiểu
Lời dặn của Thánh Trần

Sông Hóa ơi hời, ơi Linh Giang
Quê hương liền dải tụ trời Nam
Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa
Hoàng Gia trung chính một con đường.

Rào Nan Đá Đứng chốn sông thiêng
Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình
Minh Lệ đình xưa thương làng cũ
Nguyện làm Hoa Đất của quê hương.

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/loi-the-tren-song-hoahttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-dat-cua-que-huong

LINH GIANG TRONG LỊCH SỬ

Sông Gianh (Linh Giang) Hoành Sơn, Đèo Ngang, Sông Nhật Lệ, thành phố Đồng Hới, Di sản thiên nhiên thế giới vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là sáu biểu trưng đặc sắc của tỉnh Quảng Bình về địa chính trị, du lịch sinh thái, lịch sử, địa lý, văn hóa. Sông Gianh là biểu tượng chính.

SÔNG GIANH là một con sông chảy trên địa phận tỉnh Quảng Bình, bắt nguồn từ khu vực ven núi Cô Pi cao 2.017 m thuộc dãy Trường Sơn, chảy qua địa phận các huyện Minh Hóa, Tuyên Hoá, Bố Trạch, Quảng Trạch và thị xã Ba Đồn để đổ ra biển Đông ở Cửa Gianh. Dòng chảy ở thượng nguồn theo hình chữ V với hướng chủ đạo là tây nam-đông bắc. Từ điểm giáp ranh ba xã Thanh Thạch, Hương Hóa, Kim Hóa bắt đầu chảy theo hướng tây bắc-đông nam. Tới ranh giới hai xã Kim Hóa và Lệ Hóa nó tiếp nhận thêm nước từ một chi lưu nhỏ phía hữu ngạn, chảy về từ phía tây. Phía dưới thị trấn Ba Đồn khoảng 3 km, sông Gianh tiếp nhận thêm nước từ chi lưu phía hữu ngạn, chảy ra từ khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng. Sông Gianh dài khoảng 160 km, cắt qua quốc lộ 1 ở tây bắc Cửa Gianh 5 km. Tổng diện tích lưu vực là 4.680 km², độ cao trung bình 360 m, độ dốc trung bình 19,2%, lượng nước năm 7,95 km³ ứng với lưu lượng nước trung bình năm 252 m³/s, môđun dòng chảy năm 53,8 l/s.km². Mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 11, chiếm khoảng 60-75% lượng dòng chảy hàng năm. Dòng cát bùn khoảng 1,93×105 tấn/năm, ứng với độ đục trung bình năm 192 g/m³ và hệ số xâm thực 168 tấn/km² năm. Tàu thuyền có thể qua lại đoạn sông ở hạ lưu, từ Cửa Gianh đến Ba Đồn 6 km, đến thị trấn Đồng Lê huyện Tuyên Hóa là 47 km. Đoạn thượng lưu từ Khe Nét trở về nguồn dài khoảng 70–80 km, lòng sông nhiều thác ghềnh. Khoảng 20 km đầu nguồn đá đổ ngổn ngang trong lòng sông. Tới Đồng Tâm, lòng sông rộng khoảng 80 – 90 m, lớn nhất 110–115 m. Đoạn từ các xã Phù Hóa, Quảng Tiên tới thị xã Ba Đồn (17°45′25″B 106°25′10″Đ), lòng sông có 5 cồn, đảo nhỏ trên sông, trong đó đảo dài nhất khoảng 3,8 km rộng nhất khoảng 0,8 km. Ngay dưới Ba Đồn lòng sông rộng tới 1 km.

Hoành Sơn và Đèo Ngang là ranh giới thời Đại Cồ Việt và Chiêm Thành sau khi người Việt giành được độc lập (939). Trước thời kỳ Nam Tiến của người Việt (1069) đã có bản đồ thời Đường lưu dấu địa giới.Sông Gianh là ranh giới thời Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài (1570-1786) với sự xung đột vũ trang gần nửa thế kỷ (1627-1672). Chiến trường chính là miền Bố Chính (Quảng Bình). Đèo Ngang gắn với huyền thoại “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 1558, Nguyễn Hoàng, một danh tướng thời Lê Trung Hưng, con thứ của Nguyễn Kim, sợ bị Trịnh Kiểm mưu hại, đã xin vào trấn thủ Thuận Hoá, mở đầu nhà Nguyễn sau này. Trong cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, quân Trịnh án ngữ ở đèo Ngang, nhưng thực sự ranh giới Bắc Nam là sông Gianh. Bờ bắc sông có chợ Ba Đồn là nơi quân Trịnh mua đồ ăn uống và trao đổi hàng hóa. Bờ nam sông Gianh có một số thành lũy chắc chắn do Đào Duy Từ tổ chức xây đắp, với luỹ Thầy dài 18 km, luỹ Trường Dục dài 10 km. Di tích Lũy Thầy, Quảng Bình quan, thành quách của thời Trịnh Nguyễn nay vẫn còn.

Đá Đứng chốn sông thiêng là dấu tích huyền thoại Cao Biền trong sử Việt tại Làng Minh Lệ quê tôi ở Nam Sông Gianh. Đá Đứng chốn sông thiêng là một trong năm dấu ấn Nam Tiến của người Việt để Việt Nam Tổ quốc thống nhất toàn vẹn, quy giang sơn về một mối. Đá Đứng chốn sông thiêng cùng với Thiên Thụ Sơn ở Huế; Núi Đá Bia Phú Yên; Văn Miếu Trấn Biên Đồng Nai; Thiên Cấm Sơn An Giang là năm bài học lớn địa chính trị, lịch sử, văn hóa. Việt Nam tổ quốc tôi vận mệnh đất nước và mỗi gia đình Việt đã cuốn theo cơn lốc của các sự kiến lịch sử với giặc ngoại xâm Pháp Nhật Tàu giày xéo quê hương, Pháp bại Nhật hàng Bảo Đại thoái vị, Việt Minh cướp chính quyền, Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam nối tiếp nhau tàn phá quê hương tôi. Gia đình tôi đang êm ấm rơi vào cảnh lưu tán, không nhà “Hoành Linh vô gia huynh đệ tán” như ngoại truyện đã ghi chép . Mời đọc đường link lần lượt của năm mục từ: 1) Làng Minh Lệ quê tôi; 2) Linh Giang Đình Minh Lệ; 3) Nguồn Son nối Phong Nha; 4) Đất Mẹ vùng di sản; 5) Đá Đứng chốn sông thiêng.

Bạn Hoàng Minh Thuần ở TU Bình Thuận đã trao đổi tổng quát: Dạ anh. Em cũng nghĩ khai thác được tour du lịch sông nước kết hơp thắng cảnh từ Cầu sông Gianh lên Ba Đồn, Chợ Mới, bến Lội đền Bốn Miếu, bến chợ Troóc, Phong Nha – Kẽ Bàng, động Thiên Đường, động Sơn Đoòng chẳng khác gì thắng cảnh TRÀNG AN… là điều kiện thuận lợi để quê ình phát triển.

Làng Minh Lệ quê tôi

Linh Giang Đình Minh Lệ gồm năm ảnh chọn lọc. Ảnh một làTa về với Linh GiangẢnh hai là Linh Giang Ảnh ba là Ngã ba sông Chợ Mới(điểm trung tâm kết nối chợ Đồn, cầu Gianh, cảng Thanh Khê, Nguồn Son nối Phong Nha Kẻ Bàng, Thiên Đường, Sơn Đoòng chợ Troóc, Chợ Mới nối Rào Nan Cầu Minh Lệ, Bến Lội Đền Bốn Miếu, Đá Đứng chốn sông thiêng trong quần thể kinh tế quốc phòng du lịch sinh thái lịch sử văn hóa Ảnh bốn là Cầu Minh Lệ Rào Nan ảnh năm là Đình Minh Lệ có Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa được xếp cấp Quốc gia theo Quyết định số 1430 QĐ/BT ngày 12 tháng 10 năm 1993 của Bộ Văn hóa Thông tin.

Cầu Gianh bắc qua sông Linh Giang ở Quảng Bình Chi lưu Rào Nan và Nguồn Son hợp lưu hai nhánh Linh Giang và hợp lưu với Rào Nậy gần Quảng Hải, Chợ Đồn, Thanh Khê, nơi có đường Quốc lộ 1 thiên lý Bắc Nam và Cầu Gianh. Cuối sông này là biển Quảng Bình

Người thợ cầu lão thành cũng là nhà khảo cứu địa chí lịch sử văn hóa Nguyễn Quốc Toàn (Bulukhin) có bài viết Về với Linh Giang rất sâu sắc đã được nhà báo TORO đăng trên tạp chí Pháp Lý ở Hà Nội (xem toàn văn cuối bài). Ông Nguyễn Quốc Toàn người Quảng Bình xa xứ, ông thật nặng lòng với quê hương. Ông viết:

Người Việt từ xa xưa vẫn tâm niệm rằng thần sông thiêng lắm. Có chuyện kể: “Đô phủ thành hoàng thần quân” là thần sông Tô Lịch đã hoá phép phá tan nghìn cân đồng của Tiết độ sứ Cao Biền dùng yểm long mạch (Lịch sử Việt Nam tập I. NXB KHXH 1976), Biền chuốc lấy hoạ là cứ xây thành Đại La lên lại đổ.

Cách nay 1200 năm, nhà thơ Hésiod người Hy Lạp khuyến cáo những người qua sông rằng: “Đừng bao giờ qua những con sông với dòng chảy vĩnh hằng mà trước đó chưa đọc lời cầu nguyện, đừng mãi mê ngắm những dòng chảy tráng lệ của chúng mà trước đó chưa nhúng hai tay khỏi những điều ác vấy bẩn, chúng sẽ kéo cơn cuồng nộ của các thần linh trút xuống đầu mình, sẽ phải chịu những đòn trừng phạt khủng khiếp” (Từ điển Biểu tượng văn hoá thế giới của Jean Chevarier và Alain Gheerbrant. NXB Đà Nẵng và trường viết văn Nguyễn Du 1.1976).

Vậy thì thay tên đổi họ một dòng sông đã chính danh cách nay hơn 17 thế kỷ không hiểu người ta có cầu nguyện gì không? Lạ thay, các bậc “Trị quốc bình thiên hạ” thuở xưa lưu lại hậu thế trước tác chất đầy lầu tàng thư, nhưng không thấy một dòng nào nói nguyên do đổi tên Linh Giang thành Sông Gianh.

Chỉ thấy sách “Tấn thư châu quận ký” nói rằng: “Năm Thái Khang thứ 10 chia quận Tây Quyển mà lập huyện Thọ Linh, sông chảy qua Thọ Linh là Linh Giang” (Đất nước Việt Nam qua các thời đại của Đào duy Anh). Thái Khang thứ 10 là năm 290. Năm 1875 vua Tự Đức sai Quốc sử quán soạn sách “Đại Nam nhất thống chí”, trong mục “hình thế” tỉnh Quảng Bình có ghi: ” … Phía bắc liền với Hoan Châu, núi cao thì có núi Đâu Mâu, và núi Thần Đinh, sông lớn thì có sông Linh Giang (Gianh) và sông Nhật Lệ” (Đại Nam nhất thống chí (thời Tự Đức) Tập II trang 12. Chữ Gianh trong ngoặc đơn là do dịch giả Phạm Trọng Điềm và người hiệu đính là đào Duy Anh chua vào. Sách ĐNNTC viết bằng chữ Hán , mà chữ Hán chỉ có “Danh” chứ không có “Gianh”) .

Như vậy tính đến năm 1875 thì tên sông Linh Giang đã được dân gian gọi trong suốt 1586 năm, gần 16 thế kỷ. Mãi đến năm 1876 sử gia Đặng Xuân Bảng soạn sách “Sử học bị khảo” lại chép: “Quảng Bình có sông Gianh phát nguồn từ Thanh Lãng..” Tính cho đến năm 1998 thì tên sông Gianh mới có 123 năm. Cũng ở thời điểm 1998 tên Linh Giang đã có 1708 tuổi gấp gần 14 lần tuổi của tên sông Gianh.

Người ta đã luận bàn khá nhiều về từ Gianh chưa rõ lai lịch và ngữ nghĩa này. Một giáo sư sử học danh tiếng phỏng đoán: Gianh có lẽ là Ranh trong ranh giới (Trịnh Nguyễn phân tranh) đọc theo tiếng Bắc. Nếu phỏng đoán này đúng thì có nên dùng nỗi đau chia cắt âý để đặt tên cho chiếc cầu không?. Người khác cho rằng Gianh là đọc “trại” của từ Giang (trong Linh Giang) mà ra. Chẳng hạn người ta đã đọc “trại” Minh Lễ thành Minh Lệ, Lũng Quýt thành Dung Quất, Betulông (Baietoulon) thành Bái Tử Long v.v…Nhưng hai từ Linh Giang không thể đọc “trại” thành một từ Gianh được.

Linh Giang có nghĩa là sông thiêng liêng, huyền bí, còn Gianh không có trong từ điển Hán Việt, cũng không phải tiếng Việt phổ thông mà chỉ là phương ngữ (miền Bắc) chỉ cây cỏ tranh lợp nhà. Có lẽ ngoài câu thành ngữ của người miền Bắc nói về sự nghèo túng: “Nhà gianh vách đất” thì từ Gianh không thấy xuất hiện ở đâu nữa.

Đấy là ngược nguồn lịch sử để tìm tên sông, ngõ hầu góp một tiếng nói với các nhà Địa – Văn hoá khi làm sách địa chí, chứ người viết không có ý định kiến nghị đổi tên sông Gianh trở lại sông Linh Giang. Bởi tên sông Gianh dẫu sao cũng là một phần máu thịt của khúc ruột miền Trung từ 123 năm nay rồi.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dinh-minh-le-linh-giang-1.jpg

Đình Minh Lệ xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn) Tỉnh Quảng Bình có Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa Di tích được xếp cấp Quốc gia theo Quyết định số 1430 QĐ/BT ngày 12 tháng 10 năm 1993 của Bộ Văn hóa Thông tin. Đình được xây dựng vào thời ‘Hồng Đức Lê Triều’. Trùng tân năm Bảo Đại nhị niên năm 1927, trùng tu vào các năm 1998, 2003, 2011 và chống xuống cấp năm 2018. Đình thờ Thành hoàng làng Trung lang Thượng tướng quân Trương Hy Trọng và các vị Thần tổ của bốn họ Trương, Nguyễn, Hoàng, Trần. Đình là nơi diễn ra các lễ hội của làng, nơi gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu trong thời kỳ vận động thành lập Đảng, khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc. Đình là chứng nhân sự hi sinh to lớn và những chiến công xuất sắc của xã Quảng Minh đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Bia dựng năm 2018.

Tài liệu dẫn

Đình Minh Lệ, ảnh Hoàng Minh Đức

Đình Minh Lệ được xây dựng năm 1464 dưới triều vua Lê Thánh Tông, hoàng đế thứ 5 của nhà Lê sơ, là nơi thờ tự bốn vị Đức Thần Tổ Trương, Hoàng, Trần, Nguyễn. Thuở sơ khai, đình Minh Lệ là ngôi đình chung của cả năm thôn “Nhất xã ngũ thôn”: Minh Lệ (Quảng Minh), thôn Đoài (Diên Trường – Quảng Sơn), Vĩnh Ninh (Hoà Ninh – Quảng Hoà), Vĩnh Phước, Vĩnh Lộc (Quảng Lộc), trích dẫn theo bài “Qua một ngôi đình suy nghĩ về người xưa” của nhà giáo Hoàng Hữu Sam đăng trên Tạp chí Nhật Lệ năm 2001 và sách “Thời lửa đạn” theo hồi ký của nhà giáo Nguyễn Hữu Thanh

ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIÊNG
Hoàng Kim


Hoàng Gia Cương thơ hiền có thơ hay và ảnh đẹp gợi cho Hoàng Kim viết chùm bài nghiên cứu địa chí lịch sử văn hóa với các mục từ chính: Đất Mẹ vùng di sản/ Đá Đứng chốn sông thiêng / Linh Giang / Đình Minh Lệ / Nguồn Son nối Phong Nha/ Cầu Minh Lệ Rào Nan/ Bến Lội Đền Bốn Miếu / Đào Duy Từ còn mãi / Nam tiến của người Việt /

Đá Đứng chốn sông thiêng là điểm địa linh phong thủy quan trọng, là mốc địa giới, huyền thoại Cao Biền trong sử Việt, đánh dấu sinh lộ Nam tiến của người Việt. Cao Biền là người được Lý Thái Tổ tôn vinh “Hoàng Thành Thăng Long công lớn Cao Vương” đã lưu hậu thế tấm bản đồ Việt Nam thời Đường với chú giải về con người thế núi mạch sông đất Việt khi mà Cao Biền làm Tỉnh Hải Quân năm 864 – 868 và Cao Tầm tiếp nối năm 868 – 878 (hình). Cao Biền cũng lưu miếu thờ và huyền thoại “cao cát mạc sơn”, người đã ném bút thần tạo nên Đá Đứng Làng Minh Lệ. Vợ Cao Biền là Lã Thị Nga, nay dân làng vẫn thờ làm thành hoàng của nghề tằm tơ dệt lụa tại làng Vạn Phúc, Hà Đông. Mộ Cao Biền ở thôn 5 đầm Môn xóm Cát, Tuy An, Phú Yên vẫn lưu truyền huyền thoại ngàn năm. Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy tuyến phòng thủ ba tầng thủ hiểm ở Quảng Bình của đại kế ‘Bắc chặn cường địch, Nam tiến mở rộng” do Đào Duy Từ kỳ tài đất Việt thời Lê Trịnh Nguyễn khởi xướng và khéo tổ chức. Chuyện ‘Đá Đứng chốn sông thiêng’ nhằm tuyển chọn và lưu lại các ghi chép không nỡ quên như Đức lớn Trần Thái Tông, Bảy Núi Thiên Cấm Sơn.

VỀ VỚI LINH GIANG
Nguyễn Quốc Toàn


*Bóc tờ lịch ngày 27 tháng 11 năm 1999 tôi chợt nhớ ra cây cầu bắc qua sông Gianh vừa tròn một tuổi (1). Ở tuổi “thôi nôi” nó đủ sức mạnh của Phù Đổng Thiên Vương. Trên lưng “cậu bé” một tuổi ấy đã có ngót nửa triệu xe ô tô lăn bánh. Vòng cung ánh điện nối hai bờ cứ làm tôi liên tưởng một câu trong kinh phật: “Cây cầu là cái bản nhiên nối liền các thế giới không cho chúng ta phân tán. Khi qua cầu đêm sẽ sáng lên như ban ngày vì thế giới vô biên chỉ là ánh sáng” (2). Hành trình đến thế giới vô biên lại bắt đầu từ hữu hạn ngày 27 tháng 11 năm 1998. Hôm đó mưa gió đầy trời, nước sông Gianh lên cao chảy xiết, xe cộ ùn lại hai bờ vì phà buộc phải ngừng hoạt động. Bộ giao thông vận tải quyết định làm lễ khánh thành cầu sớm hơn dự kiến. Từ rất sớm, dân chúng đã đông nghịt hai bờ, đứng chen chúc trên 9 nhịp cầu. Bao nhiêu già trẻ gái trai là bấy nhiêu kiểu che mưa chắn gió: tơi chằm, nón lá, áo bạt, áo mưa, vài nhựa… có người liều ướt, rét run cầm cập nhưng nét mặt vẫn rạng rỡ hân hoan. Tôi lần xuống gầm cầu phía bắc tìm tấm bảng đồng khắc tên cầu nhưng không thấy. Trong bụng mừng thầm “cầu Gianh” chỉ là tên tạm để đọc diễn văn khánh thành chứ chưa phải tên chính thức. Tên chính thưc của nó hẳn là cầu Linh Giang. Trước mố cầu là một nắm hương cháy lập loè, toả khói thơm phức. Lư hương là những viên đá hộc được ghép lại. Chắc chắn lễ dâng hương này không nằm trong chương trình khánh thành cầu. Người nào đây muốn thỉnh linh hồn những ai vì đại nghĩa mà bỏ mình trên dòng sông và cáo yết thần sông rằng cây cầu đã được khai sinh? Người Việt từ xa xưa vẫn tâm niệm rằng thần sông thiêng lắm. Có chuyện kể: “Đô phủ thành hoàng thần quân” là thần sông Tô Lịch đã hoá phép phá tan nghìn cân đồng của Tiết độ sứ Cao Biền dùng yểm long mạch (3), Biền chuốc lấy hoạ là cứ xây thành Đại La lên lại đổ. Cách nay 1200 năm, nhà thơ Hésiod người Hy Lạp khuyến cáo những người qua sông rằng: “Đừng bao giờ qua những con sông với dòng chảy vĩnh hằng mà trước đó chưa đọc lời cầu nguyện, đừng mãi mê ngắm những dòng chảy tráng lệ của chúng mà trước đó chưa nhúng hai tay khỏi những điều ác vấy bẩn, chúng sẽ kéo cơn cuồng nộ của các thần linh trút xuống đầu mình, sẽ phải chịu những đòn trừng phạt khủng khiếp” (4). Vậy thì thay tên đổi họ một dòng sông đã chính danh cách nay hơn 17 thế kỷ không hiểu người ta có cầu nguyện gì không? Lạ thay, các bậc “Trị quốc bình thiên hạ” thuở xưa lưu lại hậu thế trước tác chất đầy lầu tàng thư, nhưng không thấy một dòng nào nói nguyên do đổi tên Linh Giang thành Sông Gianh. Chỉ thấy sách “Tấn thư châu quận ký” nói rằng: “Năm Thái Khang thứ 10 chia quận Tây Quyển mà lập huyện Thọ Linh, sông chảy qua Thọ Linh là Linh Giang” (5). Thái Khang thứ 10 là năm 290. Năm 1875 vua Tự Đức sai Quốc sử quán soạn sách “Đại Nam nhất thống chí”, trong mục “hình thế” tỉnh Quảng Bình có ghi: ” … Phía bắc liền với Hoan Châu, núi cao thì có núi Đâu Mâu, và núi Thần Đinh, sông lớn thì có sông Linh Giang (Gianh) (6) và sông Nhật Lệ”. Như vậy tính đến năm 1875 thì tên sông Linh Giang đã được dân gian gọi trong suốt 1586 năm, gần 16 thế kỷ. Mãi đến năm 1876 sử gia Đặng Xuân Bảng soạn sách “Sử học bị khảo” lại chép: “Quảng Bình có sông Gianh phát nguồn từ Thanh Lãng..” Tính cho đến năm 1998 thì tên sông Gianh mới có 123 năm. Cũng ở thời điểm 1998 tên Linh Giang đã có 1708 tuổi gấp gần 14 lần tuổi của tên sông Gianh. Người ta đã luận bàn khá nhiều về từ Gianh chưa rõ lai lịch và ngữ nghĩa này. Một giáo sư sử học danh tiếng phỏng đoán: Gianh có lẽ là Ranh trong ranh giới (Trịnh Nguyễn phân tranh) đọc theo tiếng Bắc. Nếu phỏng đoán này đúng thì có nên dùng nỗi đau chia cắt âý để đặt tên cho chiếc cầu không?. Người khác cho rằng Gianh là đọc “trại” của từ Giang (trong Linh Giang) mà ra. Chẳng hạn người ta đã đọc “trại” Minh Lễ thành Minh Lệ, Lũng Quýt thành Dung Quất, Betulông (Baietoulon) thành Bái Tử Long v.v…Nhưng hai từ Linh Giang không thể đọc “trại” thành một từ Gianh được. Linh Giang có nghĩa là sông thiêng liêng, huyền bí, còn Gianh không có trong từ điển Hán Việt, cũng không phải tiếng Việt phổ thông mà chỉ là phương ngữ (miền Bắc) chỉ cây cỏ tranh lợp nhà. Có lẽ ngoài câu thành ngữ của người miền Bắc nói về sự nghèo túng: “Nhà gianh vách đất” thì từ Gianh không thấy xuất hiện ở đâu nữa.

Đấy là ngược nguồn lịch sử để tìm tên sông, ngõ hầu góp một tiếng nói với các nhà Địa – Văn hoá khi làm sách địa chí, chứ người viết không có ý định kiến nghị đổi tên sông Gianh trở lại sông Linh Giang. Bởi tên sông Gianh dẫu sao cũng là một phần máu thịt của khúc ruột miền Trung từ 123 năm nay rồi. Nhưng cây cầu hiện đại đầu tiên qua sông Gianh có nhất thiết phải mang tên “Cầu Gianh” không? Nếu sông Gianh còn thêm nhiều cầu, chẳng nhẽ phải gọi chúng là cầu Gianh 1, cầu Gianh 2, cầu Gianh 3 như điểm danh binh sĩ trong quân ngũ. Ngày 20.9.1997 Bộ Giao thông vận tải có quyết định 2468 đổi tên Quốc lộ 29 thành Quốc lộ 12 thì Bộ và lãnh đạo tỉnh Quảng Bình có thêm quyết định đặt tên  cầu qua sông Gianh là cầu Linh Giang cũng phải lẽ. Cho đến nay, tôi cũng như nhiều người hằng ước mong cây cầu qua sông Gianh mang chính cái tên khởi thuỷ của dòng sông cách nay 1708 năm. Ví dầu những giọt nước Linh Giang xa xưa đã trôi về miền cổ tích thì dòng sông vẫn luôn luôn là chính nó. CẦU LINH GIANG bắc qua sông Gianh là hình ảnh liên tục của quá khứ và hiện tại. Tên gọi ấy chính là âm thanh hình thành bởi tác động của những sức mạnh tạo nên nó, vì hai từ Linh Giang giàu sức gợi cảm, phù hợp với tâm linh người Việt, chuẩn xác về tu từ, làm nhớ lại cội nguồn một vùng đất miền Trung với vô vàn biến cố lịch sử. Sự phong phú về tên gọi những cây cầu trên một dòng sông và sức hàm chứa nội lực văn hoá của mỗi tên gọi ấy làm sang trọng thêm cho một vùng đất. Có lẽ vì thế chăng mà trên sông Hương của cố đô Huế có các tên cầu Tràng Tiền, Phú Xuân, Bạch Hổ, trên sông Hồng của thủ đô Hà Nội có những cầu Chương Dương, cầu Long Biên, cầu Thăng Long…

Qua sông phải dọn mình là cách nói của nhà thơ. Dâng hương cầu nguyện là thành tâm của người tin có thần sông và linh hồn tồn tại. Tôi làm nghề thợ cầu, nên mỗi lần qua sông lại vơ vẩn nghĩ về tên sông tên cầu – những “định hình” có vẻ như không còn gì để mà nghĩ ngợi nữa. Nhưng xem ra cũng chưa hẳn thế. Xưa kia hoàng đế La mã là Pontifex nay là danh hiệu của Giáo hoàng có nghĩa là người bắc cầu. Pontifex vừa là người bắc cầu vừa chính là chiếc cầu ấy (4). Vị thiền sư người Nhật ở thế kỷ 13 là Nichiren nói về đức Phật rằng: “Đối với chúng sinh ngài là chiếc cầu lớn, giúp chúng vượt qua ngả chéo 6 con đường” (4) thì ra khối vật chất bê – tông cốt thép khi đã thành cây cầu, nó nghiễm nhiên đi vào biểu tượng văn hoá nhân loại như một sự tất yếu. Vậy tìm đặt một cái tên xứng đáng cho cây cầu qua sông Gianh mới hết tuổi “thôi nôi” đã có sức mạnh Phù Đổng kia cũng đáng để chúng ta suy nghĩ lắm thay. (Thợ cầu Bulukhin, bài và ảnh, đăng ngày 13. 5. 2009)
(1) Bài này viết từ 27.11.1999; (2) Kinh Chadogya Upanishad; (3) Lịch sử Việt Nam tập I. NXB KHXH 1976; (4) Từ điển Biểu tượng văn hoá thế giới của Jean Chevarier và Alain Gheerbrant. NXB Đà Nẵng và trường viết văn Nguyễn Du 1.1976; (5) Đất nước Việt Nam qua các thời đại của Đào duy Anh;. (6) Đại Nam nhất thống chí (thời Tự Đức) Tập II trang 12. Chữ Gianh trong ngoặc đơn là do dịch giả Phạm Trọng Điềm và người hiệu đính là đào Duy Anh chua vào. Sách ĐNNTC viết bằng chữ Hán , mà chữ Hán chỉ có “Danh” chứ không có “Gianh”

LÀNG MINH LỆ QUA THƯ TỊCH
Trương Minh Dục


Trong quá trình hình thành và phát triển, do yêu cầu quản lý phát triển xã hội, một đất nước, hay một địa phương tên gọi có thay đổi tùy theo các chế độ chính trị, các vương triều và cả theo tập quán dân gian. Làng Minh Lệ hiện nay của tôi cũng không phải là ngoại lệ. Thời gian gần đây, nhiều anh em yêu quê hương tranh luận về tên làng Minh Lễ hay Minh Lệ?. Tranh luận là tốt, để hiểu hơn về quá trình hình thành và phát triển của quê hương. Bỡi lẽ, ai cũng yêu quê hương, nhưng hiểu đầy đủ, sâu sắc về quê hương thì chưa có điều kiện đầy đủ về tư liệu và thời gian. Trong mùa Covid-19, tôi dành thời gian đọc lại những thư tịch cổ, đặng cung cấp cho những ai quan tâm đến quá trình hình thành và phát triển của Làng.

*

Làng Minh Lệ hiện nay được hình thành là kết quả của chính sách di dân khai phá vùng đất Bố Chính dưới thời Lê Thánh Tông sau thắng lợi bình Chiêm năm 1471. Trong sách “Ô châu cận lục” của Dương Văn An, được viết năm 1552, ấn hành năm 1555, cho biết, châu Bố Chính (gồm vùng đất Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hoá và Minh Hoá ngày nay) có 68 xã (nhưng trong liệt kê là 69), trong đó có xã Thị Lễ (xã lúc ấy là đơn vị hành chính thấp nhất). Nhưng trong thư tịch về đình làng Vĩnh Phước đề cập đến 5 thôn của xã Thị Lễ lúc bấy giờ là: An Phước, An Lộc, An Hoà, An Lễ, An Trường. Trong sách “Phủ biên tạp lục” được viết năm 1776, Lê Quý Đôn chỉ đề cập đến các địa danh từ nam sông Gianh là châu Nam Bố Chánh, còn châu Bắc Bố Chánh thuộc Đàng ngoài nên không được đề cập đến.

Trong Sắc phong Thành hoàng cho ông Trương Công Chấn tự Hy Trọng năm Quang Trung thứ hai (Kỷ Dậu- 1789), người có công “bình lồi thiết xã”, Thị Lễ có 5 thôn (trong sắc phong không ghi tên thôn).Như vậy, Trương Công Chấn là Thành Hoàng của 5 thôn chứ không phải của riêng Minh Lễ (nay là Minh Lệ).

Trong Sắc phong cho Ông Nguyễn Cơ (có tài liệu ghi Nguyễn Quốc Cơ) năm Tự Đức thập tam niên (1860), có ghi quê quán thôn Yên Lễ, xã Thị Lễ, tổng Thuận Thị, huyện Minh Chính, phủ Quảng Trạch. Đến giai đoạn từ năm 1885 đến 1889, vua Đồng Khánh tổ chức “Tổng điều tra” dân số, dân cư và tổ chức hành chính, phủ Quảng Trạch có 4 huyện: Bình Chính, Minh Chính, Bố Trạch và Minh Hoá. Huyện Minh Chính có hai tổng Thuận Thị và Thuận Lễ. Tổng Thuận Thị có 18 xã, thôn, phường. Địa danh Minh Lễ lần đâù tiên xuất hiện là cấp xã (làng). Còn các thôn Diên Trường, Hoà Ninh, Vĩnh Lộc, Vĩnh Phước là các thôn trực thuộc tổng Thuận Thị. Dưới thời Pháp thuộc, làng là tổ chức hành chính cơ sở.

Cho đến năm 1927, trong bài thơ Làm đình, cụ phó lý lúc bấy giờ là Hoàng Liễn còn viết tên làng là Làng Minh Lễ. Trong kháng chiến chống Pháp, tổ chức hành chính cơ sở là xã. Xã Minh Trạch lúc đó là các xã Quảng Minh, Quảng Sơn, Quảng Thủy bây giờ. Cho đến bây giờ chưa tìm thấy tên làng Minh Lệ xuất hiện ở tài liệu Hán Nôm nào. Có người cho rằng từ Minh Lệ là từ Minh Lễ mà ra do người vùng ta thường nói các từ dấu ngã thành nặng và theo thời gian nói và viết trùng nhau. Tôi cho rằng đó cũng có cơ sở.

Giải nghĩa từ Lễ, trong Ô Châu cận lục, phần tổng luận về phòng tục, có viết: “Cao Lao, Thị Lễ nối nghiệp văn nho”; (…) “danh lừng Thị Lễ lắm văn nhân theo phép lễ nghi”. Còn trong bài thơ Làm đình, một bài thơ ngắn và rất hay ca ngợi vùng đất quê hương nhất là phong thủy của đình làng, văn hoá và con người làng Minh Lễ, cụ Hoàng Liễn có giải thích: Làng Minh Lễ: Minh là cờ, Lễ là nghĩa. Minh tắc thiêng chấp phí kính chỉ”. Như vậy, chữ Lễ trong Thị Lễ, sau đó là Minh Lễ là phép tắc lễ nghi. * Viết ra như vậy không phải để đổi tên làng, mà để các thế hệ hậu sinh biết đúng về gốc tích của quê hương mình.

Những thông tin tóm lược này để mọi người tham khảo. Mong ai có tư liệu gì chỉ giúp để bổ sung thêm. Ảnh đầu trang: Môt số tài liệu tham khảo để viết stt này

Nguồn: Trương Minh Dục ngày 18 Tháng 4  

QUA MỘT NGÔI ĐÌNH SUY NGHĨ VỀ NGƯỜI XƯA
Bút ký Hoàng Hữu Sam


“Qua đình ngã nón trông đình. Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Ngày nay, qua đình Minh Lễ, xã Quảng Minh – Quảng Trạch, các trai tân gái lịch không còn nhìn thấy, như xưa kia, đây là nơi hò hẹn, nơi gửi gắm tâm tình cho nhau trước khi đi đến xây dựng cuộc sống vợ chồng “Bách niên giai lão” trên mảnh đất truyền thống đầy huyền thoại này.

Đình Minh Lễ được xây dựng từ thế kỷ XIX, là nơi thờ vị Thành Hoàng làng cùng các vị Thần tổ của bốn Họ trong làng, là nơi sinh hoạt văn hóa, hội hè, đình đám và bàn công việc làng. Đình được trùng tân vào năm Bảo Đại nhị niên.Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử đất nước và quê hương trong một thời gian quá dài, nhất là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đình làng Minh Lễ đã “ Trơ gan cùng tuế nguyệt” với những bức tường đổ nát nằm trong những lùm cây hoang dại và um tùm. Cũng chính trong hoang tàn đổ nát ấy mà Đình Minh Lễ trở thành nơi hội họp bí mật của cán bộ cách mạng trong xã, nơi thu giấu vũ khí đánh giặc ngoại xâm, nơi rèn luyện ý chí quật cường của những người con quê hương căm thù chế độ cũ, nơi vang lên tiếng mõ đình inh ỏi sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945 để toàn dân cướp chính quyền và bầu lên Ủy ban Hành chính lâm thời đầu tiên của xã Minh Lễ.

Xuất phát từ ý thức muốn bảo vệ lấy những gì là di tích văn hóa lịch sử của quê hương, một số con em của làng có tâm huyết với mảnh đất quê nhà đã làm đơn gửi lên Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh xin trùng tu lại ngôi đình. Được sự động viên, giúp đỡ của chính quyền địa phương và của Sở Văn hóa -Thông tin, đơn xin trùng tu đình làng Minh Lễ được chấp nhận. Năm 1993 Đình Minh Lễ được Bộ Văn hóa – thông tin ra quyết định công nhận Di tích Văn hóa – Lịch sử của xã Quảng Minh. Qua hai đợt Đình Minh Lễ đã được trùng tu lại đẹp đẽ, khang trang, đứng sừng sững giữa bầu trời xanh của một miền quê đất nước. Ở đây, nhờ trí nhớ hoàn hảo của ông Hoàng Hữu Xứng mà tôi đã viết lại tất cả các bức hoành phi và câu đối – đều được ghi lại hầu như theo đúng nguyên tác thư pháp xưa.

Đình làng Minh Lễ vẫn giữ được thư pháp tuyệt vời của hai ông Tôn Thất Mai, Hoàng Tinh Sà (thân sinh tác giả- NBT) – Hai người được triều Vua nhà Nguyễn mời vào kinh đô viết sắc bằng cho toàn quốc -được nhân dân làng Minh Lễ mời viết giúp những bức hoành phi và câu đối cho Đình làng. Với các yếu tố: kiến trúc, hoa văn, bề dày lịch sử, giá trị tinh thần biểu hiện qua nội dung các bức hoành phi và câu đối, nên Đình làng Minh Lễ mới được công nhận Di tích Văn hóa – Lịch sử. Tất cả đó tạo nên niềm tự hào chính đáng của nhân dân làng Minh Lễ từ trước tới nay.*

Vậy chúng ta hãy nghe các cụ xưa đã nói những gì qua các bức hoành phi và câu đối ở Đình? *

Thoạt đầu, bước tới cổng Đình, chúng ta bắt gặp ngay đôi câu đối ở hai cột trụ cổng bằng chữ Nho đại tự mà đứng xa hàng năm mét vẫn có thể nhìn đọc được: Tiền hướng Linh Giang thông đại hải / Hậu liên Ngùi Lĩnh tiếp cao sơn. Câu đối đã nói lên vị trí to rộng giữa một khoảng trời đất bao la: mặt trước hướng về sông Gianh (Linh Giang) để thông ra biển cả. Mặt sau liền với núi Ngùi (Ngùi Lĩnh ) và tiếp đến núi cao của dãy Trường Sơn hùng vĩ. Ở cổng phụ cạnh cổng chính, có đôi câu đối đã đem chúng ta trở về với cội nguồn làng quê: Làng Minh Lễ ngày xưa được gọi là Bến Lội – nơi hợp lưu của dòng Rào Nan với một nhánh nhỏ là Rào Đá, do phù sa của Rào Đá tuôn ra mạnh nên chỗ hợp lưu ấy bị cạn lại mới gọi Bến Lội – người ta có thể lội qua được – đó là: Minh Lễ chương danh đình dĩ cố /Thiệp tân tích sử thủy trường thanh.*Giang sơn Bến Lội – Minh Lễ còn là một mảnh đất vô cùng đẹp đẽ, một địa linh đã sản sinh ra những người con kiệt xuất cho đất nước và quê hương: Sơn cao thủy tú phong quang vô hạn hảo / Địa linh nhân kiệt hoằng thạc xuất nhân trung (Phong cảnh núi sông cao đẹp vô cùng. Đất linh thiêng sinh ra những con người hào kiệt, thật là vĩ đại ngang trời mây) *

Các cụ còn làm cho con cháu thấy được niềm vui, lòng tin tưởng quê hương ngày càng đổi mới, ngày càng hướng tới văn minh: Cách trí lương phương thiên khái văn minh tân vận hội / Trác thành để trụ được chung linh khí cửu Giang Sơn (Mở rộng tầm hiểu biết, trời mở vận hội mới là vận hội văn minh / Gọt dủa cho thành công, đất hun đúc nên khí thiêng của giang sơn cũ). *Được sống trên mảnh đất địa linh nhân kiệt, nhân dân đã thông qua các cụ xưa đã ca ngợi quê hương và biết ơn vị Thành Hoàng đã “Mở mang văn nghiệp, võ công” (Bố võ tuyên văn – một câu trong Sắc phong). Đồng thời phải biết kính trọng và tôn thờ các vị Thần linh đó vừa có công lớn, vừa tăng thêm sức mạnh của núi sông: Tại kỳ thượng tại kỳ tả hữu /Tý nhĩ thọ tỷ nhĩ xí xương ( Kính thờ thần như thần thánh đứng ở trên (bàn thờ) và cả ở hai bên tả hữu (chúng ta). Cầu mong cho được sống lâu và được vẻ vang rực rỡ).Hoặc: Hân yết đại danh thùy vũ trụ / Hiên ngang chính khí tráng sơn hà (Tiếng tăm lừng lẫy hòa trong vũ trụ Chính khí hiên ngang tăng thêm sức mạnh của núi sông)* Đặc biệt, đây là những di huấn, những sự nhắc nhở các thế hệ sau phải tuân thủ theo lễ nghĩa, đồng thời cũng phải luôn luôn nhớ đến tên làng đã đi vào lịch sử, đã có từ thời nhà Trần (thế kỷ thứ XIII).* Bức hoành phi ở giữa:Hội đồng hữu dịch ( Đình làng là nơi hội họp của làng, mà có hội họp thì có trao đổi diễn dịch (như có thảo luận) cho sáng ra những điều lễ nghĩa) Câu này cũng gần nghĩa như chữ Minh Lễ là tên làng, nên các cụ đặt ở gian giữa Đình*

Bức hoành phi bên phải: Tự sự khổng minh ( Việc tế tự phải nghiêm túc như ánh sáng xuyên qua một lỗ nhỏ từ trên mái nhà xuống, nghĩa là rất thành kính)* Bức hoành phi bên trái: Gia hội hợp lễ (Tổ chức các cuộc họp, lễ hội phải đúng theo lễ nghĩa). Ở đây có một vấn đề rất tế nhị nhưng cũng rất quan trọng là: để bảo vệ lấy tên làng mãi mãi đến muôn đời sau, các cụ đã thông qua các bức hoành phi để kín đáo dùng những chữ ghép lại thành tên làng:Lấy chữ “Minh” ở bức hoành phi bên phải ghép với chữ “Lễ” ở bức hoành phi bên trái ghép lại thành Minh Lễ là tên làng đã có từ xưa)* Để chắc chắn hơn nữa, các cụ lại dùng một câu đối ở mặt tiền chính giữa để giữ lấy tên làng: Xa thư cộng đạo văn minh xiển / Hương hỏa thiên thu điển lễ tồn (Những nền nếp đều thống nhất quy về một mối, làm cho ánh sáng văn minh thêm chói lọi. Việc hương khói (thờ phụng) hàng năm vẫn theo điển lễ vẫn còn ( không sai chạy)). Cũng như các bức hoành phi trên, tại câu đối này, lấy chữ thứ 6 của vế 1 ( Minh) ghép với chữ thứ 6 của vế 2 ( Lễ) thành tên làng Minh Lễ.

Ở đây với một trình độ Hán học uyên thâm, các cụ đã sử dụng những từ nguyên rất chính xác để nhắc nhở hậu thế. Xa thư: Xa đồng quỹ,thư đồng văn: Xe thì khoảng cách giữa hai bánh bằng nhau, sách thì viết một thứ chữ. Cho nên ta càng rõ thêm: Giang sơn thống nhất về một mối, nền văn minh sáng tỏ ra. Hương khói ngàn năm cúng tế theo điển lễ vẫn còn.

Vì có tên làng nên hai câu này cũng được viết ở chính giữa mặt tiền của Đình. Kính quý thần khả vị tri hỉ / Bảo hữu dân thượng hữu chế tai (Biết kính quý Thần, có thể nói là thông minh, đã là biết vậy /.Bảo vệ cho người dân lành còn là trách nhiệm (quy chế, chế độ) nữa. Bảo vệ dân đen mà còn hạn chế nữa hay sao !)

Trên đây chỉ xin trích dịch một số nội dung trong các bức hoành phi và câu đối ở Đình làng Minh Lễ từ xa xưa. Giới thiệu một số nội dung các bức hoành phi và câu đối ở Đình làng, người viết bài này chỉ mong đem đến một phần nào những suy nghĩ và ước mong của người xưa đã gửi gắm vào những bức hoành phi và câu đối, để mong quê hương – làng Minh Lễ mãi mãi trường tồn cùng núi sông đất Việt.

Mặc dù đã cố gắng với nhiều công sức, song trình độ có hạn, kính mong được sự góp ý của quý vị độc giả, nhất là các vị con em xã nhà.

Thượng tuần tháng Nhâm Dần, năm Nhâm Ngọ.
H.H.S (Tạp chí Nhật Lệ năm 2001)

Thời lửa đạn – Hồi ký của ông Hoàng Hữu Thanh năm 2013
Hoàng Minh Đức cùng với Hoàng Kim.8 tháng 1, 2019
Vĩ thanh

Chúng tôi sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan. Suốt tám mươi năm bị thực dân Pháp đô hộ, thế hệ cha anh đã bị áp bức một cổ hai tròng. Từ ngày có ánh sáng của Đảng, của cách mạng, thế hệ chúng tôi không cam chịu phận làm tôi tớ cho giặc, không cam phận làm một người dân nô lệ. Chúng tôi đi theo Đảng và Bác Hồ giành lại gấm vóc non sông. Tuổi trẻ của chúng tôi gắn liền với binh đao trận mạc. Chúng tôi vui sướng đón chào cách mạng mùa thu rồi chín năm trường kì kháng chiến. Từ những thiếu niên du kích chúng tôi đã trưởng thành, lớn lên cùng đất nước. Đất nước có chiến tranh. Chúng tôi lại theo bước cha anh xung phong đi giết giặc. Hòa bình lập lại, mỗi người một việc cùng xây dựng quê hương. Có những người thông minh, học giỏi như anh Hoàng Thúc Tấn (con cụ Bộ Trình) làm đến chức Thứ trưởng, Phó chủ nhiệm Văn phòng chính phủ rồi làm Phó đại diện thường trực của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hội đồng Tương trợ Kinh tế (Khối SEV). Các anh em anh đều là những người nổi tiếng của làng. Các anh như Trương Huế, Hoàng Hữu Ban, người thì dạy trường đại học Bách khoa, người làm đến Vụ trưởng. Có những người nổi tiếng như liệt sĩ Nguyễn Hoàng Lưu con cụ Cửu Ngô. Anh đã làm được thước ngắm pháo binh, được giới quân sự thế giới đánh giá cao. Chính nhờ cống hiến xuất sắc của anh Nguyễn Hoàng Lưu cho quân đội, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mời cụ Cửu Ngô ra sống tại Hà Nội cùng các con, cháu cụ. Bạn học cùng lớp với tôi ngày xưa ở trường Tiểu học Thọ Linh đa số tham gia cách mạng và phần lớn họ đã chết. Cũng có những người bám trụ quê hương cầm cày cầm cuốc nay về già lại mang đủ mọi thứ bệnh tật mà qua đời. Có những người cuộc sống còn khổ cực lắm. Dù không làm được ông nọ bà kia, dù không được người đời để ý đến. Nhưng có một điều mà chúng tôi rất tự hào là dù cuộc sống bị đọa đày, nghèo khổ đến mấy, trong chúng tôi không có ai chịu sống hèn, không ai chịu quỳ gối đi làm tay sai cho giặc.

* * *

Rời quân đội tôi đi theo sự nghiệp trồng người. Đất nước lại có chiến tranh. Mĩ – Diệm bội ước hiệp nghị Giơnevơ, âm mưu chia cắt đất nước ta lâu dài. Sông Bến Hải như một nhát cắt đau thương giữa thân mình đất Mẹ Việt Nam. Dải đất miền Trung lại trở thành bãi chiến trường giữa hai trận tuyến. Giặc Mĩ leo thang đánh phá miền Bắc, Quảng Bình trở thành tuyến lửa. Làng tôi trở thành làng mặt trận, thành tọa độ lửa, trọng điểm đánh phá của máy bay địch. Xóm Bắc, xóm Nam lửa cháy ngút trời, hình như tuần nào cũng có người chết. Thế mà người dân Minh Lệ làng tôi vẫn đảm bảo: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Thanh niên Minh Lệ lớn lên nối tiếp nhau lên đường ra mặt trận.

Trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, tôi theo trường sư phạm Quảng Bình đi hết miền đất này đến miền đất khác. Từ Bố Trạch, Tuyên Hóa, Quảng Trạch rồi vào Quảng Ninh, Lệ Thủy, Đồng Hới. Nay ngẫm lại cuộc đời đã hơn tám mươi xuân. Cuộc đời con người sống là cho chết cũng là cho. Trong cuốn tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” của nhà văn Nga Nhicalai Axtơ rốp xki, nhân vật Pa – ven Ca-rơ-sa-ghin đã nói: “Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng phải sống hoài sống phí. Cho khỏi hổ thẹn về dĩ vãng ti tiện và hèn đốn của mình. Để khi nhắm mắt xuôi tay đôi môi ta có thể nở một nụ cười mãn nguyện”.

Tôi đã sống như cha ông mình đã sống, không cúi luồn nịnh bợ, cũng không xỏ xiên tàn ác với người khác. Nối tiếp truyền thống của gia đình, năm đứa con tôi đứa nào cũng ngoan, đứa nào cũng biết thương người. Đứa con đầu của tôi (Hoàng Minh Đức) nuôi hai cháu mồ côi. Đứa con trai của Đức là cháu Hoàng Thanh Hà, hồi đang đi học Hà đã bao lần cứu người bị nạn. Tôi dạy cho các con tôi cái tâm, cái đức để làm người. Tôi nghiệm ra một điều – mình giúp người này thì có người khác giúp lại mình. Giúp người không phải để chờ người trả ơn. Người không trả thì có ông trời trả. Mình sống sao cho cái phúc cái đức để lại cho con cái, cháu chắt mình sau này. Cả năm đứa con tôi sống bằng năng lực lao động của chúng. Ba đứa con ở quê nhà theo nghề dạy học của cha. Hai đứa con trai dạy ở huyện nhà. Đứa con gái thứ tư (Hoàng Thị Lệ) dạy ở trường Chuyên Quảng Bình trong Đồng Hới. Cháu năm nào cũng có học sinh giỏi đạt giải Quốc gia, năm nào cũng có bằng khen của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình. Hai đứa con (thứ ba và thứ năm) vào Nam sống trong thành phố Phan Thiết tỉnh Bình Thuận. Vợ của hai cháu đều làm bác sĩ ở bệnh viện thành phố.

Suốt cuộc đời tôi đi công tác xa nhà. Vợ chồng gặp nhau như ông ngâu bà ngâu. Nhưng mỗi khi về làng tôi lại cùng bà con, xã viên trong đội cày bừa, đập đất, cào vồng khoai, làm cỏ lúa. Tôi về làng hái củi, chặt giang, “ăn” lá nón. Thời làm ăn hợp tác, mỗi ngày công chỉ được vài ba lạng thóc nên trường sư phạm chuyển đến nơi nào tôi cũng tranh thủ cuốc đất tăng gia. Tôi nuôi con lợn con gà trồng khoai trồng sắn chở về nuôi vợ con, phải “Tự cứu mình trước khi trời cứu”.

Có thể nói suốt cuộc đời tôi lao động cho đến lúc già không bao giờ ngơi nghỉ. Về hưu, tôi trồng vườn và chăn nuôi trong thành phố Đồng Hới. Vợ tôi đi nuôi cháu cho các con công tác. Sau hơn năm chục năm xa cách, hai vợ chồng chúng tôi chung sống với nhau không được bao lâu thì lại thay nhau vào bệnh viện. Cuộc đời con người ai rồi cũng có lúc trở về với cỏ. Mỗi con người đều có một số phận, bươn tẩu làm chi cho cực thân. Trời cho ai thì người ấy nhận. Cuối cùng rồi ai cũng nằm sâu dưới ba thước đất. Thân cát bụi lại trở về với cát bụi.

Trước lúc kết thúc cuốn hồi kí này tôi cũng cần phải viết thêm về những con người thế hệ trước tôi, những người nhập ngũ tham gia chiến tranh, một thời đạn bom, một thời máu lửa. Có những người lính già đáng được ghi trong sử sách của làng như các anh Trần Duệ, Trần Hà, Hoàng Xanh, Hoàng Điếu, Hoàng Đăng Duể, Hoàng Tó, Hoàng Phỉa, Hoàng Cam, Hoàng Hữu Đồng, Hoàng Han, Hoàng Hữu Thiền, Trần Quang Nọng, Hoàng Đăng San, Hoàng Chưa (nay mang tên con thường gọi là ông Dộ). …vv. Các anh ra đi chiến đấu từ thuở mái tóc còn xanh, nay về già phơ phơ đầu bạc. Có những người đã nằm lại nơi cánh rừng xa nay thịt xương đã tan vào đất Mẹ.

Trong cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước, các anh Nguyễn Hoàng Lưu, Hoàng Phỉa, Trần Đình Dẻng, Trần Chuể, Trần Ruệ, Trần Quang Chữ, Trần Cừ và bao người khác đã ngã xuống ở chiến trường miền Nam và hai nước bạn Lào, Cămpuchia. Đặc biệt liệt sĩ Trần Đình Dẻng ngã xuống khi đất nước đã im tiếng súng trên hai miền Nam Bắc. Anh là sĩ quan tình báo của Cục 2, anh hi sinh năm 1987 khi đang làm nghĩa vụ quốc tế cao cả ở Cămpuchia.

Trong hai cuộc chiến tranh, nghĩa trang làng ta đã có 186 liệt sĩ nhưng bia mộ ghi sai sót khá nhiều. Anh Hoàng Văn Dạo hy sinh trong trận ca nô địch đỗ bộ lên chợ Mới tháng 4 năm 1947, nhưng bia mộ ghi “hy sinh tháng 12 năm 1947” là sai. Lúc ấy địch chưa đóng đồn Minh Lệ. Em Trần Quang Chữ thì bia mộ khắc là Trần Quốc Chữ. Liệt sĩ Trương Suấc bị thương năm 1949, vết thương tái phát, hy sinh năm 1957 thì ghi là hy sinh năm 1952. Cháu Trương Minh Luật con trai anh tuổi Ngọ (sinh đầu năm 1955)…

* * *

Tôi cũng muốn viết thêm vài nét về dòng họ các anh Hoàng Hữu Xứng, Hoàng Hữu Đản, Hoàng Hữu Sam, những người con họ Hoàng gốc Mạc. Trong làng tôi bà con vẫn nhắc nhiều về dòng họ này. Các anh là những nhà giáo lão thành. Sau cách mạng, anh Hoàng Hữu Xứng làm phó chủ tịch huyện Quảng Trạch, sau nhiều năm dạy học trong tỉnh anh đã ra dạy ngoại ngữ tại trường đại học sư phạm Hà Nội. Con cháu anh đều là những người thông minh, học giỏi và thành đạt. Anh Hoàng Hữu Sam dạy các trường cấp 2, cấp 3 và trường Cao đẳng sư phạm Huế. Đặc biệt anh Hoàng Hữu Đản là nhà Văn, nhà dịch thuật nổi tiếng thế giới. Anh biết nhiều ngoại ngữ, và là một dịch giả uy tín trong mảng văn chương cổ điển Pháp, Hy Lạp, La Mã. Anh dịch các tác phẩm kinh điển của Hy Lạp ra tiếng Việt. Phiên bản Mobile Anh dịch Iliad – Odysée, tác phẩm của Aristophane, Virgil và nhiều tác phẩm sân khấu hài kịch nổi tiếng của La Mã. Anh còn dịch văn học Việt sang Pháp như tập thơ song ngữ “Ánh trăng” – tuyển thơ Việt Nam của nhiều tác giả, “Quà muộn” – tập truyện ngắn của nhà văn Nguyên Hương, “Thi Vân Yên Tử” của Hoàng Quang Thuận, thơ của Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử…Anh còn dịch “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh sang tiếng Anh. Anh là một nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng. Tác phẩm “Bí mật vườn Lệ Chi” đã được sân khấu Idécaf dựng và đạt giải thưởng của Hội sân khấu năm 2000. Ngoài ra anh còn làm thơ, viết chuyên luận về sân khấu và có nhiều bài bút kí xuất sắc.21

Các em, các cháu Hoàng Nghìa (Hoàng Minh Tiến), Hoàng Quý Thân, Nguyễn Thừa, Trần Nghi, Trần Bình, Trần Ngọc Vương, Trương Minh Dục là những Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ cả nước đều biết đến. Cháu Hoàng Minh Tuy một hiệu phó trường Chuyên của tỉnh Quảng Bình người đã được chính phủ phong tặng huân chương lao động.

Bên cạnh hai nhà họ Hoàng gốc Mạc nổi tiếng, con cháu học hành thành đạt nhất nhì làng, còn có những gia đình cuộc sống khó khăn, bần hàn nhưng vẫn nuôi con cái trưởng thành. Thế hệ sau, con cháu chúng ta cũng có những người làm rạng danh cho làng như các con của anh Hoàng Chưa (thường gọi theo tên con đầu- ông Dộ) là Hoàng Trung Trực, Hoàng Kim, những con người thông minh nổi tiếng, kiên cường trong đánh giặc và có bản lĩnh trong nghiên cứu khoa học. Hoàng Trung Trực và Hoàng Kim là hai người lính đã từng lăn lộn trên các chiến trường miền Nam và nước bạn Căm pu chia. Hòa bình, Hoàng Trung Trực tiếp tục ở lại xây dựng quân đội, Hoàng Kim trở lại giảng đường học tiếp rồi dạy trường Đại học Nông lâm thành phố Hồ Chí Minh. Kim là một chuyên gia nông học, một tiến sĩ Khoa học nông nghiệp có tiếng tại Việt Nam. Cháu có nhiều đầu sách tiếng Việt và hai đầu sách chuyên khảo tiếng Anh, là tác giả của 78 bài báo khoa học, trong đó có 41 bài tiếng Anh. Hoàng Kim là tác giả và đồng tác giả của nhiều công trình nghiên cứu khoa học về giống cây trồng tốt. Kim đã tạo ra được giống sắn KM140, đạt giải nhất Hội thi sáng tạo kĩ thuật toàn quốc VÌOTEC lần thứ 10 năm 2010.

Thời lửa đạn – Hồi ký của ông Hoàng Hữu Thanh năm 2013
Hoàng Kim cùng với Hoàng Minh Đức 8 tháng 1, 2019
(Hoàng Kim cảm nhận đọc Thời lửa đạn)

“THỜI LỬA ĐẠN” là tập hồi ký của nhà giáo Hoàng Hữu Thanh, bí danh Nam Sơn sinh ngày 18 tháng 9 năm 1929 tại làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, trú quán số nhà 12, đường Đặng Dung, tiểu khu 10, phường Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Cụ mất năm 2018. Cụ Hoàng Hữu Thanh nguyên là đại đội trưởng đội thiếu niên du kích Minh Lệ huyền thoại, người trinh sát gan dạ, người chỉ huy tài năng năm xưa của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Cụ cũng là thầy giáo ưu tú của Trường Sư phạm 10+3 Quảng Bình thời lửa đạn chống Pháp và chống Mỹ. Cụ đã được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng Ba; Huân chương chống Mĩ cứu nước hạng Nhất; Hai huân chương chiến công hạng Ba; Huy chương vì sự nghiệp giáo dục Việt Nam. Tác phẩm “Thời lửa đạn” là tự truyện đầy ắp thông tin chân thực và sống động về làng Minh Lệ trong khoảng từ năm 1940 đến năm 1975. Đây cũng là những phác thảo rất quý về gia phả, dòng họ, địa chí, văn hóa và quê hương đất và người. Thầy giáo già Hoàng Hữu Thanh, vị trưởng bối đáng kính làng Minh Lệ đã làm được nghĩa cử to lớn vinh danh quê hương nghèo khó, ân tình, anh hùng, địa linh nhân kiệt và vinh danh những thế hệ cầm súng bảo vệ xóm làng. Ông đã kịp lưu lại một mảnh ký ức lớn, rất quý, truyền thần về làng Minh Lệ đất và người. Trang văn của thầy Hoàng Hữu Thanh chắc chắn sẽ có nhiều người và nhiều thế hệ đọc lại. Nhà thơ nhà báo Phan Văn Khuyến nhận xét:” Nhờ năng khiếu bẩm sinh và được học tập, rèn luyện trong ngành sư phạm nhiều năm nên lời văn của thầy Hoàng Hữu Thanh thật trong sáng, giản dị, diễn đạt chính xác các sự kiện cần nói, bố cục súc tích gọn gàng. Tuy là ghi chép theo lối hồi kí nhưng nhờ thực tế nên trong tập hồi kí này có nhiều trang viết rất hay, …Làng Minh Lệ quê tôi “Thời lửa đạn” thân thiết trong lòng tôi. “Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần “Thời lửa đạn” do có cha mẹ và gia đình mình hiển hiện chân thực trong đó. Tôi đã rất xúc động vì nhớ lại tuổi thơ gian khó của người học trò nghèo cha mẹ mất sớm năm xưa trong Bài ca Trường Quảng Trạch “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng”. Nguyễn Khải trong “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại” đã nói: “Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”

xem tiếp Làng Minh Lệ quê tôi

CHÀO NGÀY MỚI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim


Sớm xuân mưa gió thổi
Lắng lòng Lương Phủ Ngâm
Gia Cát Mã Tiền Khóa
An vui cụ Trạng Trình

Gốc mai vàng trước ngõ
Một gia đình yêu thương
Ai thương núi nhớ biển
Tỉnh thức cùng tháng năm

Đọc Văn Nghệ Quảng Minh
QUẢNG BÌNH ĐẤT MẸ ƠN NGƯỜI

DÂNG CẢ TẤM LÒNG
Hoàng Thúc Cảnh

Năm mới cháu chắt tụ lại đây
Để nhớ công ơn của Tổ Bầy
Cùng với tổ tiên bao thế hệ
Xây nên Hoàng Mạc vững đời đời

Xiết bao cảm xúc trước từ đường
Kính dâng cậu mạ một nén hương
Đội ơn cậu mạ nơi tiên cảnh
Che chở chúng con ở hậu phương

Năm mới xin chúc cả mọi người
Bình an hạnh phúc vẹn mười mươi
Nhớ mãi lời khuyên ông để lại
Sống càng chân chính phúc càng dày.

TỰ HÀO
Hoàng Thúc Cảnh

Tự hào biết mấy phúc nhà ta
Một cây đại thụ tuổi trăm già
Ha cây chín chục hai cây tám
Năm cây chụm lại đẹp như hoa

CẢM HỨNG
Hoàng Thúc Cảnh

Một trăm linh một hạnh phúc thay
Lại may gặp hổ buổi xuân này
Quyết cùng hổ vượt Nam sơn ấy
Được rồng chào đón thật là hay

TỰ TÌNH
Hoàng Thúc Cảnh

Trần thế đến nay đoạn cuối cùng
Nghĩ lại thời qua cũng chạnh lòng
Công cha báo đáp còn chưa thỏa
Nợ nước đền ơn chỉ một lần

Xót tình chung thủy vì đứt mối
Cám cảnh ba sinh chẳng vẹn lòng
Dù đã tóc sương lưng còm cõi
Vẫn là chiếc bách giữa trời giang

NHỚ ÔNG BÀ CẬU MỢ
Kim Hoàng

Minh Lễ thái hòa Minh Lệ đây
Lời vàng bóng hạc lắng thơ hay
Tổ tiên công đức muôn đời thịnh
Con cháu thảo hiền vạn kiếp vinh
Mạc tộc dựng xây thiên kỷ tạc
Hoàng gia bồi đắp vạn đời ghi
Chân thiện mỹ đức dày tâm sáng
Phước lộc thọ trí huệ anh minh

xem tiếp Một gia đình yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-gia-dinh-yeu-thuong/; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người https://hoangkimlong.wordpress.com/category/quang-binh-dat-me-on-nguoi/

QUẢNG BÌNH ĐẤT MẸ ƠN NGƯỜI
Hoàng Kim

Quảng Bình đất Mẹ ơn Người
Tổ tiên cát bụi nhiều đời thành quê
Đinh ninh như một lời thề
Trọn đời trung hiếu để về dâng hương

Lòng son trung chính biết ơn
Quê hương chung đúc khí thiêng Quảng Bình
Về quê kính nhớ Tổ tiên
Mừng vui giữa chốn bạn hiền người thân

Đất trời ngày mới thanh tân
Thung dung thăm hỏi ân cần níu chân.
Đường xuân như một dòng sông
Việt Nam thống nhất thác ghềnh đến nơi.

Hồn chính khí bốc lên ánh sáng
Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn’.
Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa
Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt

Nhớ Cậu Hoàng Thúc Tấn
Kính thượng thọ Cậu
Hoàng Kim

Mai trắng tóc Người cũng trắng trong
Đường trần lên thấu đỉnh cao phong
Hoàng gia Mạc tộc ngời tâm đức
Lối hẹp đường cong chẳng thẹn lòng
Nhớ Cậu Hoàng Thanh Luận
Hoàng Kim

Nhớ cậu đường xa về tảo mộ
Tổ Hoàng gốc cũ quý người thân
Cầu thương cầu hiếu tình quê vẹn
Mến cháu con xa Liệu nghĩa gần.

Kính chúc cậu mợ và gia đình vui khỏe.
Quảng Bình đất Mẹ ơn Người

BAN MAI ĐỨNG TRƯỚC BIỂN
Hoàng Kim


Ban mai đứng trước biển
Đảo Yến trong mắt ai
Thăm thẳm một tầm nhìn
Vị tướng của lòng dân.

NHỚ QUÊ HƯƠNG
Hoàng Kim

Thương nhớ quá
Xóm nghèo
Con đò nhỏ
Củ khoai con
Trái bần chát
Thắt lòng
Cha Mẹ mất
chỉ còn
đau nấm mộ
Thăm thẳm lòng
nơi ấy
một quê hương.

*

Thầy dạy chị
em theo cùng
học mót
Tuổi thơ em
ngày nhỏ
đã theo anh
Chân thơ bé
đã rảo cùng
Pháp Kệ
lòi Đồng Dương
Phù Lưu
với Vân Tiền
Đời lưu lạc
chỉ về
làng Minh Lệ
Khóc mẹ cha
chốn cũ
trước khi xa
Thấm nước mắt
lời thề
trên sông Hóa
Nhói tâm can
trí tuệ
buổi không nhà

*

Thao thiết chảy
dòng sông đời
lặng lẽ
Ngày li quê
trời sáng
nước xanh lòng
Chân mãi miết
suốt đường đời
vạn dặm
Thăm thẳm dài
nơi ấy
một dòng sông

*

“Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ, hết cay, hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”

(Hoàng Ngọc Dộ khát vọng )

Ban mai trên sông Son ; Nguồn Son nối Phong Nha

NGUỒN SON NỐI PHONG NHA
Hoàng Kim


Tôi sinh quán ở làng Minh Lệ, xã Quảng Minh,.là em út trong một gia đình nông dân nghèo có năm anh chi em Nhà cha mẹ tôi trước đó ở xóm Đình, rất gần Đình Minh Lệ, nhưng sau thì chuyển về gần Chợ Mới Làng Minh Lệ nơi ngã ba sông Linh Giang hợp lưu của Nguồn Son và Rào Nan. Ngôi nhà tuổi thơ tôi gần rặng tre sau gốc bần.

LINH GIANG SÔNG QUÊ HƯƠNG

Nhà mình gần ngã ba sông.
Rào Nan, Chợ Mới, Nguồn Son, Quảng Bình
Linh Giang sông núi hữu tình
Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

“Chèo thuyền cho khuất bến Son
Để con khỏi chộ nước non thêm buồn“

Câu ru quặn thắt đời con
Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ

Ra đi từ bấy đến chừ
Lặn trong sương khói bến đò sông quê
Ngày xuân giữ vẹn lời thề
Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

Bài thơ “Linh Giang sông quê hương” là tâm tình sâu nặng của anh chị em chúng tôi đối với Làng Minh Lệ quê tôi. Nguồn Son nối Phong Nha là chuyện đời không thể quên: “Nghe nóng hổi nước mắt thầm vị mặn Nhớ Mẹ Cha thấm thía bữa nhường cơm Lời Cha dặn và lời Thầy nhớ mãi Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn. Không vì danh lợi đua chen.Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân. Mẹ tôi mất ngày mồng ba Tết Giáp Thìn 1964, cha tôi bị bom Mỹ giết ngày 29 tháng 8 năm Mậu Thân 1968. Anh chị em chúng tôi mồ côi mẹ cha và lưu lạc xa quê từ nhỏ. Lời anh Hai dặn, với tiếng dội Linh Giang “đi như một dòng sông” thao thức suốt đời chúng tôi.

Sông Gianh quê hương tôi https://youtu.be/1bS9HAioxUQ Nhà mình gần ngã ba sông Rào Nan Chợ Mới Nguồn Son Quảng Bình, Video Nguyễn Hữu Nam nhạc Khúc hát sông Quê Nguyễn Trọng Tạo, lời thơ Lê Huy Mậu thể hiện Tân Nhàn tích hợp trong Linh Giang sông quê hương Làng Minh Lệ quê tôi

NGUỒN SON VÀ CHỢ MỚI

Cha mẹ tôi sau khi chuyển nhà về Chợ Mới, thì cha tôi sinh kế chính là chèo đò ngang từ chợ Mới qua sông và chèo đò dọc từ chợ Mới theo nguồn Son nối Phong Nha vào chợ Troóc, hoặc chèo đò chợ Mới đến chợ Đồn ở Thanh Khê La Hà. Cha tôi thường dậy sớm chèo đò bắt đầu từ lúc ba giờ sáng thường cho đến suốt ngày, trừ những hôm bận làm công điểm hoặc việc khác. Cha làm nghề như vậy cốt để kiếm khoai gạo nuôi con suốt mười lăm năm từ năm 1954 cho đến năm 1968 lúc ông bị bom Mỹ giết hại. Mẹ tôi làm lụng ở đất vườn nhà và bán rau, nước lá vằng ở chợ Mới để phụ thêm. Hợp tác xã có tổ chức làm công điểm nhưng cuối vụ mới được chia và vì xã nghèo nên cũng được ít. Ai cũng vậy. Chị tôi đi học phải dắt em đi học kèm để rãnh cho mẹ chạy chợ. Tôi tuổi thơ đã chăn bò và bắt cua cá, tép ven sông, Học cấp 1 trường làng nhưng lớp năm thì lên học ở trường Thọ Linh Quảng Sơn, đi về chân trần khoảng 5 cây số. Sau này khi tôi về thăm quê, vẫn bàng hoàng lấy làm lạ là không hiểu sao thuở tôi nhỏ hơn 10 tuổi lại đã có thể ‘sáng kiến’ mấy lần nương theo bò lội qua sông Linh Giang rộng đến vậy. Tôi cũng không thể tưởng tượng nổi là sao thuở ấy cha tôi chèo chiếc thuyền nan nhỏ xíu một lá, đó dọc từ nguồn Son tới Phong Nha, chèo từ ba giờ khuya trên con sông sâu.thẳm, suốt 15 năm trời mà chỉ sơ sẩy một chút là gặp hiểm. Sau khi cha tôi mất, anh mẹt Phiếm cũng chèo đó ngang. Thuyền chìm ! Anh vớt được 9 em nhỏ đi học và anh đuối nước chết (sau này, anh Phiếm được phong liệt sĩ). Lần về quê gần đây, tôi có ghé thắp hương cho anh.

Từ bến đò Chợ Mới theo Nguồn Son nối Phong Nha ngày nay là tuyến du lịch tuyệt đẹp của đường thủy lộ nối từ Chợ Mới đến Động Thiên Đường và Động Sơn Đoòng di sản thiên nhiên thế giới ở Phong Nha Kẻ Bàng. Nhưng với gia đình tôi thì nghỉ lại là rùng mình khi cha tôi chèo đò trong đêm khuya hiểm yếu, sông sâu, thuyền nhỏ, đêm khua , trời gần sáng rất lạnh

CHUYỆN CỨU NGƯỜI CHẾT ĐUỐI

Một hôm chưa đến ba giờ khuya, cha tôi ra thuyền đón khách chợ Troóc. Cha thấy mái chèo bị vướng. Ông lần theo mái chèo thì vớt được một xác chết. Đêm tối như mực, ông ngại nhưng lòng trắc ẩn ông vớt lên loay hoay hô hấp hồi lâu, thì người chết đuối tỉnh lại. Ông vội vàng bế vào nhà cùng mẹ tôi hơ lửa cứu sống. Bà trẻ hơn mẹ tôi ít tuổi và ói mửa rất mệt. Sau hai hôm cha tôi vẫn đi chèo đò từ rất sớm. Mẹ hái rau. Chị Huyền tôi lên giúp chị Huyên. Anh Trực tôi đã đi bộ đội. Anh Dộ đi dạy học xa ở Pháp Kệ . Tôi chăn bò và bắt tép ven sông. Nhà vắng người. Bà bị chết đuối khi tỉnh lại đã tự ý bỏ nhà đi mà không một lời dặn lại.

Sau đó mấy tháng, chợt có một ông già mù dắt một đứa bé trạc tuổi tôi tìm đến nhà. Ông mời cha mẹ tôi ngồi lên ghế và hai ông cháu thụp lạy sống cha mẹ tôi. Ông nói rằng ông là cha của người phụ nữ chết đuối được cứu sống nọ. Bà là con ruột ông. Bà bị bệnh tâm thần, nay nhờ cha mẹ tôi cứu nên đã về nhà chết trẻ rồi. “Phúc đức đó , ông thầy bói mù nói rằng, ông là người mù lòa ăn mày, là thầy bói Cao Lao Hạ, ông nhà nghèo chẳng có cách gì để đền ơn, nên ông chỉ đến tạ ơn lời nói và giúp được cho ít lời khuyên.

CHUYỆN THẦY MÙ CAO HẠ

Ông già mù bảo tôi:– Cháu đi từ giếng này đến đường chính trước cửa nhà cho ông. Giếng là nơi góc sân trước nhà, nơi mà năm trước lụt to, tràn về làm ngập mất thành giếng. Gia đình bận chạy đồ đạc, không kịp để ý. Cháu Thung (Thung Tran) con đầu của chị Huyên tôi đã té giếng, đang chấp chới suýt chết đuối thì tôi còn bé nhưng may lúc ấy nghĩ kịp cách vội vàng đưa chân ra cho cháu níu lấy và hai cậu cháu thoát chết, may níu được túm cỏ, bò lên). Mẹ tôi vừa kể vừa khóc.

Tôi chạy chân sáo ra ngõ chính rất nhanh và về cũng rất nhanh trước mặt ông. Cụ hỏi:
– Cháu tên gì? – Cháu tên là Hoàng Minh Kim. Mẹ tôi đỡ lời. – Sao ông bà đặt cho cháu tên này? – Họ và tên Hoàng Minh Kim là do tôi đặt. Cha tôi nói.

– Vì tôi sinh cháu trong nhà lợp toóc (rạ) của khung chuồng bò do ông bà ngoại cho. Nhà tôi thuở ấy ở gần Đình Minh Lệ. Mẹ tôi nói. – Tôi sinh. Ông ấy đi kêu bà mụ. Tôi đau đẻ thì thấy có một con chuột rất to chạy qua nóc nhà, mồm ngậm một cục vàng to như quả trứng gà, rất sáng. Tôi vội vái lấy vái để, cầu khẩn xin ông Tý cho tôi cục vàng. Con chuột dừng lại nhìn tôi chằm chằm, nhưng lắc đầu, rồi ôm cục vàng chạy mất.

– Họ và tên Hoàng Minh Kim là vì chuyện ấy. Cha tôi xác nhận lời mẹ.– Ông bà có mấy con và nội ngoại thân thích có những ai?. Cụ già mù hỏi cha mẹ tôi Sau khi nghe kể chuyện, cụ già mù hỏi thêm: – Các bến đò chợ Đồn, chợ Troóc , bến Lội, bến Nghè, bến Đình, … Ông chèo bến mô nhiều hơn?

– Chợ Mới đi Nguồn Son tới Phong Nha, chợ Troóc, là nhiều hơn cả. Cha tôi nói: – Bên nội, tôi có hai anh em trai và một em gái. Anh trai tôi mất sớm. Em gái út tôi thì lấy chồng chợ Troóc cũng nghèo. Bên ngoại thì khá hơn, nhưng cũng nghèo. Nhà ngoại có hai chị em gái và một cậu em út mất sớm. Hai bên nội ngoại ông bà đều chết sớm. Tôi làm nông nhưng đủ ăn qua ngày là nhờ chèo đò.

Cha tôi hỏi cụ già mù: Nhà tôi trước đây ở rất gần Đình Minh Lệ, nhà hướng nam, ngoảnh mặt về với Rào Nan và đình, nhưng sao nhà quá nghèo khổ, phải bỏ nền nhà ông nhà cha mẹ mà đi. Vợ chồng tôi chuyển nhà về xóm Chợ Mới để dễ kiếm cơm nuôi con. Nghề là làm ruộng nhưng việc chính tôi chèo đò, vợ chạy chợ, bán mớ rau, ít nước chè lá vằng, thỉnh thoảng hàng chợ phiên Troóc, Ba Đồn đưa về, để đắp đổi sống qua ngày. Nhà tôi quay lưng hướng sông ngoảnh mặt ra ngã ba đường chính ,từ hướng chợ Hòa Ninh đi vô, hướng hói Đồng đi lên, hướng ga Minh Lệ đi xuống. Mấy người nói thế là hướng sai nhưng tôi giữ lối trung chính, thuận đường. Ông đi qua bà đi lại chào hỏi nhau được. Cụ nghĩ vậy là phải chứ?

– Ông còn chuyện gì khác mà phải chuyển nhà từ xóm Đình về xóm Chợ Mới ? Cụ già hỏi.

– Không! Mưu sinh, đường sống là chính. Sang đây thêm chèo đò, chạy chợ mới sống được. Nhất cận thị, nhị cận sông mới bớt khổ. Vì vợ chồng tôi đau yếu, nghèo khổ quá. Cha tôi nói thêm.

– Tôi bị Pháp bắt đi lính khố đỏ để đi đánh nhau bên Tây. Tôi đã vô Đà Nẵng, nhưng được anh em giác ngộ nên theo Vệ Quốc Đoàn đánh Tây suốt nhiều năm mãi đến năm 1951 là bệnh binh mới giải ngũ, trên cho về quê. Bệnh sốt rét phù thủng đọa đày tôi hết mức chết đi sống lại, mẹ nó đã khổ càng thêm khổ Tôi tánh nghĩa khí, trung trực, trọng lẽ phải, cứ theo điều hay lẽ phải mà làm, im nghe người ta nói không cãi, nhưng làm thì nhất định chỉ làm điều mà mình cho là phải, khi đã làm thì quyết làm cho bằng được, không hề sợ bất cứ ai, lượng sức lựa thế mà làm, không làm liều, không nghe người ta xui. Bà nhà tôi thì đức độ, hiền từ, nết ăn ở như đọi nước đầy, làng trên xóm dưới ai cũng thương. Cụ nói đi:.Nhà tôi gần ngã ba sông lại gần ngã ba đường thì hướng nhà nên làm sao?

– Linh Giang thông đại hải. Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn. Đi như một dòng sông. Cuối dòng sông là biển. Cháu nhớ khẩu quyết chứ? Cụ già không trả lời cha mà quay sang bảo tôi.

– Hướng nhà theo thế Lục Môn. Đúng. Tôi nhìn theo tay ông chỉ. Nhà tôi lưng tựa Cao Sơn, xuôi chiều theo thế nước Nguồn Son lao thẳng về, đúng là thế nước hiểm, phải cuốn theo chiều nước, đi như một dòng sông, lá về nơi vô định. Đình Minh Lệ Linh Giang thông đại hải, đình hướng chính Đông biển lớn. Ngũ Lĩnh nối Cao Sơn, Đá Đứng chốn sông thiêng là hướng ngọc phương Nam, như rồng xanh Trường Sơn cuộn mình.

– Đất này sao đã quý hiếm mà lại hiểm? Cha tôi thắc mắc. – Vì rất rất cao giá !.Gian nan nên người hay. Thời thế tạo anh hùng. Địa linh sinh nhân kiệt. Nhân kiệt sáng địa linh. Đất sông núi thiêng này phát sinh những dòng họ lớn ! Ông già xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Ông già nói .

– Nguồn Son Rào Nan hợp lưu thành Linh Gianh, giữa sông lại có Cồn, đó là … của người phụ nữ. Ông nghĩa khí trung trực, bà hiền từ đức độ, nhà có phước, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, không thua kém người ta, nhưng ông bà không được hưởng lộc con. Cụ già mù kết luận. Đó là điều lạ thứ hai lời dặn của ông già mù Cao Lao Hạ, tự truyện ‘Linh Giang Đình Minh Lệ’ ngoài những thông tin địa chí lịch sử văn hóa mà tôi đã đúc kết thành bài dài.

– Không phải ngẫu nhiên mà Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam đâu. Có lý cả đấy ! Vì Kinh đô Huế nằm ở Bắc Hải Vân mà thế và lực với sự thông thuộc của Nhà Nguyễn chính là đất phương Nam trong khi Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy lại là tuyến ba tầng thủ hiểm che chắn Kinh đô Huế ở mặt Bắc nên Pháp không chọn đánh Thanh Khê đó thôi – Nhưng Linh Giang chính là hiểm địa, bẻ đôi Việt Nam. Ông già mù nói

. Cụ nói đúng, Bố tôi lập tức nhỏm dậy. Vì tôi đã bị bắt đi đi lính Pháp để đưa sang đánh nhau bên Tây, đóng quân ở Đà Nẵng bên sông Hàn, sau đó tôi trốn theo Vệ Quốc Đoàn nên rất thông thuộc địa hình đó. Pháp nếu đứng chân được ở Đà Nẵng thì chẹn được mặt Nam, cô lập kinh thành Huế, mẹo ‘đánh rắn giập đầu’ rất mau thắng được dân Nam..

– Trận Đà Nẵng năm 1857 tụi Pháp thua. Cha tôi nói. – Vì tướng Nguyễn Tri Phương giỏi cầm quân, Ông ấy tránh đánh trực diện mà dùng phục binh, lập kế ‘đóng cửa đánh chó’ làm “vườn không, nhà trống” triệt hết đường tiếp tế của địch, cách ly và xử nghiêm tụi gián điệp đội lốt giáo sĩ, giáo dân. Ông lại cho đắp lũy kiểu như Lũy Thầy, bao vây chẹn họng địch ra biển, vây đánh trường kỳ không cần thắng nhanh, nên trận Đà Nẵng bên mình thắng Pháp phải chuyển vào đánh thành Gia Định, chiếm dần đất đai của mình từ phương Nam theo kiểu tằm ăn lá dâu.

– Ông giỏi sử thiệt. Cụ già khen. – Tôi ít học nhưng rất thích đọc sách Tam Quốc. Cha tôi nói : – Tôi thông gia với ông mẹt Rịnh thường kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc cho tôi và ông Rịnh nghe. Hôm nào ông Rịnh hoặc ông Thìn đến chơi, tôi không khi nào không kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc và sách Kiều, đến mức nó thuộc và kể được đấy. Mẹ nó thì mê nhất Lục Vân Tiên kế đến Kiều và Phạm Công Cúc Hoa.

– Cháu đọc cho ông nghe một đoạn nào? Cụ già nói. Tôi ngước mắt nhìn Mẹ, Mẹ tôi cười khuyến khích: – Con đọc đi Tôi đọc đoạn ông quán trong thơ Lục Vân Tiên mà mẹ thích:

– Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.

Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

– Địch đánh vô Thanh Khê cửa Hác không dễ. Bố tôi miên man kể. Ông nhớ thời lính tráng của ông: – Tôi dự nhiều trân đánh Pháp cùng thời và cùng đơn vị với Lâm Úy. Tôi ở đại đội 2 tiểu đoàn 274 của ông Lê Văn Tri làm tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 18. Tôi vô sinh ra tử nhiều trận cùng anh em. Chỉ tiếc là đến năm 1951 bị đau bệnh sốt rét phù thủng ngã nước quá yếu trong khi đơn vị thiếu thốn thuốc men chữa trị và điều kiện chăm sóc nên trên mới phải cho giải ngũ về quê. Nếu không thì tôi đến nay đã nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực rồi.

– Ông Lê Văn Tri là người Cao Hạ cùng làng với tôi. Sau này ông làm tướng rất to Cụ gìa nói – Trân Phú Trịch Là Hà, địa thế và cách dàn quân hai bên cũng lựa thế hiểm yếu như là trận Bạch Đằng. Voi trận của Đức Thánh Trần sa lầy ở Sông Hóa. Các trận địa phục kích cũng là các cồn tại các ngả ba sông hiểm yếu như Chợ Mới, La Hà Phú Trịch vậy. Lời thề trên sông Hóa “Chuyến đi này không thắng, ta thề không về lại nơi này!” của đức Thánh Trần cũng như lời thề quyết tử chiến của đội cảm tử 15 trận Phú Trịch La Hà đã chết như voi trận của đức Thánh Tràn chết vậy. Cha tôi nói

– Đá Đứng chốn sông thiêng Cầu Minh Lệ Rào Nan Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi rất rất hiểm. Ông già lại xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Cụ già lặp lại.

Cụ già quay sang tôi, bắt tôi nhắc lại mấy lời khẩu quyết. Cao cát Mạc sơn / Sơn Hà Cảnh Thổ / Văn Võ Cổ Kim / Linh Giang thông đại hải / Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn / Đình Bảng Cao Lao Hạ / Miếu cổ thủy sơn thần./ …. Mắt ông rất thành khẩn. Hốc mắt ông dường như có nước mắt. Người ông khoan thai thần bí và trầm tĩnh lạ lùng. Tôi cẩn thận lặp lại. Cha mẹ tôi im nghe và tỏ vẻ khuyến khích con. Cụ già nói chậm rãi: Ông bà thay tên cho ’em’ đi: Hoàng Kim tốt hơn Hoàng Minh Kim. Ông tánh trung trực nghĩa khí, bà tánh đức độ, hiền từ, nhà có phước đức, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, con cháu có quý tử, nhưng ông bà không được hưởng lộc con, mà theo con hưởng phúc và bảo bọc che chở cho con cháu.

Cụ già dặn tôi “làm vàng ròng, ngọc cho đời, nên bớt sáng”. Đây là chuyện lạ của lời dặn thứ ba. Chuyện lạ đến mức anh hai Hoàng Ngọc Dộ đã quyết chọn Hoàng Kim làm tên gọi cho em từ lớp 10 sau khi cha mẹ mất và toàn gia lưu tán.

CHUYỆN ĐI NHƯ DÒNG SÔNG

Tôi mồ cha mẹ từ nhỏ mất sớm. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng Thầy tăng tôi cuốn sách Trần Hưng Đạo Binh Thư Yếu Lược với lời đề tặng từ tuổi thơ để tôi lưu lại Lời dặn của Thánh Trần và Thầy viết bài thơ Em ơi em can đảm bước chân lên lưu những bài thơ tuổi thơ của chính tôi cho tôi. Tôi được anh trai Hoàng Ngọc Dộ và chị gái Hoàng Thị Huyền bảo bọc cưu mang từ nhỏ khi cha mẹ mất sớm, chị gái Hoàng Thị Huyên đã lấy chồng và anh trai Hoàng Trung Trực dấu chân người lính, bom đạn giữa chiến trường, Tôi gạt nước mắt ra đi, thề trước mộ cha mẹ theo Lời dặn của Thánh Trần với Lời thề trên sông Hóa. Thật xúc động ngày về quê tảo mộ tổ tiên Quảng Bình đất Mẹ ơn Người, trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ.

Dưới đây là một số ảnh Nguồn Son nói Phong Nha và một số tư liệu chọn lọc

LINH GIANG TRONG LỊCH SỬ

Sông Gianh (Linh Giang) Hoành Sơn, Đèo Ngang, Sông Nhật Lệ, thành phố Đồng Hới, Di sản thiên nhiên thế giới vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là sáu biểu trưng đặc sắc của tỉnh Quảng Bình về địa chính trị, du lịch sinh thái, lịch sử, địa lý, văn hóa..

Sông Gianh là một con sông chảy trên địa phận tỉnh Quảng Bình, bắt nguồn từ khu vực ven núi Cô Pi cao 2.017 m thuộc dãy Trường Sơn, chảy qua địa phận các huyện Minh Hóa, Tuyên Hoá, Bố Trạch, Quảng Trạch và thị xã Ba Đồn để đổ ra biển Đông ở Cửa Gianh. Dòng chảy ở thượng nguồn theo hình chữ V với hướng chủ đạo là tây nam-đông bắc. Từ điểm giáp ranh ba xã Thanh Thạch, Hương Hóa, Kim Hóa bắt đầu chảy theo hướng tây bắc-đông nam. Tới ranh giới hai xã Kim Hóa và Lệ Hóa nó tiếp nhận thêm nước từ một chi lưu nhỏ phía hữu ngạn, chảy về từ phía tây. Phía dưới thị trấn Ba Đồn khoảng 3 km, sông Gianh tiếp nhận thêm nước từ chi lưu phía hữu ngạn, chảy ra từ khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng. Sông Gianh dài khoảng 160 km, cắt qua quốc lộ 1 ở tây bắc Cửa Gianh 5 km. Tổng diện tích lưu vực là 4.680 km², độ cao trung bình 360 m, độ dốc trung bình 19,2%, lượng nước năm 7,95 km³ ứng với lưu lượng nước trung bình năm 252 m³/s, môđun dòng chảy năm 53,8 l/s.km². Mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 11, chiếm khoảng 60-75% lượng dòng chảy hàng năm. Dòng cát bùn khoảng 1,93×105 tấn/năm, ứng với độ đục trung bình năm 192 g/m³ và hệ số xâm thực 168 tấn/km² năm. Tàu thuyền có thể qua lại đoạn sông ở hạ lưu, từ Cửa Gianh đến Ba Đồn 6 km, đến thị trấn Đồng Lê huyện Tuyên Hóa là 47 km. Đoạn thượng lưu từ Khe Nét trở về nguồn dài khoảng 70–80 km, lòng sông nhiều thác ghềnh. Khoảng 20 km đầu nguồn đá đổ ngổn ngang trong lòng sông. Tới Đồng Tâm, lòng sông rộng khoảng 80 – 90 m, lớn nhất 110–115 m. Đoạn từ các xã Phù Hóa, Quảng Tiên tới thị xã Ba Đồn (17°45′25″B 106°25′10″Đ), lòng sông có 5 cồn, đảo nhỏ trên sông, trong đó đảo dài nhất khoảng 3,8 km rộng nhất khoảng 0,8 km. Ngay dưới Ba Đồn lòng sông rộng tới 1 km.

Hoành Sơn và Đèo Ngang là ranh giới thời Đại Cồ Việt và Chiêm Thành sau khi người Việt giành được độc lập (939) và trước thời kỳ Nam Tiến của người Việt (1069) thì sông Gianh là ranh giới thời Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài (1570-1786) với xung đột vũ trang gần nửa thế kỷ (1627-1672). Chiến trường chính là miền Bố Chính (Quảng Bình). Đèo Ngang gắn với huyền thoại “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 1558, Nguyễn Hoàng, một danh tướng thời Lê Trung Hưng, con thứ của Nguyễn Kim, sợ bị Trịnh Kiểm mưu hại, đã xin vào trấn thủ Thuận Hoá, mở đầu nhà Nguyễn sau này. Trong cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, quân Trịnh án ngữ ở đèo Ngang, nhưng thực sự ranh giới Bắc Nam là sông Gianh. Bờ bắc sông có chợ Ba Đồn là nơi quân Trịnh mua đồ ăn uống và trao đổi hàng hóa. Bờ nam sông có một số thành lũy chắc chắn do Đào Duy Từ tổ chức xây đắp, luỹ Thầy dài 18 km, luỹ Trường Dục dài 10 km. Di tích Lũy Thầy, Quảng Bình quan, thành quách của thời Trịnh Nguyễn đến nay vẫn còn.

Người thợ cầu lão thành cũng là nhà khảo cứu sâu sắc Nguyễn Quốc Toàn (Bulukhin) có bài viết Về với Linh Giang do nhà báo TORO đã đăng trên tạp chí Pháp Lý ở Hà Nội. Ông Toàn là người Quảng Bình xa xứ nặng lòng với quê hương. Ông viết: “Người Việt từ xa xưa vẫn tâm niệm rằng thần sông thiêng lắm. Có chuyện kể: “Đô phủ thành hoàng thần quân” là thần sông Tô Lịch đã hoá phép phá tan nghìn cân đồng của Tiết độ sứ Cao Biền dùng yểm long mạch (Lịch sử Việt Nam tập I. NXB KHXH 1976), Biền chuốc lấy hoạ là cứ xây thành Đại La lên lại đổ. Cách nay 1200 năm, nhà thơ Hésiod người Hy Lạp khuyến cáo những người qua sông rằng: “Đừng bao giờ qua những con sông với dòng chảy vĩnh hằng mà trước đó chưa đọc lời cầu nguyện, đừng mãi mê ngắm những dòng chảy tráng lệ của chúng mà trước đó chưa nhúng hai tay khỏi những điều ác vấy bẩn, chúng sẽ kéo cơn cuồng nộ của các thần linh trút xuống đầu mình, sẽ phải chịu những đòn trừng phạt khủng khiếp” (Từ điển Biểu tượng văn hoá thế giới của Jean Chevarier và Alain Gheerbrant. NXB Đà Nẵng và trường viết văn Nguyễn Du 1.1976). Vậy thì thay tên đổi họ một dòng sông đã chính danh cách nay hơn 17 thế kỷ không hiểu người ta có cầu nguyện gì không? Lạ thay, các bậc “Trị quốc bình thiên hạ” thuở xưa lưu lại hậu thế trước tác chất đầy lầu tàng thư, nhưng không thấy một dòng nào nói nguyên do đổi tên Linh Giang thành Sông Gianh. Chỉ thấy sách “Tấn thư châu quận ký” nói rằng: “Năm Thái Khang thứ 10 chia quận Tây Quyển mà lập huyện Thọ Linh, sông chảy qua Thọ Linh là Linh Giang” (Đất nước Việt Nam qua các thời đại của Đào duy Anh). Thái Khang thứ 10 là năm 290. Năm 1875 vua Tự Đức sai Quốc sử quán soạn sách “Đại Nam nhất thống chí”, trong mục “hình thế” tỉnh Quảng Bình có ghi: ” … Phía bắc liền với Hoan Châu, núi cao thì có núi Đâu Mâu, và núi Thần Đinh, sông lớn thì có sông Linh Giang (Gianh) và sông Nhật Lệ” (Đại Nam nhất thống chí (thời Tự Đức) Tập II trang 12. Chữ Gianh trong ngoặc đơn là do dịch giả Phạm Trọng Điềm và người hiệu đính là đào Duy Anh chua vào. Sách ĐNNTC viết bằng chữ Hán , mà chữ Hán chỉ có “Danh” chứ không có “Gianh”) . Như vậy tính đến năm 1875 thì tên sông Linh Giang đã được dân gian gọi trong suốt 1586 năm, gần 16 thế kỷ. Mãi đến năm 1876 sử gia Đặng Xuân Bảng soạn sách “Sử học bị khảo” lại chép: “Quảng Bình có sông Gianh phát nguồn từ Thanh Lãng..” Tính cho đến năm 1998 thì tên sông Gianh mới có 123 năm. Cũng ở thời điểm 1998 tên Linh Giang đã có 1708 tuổi gấp gần 14 lần tuổi của tên sông Gianh. Người ta đã luận bàn khá nhiều về từ Gianh chưa rõ lai lịch và ngữ nghĩa này. Một giáo sư sử học danh tiếng phỏng đoán: Gianh có lẽ là Ranh trong ranh giới (Trịnh Nguyễn phân tranh) đọc theo tiếng Bắc. Nếu phỏng đoán này đúng thì có nên dùng nỗi đau chia cắt âý để đặt tên cho chiếc cầu không?. Người khác cho rằng Gianh là đọc “trại” của từ Giang (trong Linh Giang) mà ra. Chẳng hạn người ta đã đọc “trại” Minh Lễ thành Minh Lệ, Lũng Quýt thành Dung Quất, Betulông (Baietoulon) thành Bái Tử Long v.v…Nhưng hai từ Linh Giang không thể đọc “trại” thành một từ Gianh được. Linh Giang có nghĩa là sông thiêng liêng, huyền bí, còn Gianh không có trong từ điển Hán Việt, cũng không phải tiếng Việt phổ thông mà chỉ là phương ngữ (miền Bắc) chỉ cây cỏ tranh lợp nhà. Có lẽ ngoài câu thành ngữ của người miền Bắc nói về sự nghèo túng: “Nhà gianh vách đất” thì từ Gianh không thấy xuất hiện ở đâu nữa. Đấy là ngược nguồn lịch sử để tìm tên sông, ngõ hầu góp một tiếng nói với các nhà Địa – Văn hoá khi làm sách địa chí, chứ người viết không có ý định kiến nghị đổi tên sông Gianh trở lại sông Linh Giang. Bởi tên sông Gianh dẫu sao cũng là một phần máu thịt của khúc ruột miền Trung từ 123 năm nay rồi.”

QUÊ MẸ VÙNG DI SẢN

Việt Nam hiện có 33 Vườn Quốc Gia (VQG) Ở vùng núi và trung du phía Bắc có 1) Tam Đảo, 2) Hoàng Liên, 3) Ba Bể, 4) Cao nguyên đá Đồng Văn, 5) Phia Oắc – Phia Đén, 6) Bái Tử Long, 7) Xuân Sơn, 8) Quần thể di tích danh thắng Yên Tử; Ở vùng đồng bằng sông Hồng có 9) Ba Vì, 10) Cúc Phương, 11) Cát Bà, 12) Xuân Thủy; Ở vùng ven biển bắc Trung Bộ có 13) Phong Nha – Kẻ Bàng, 14) Bến En, 15) Pù Mát, 16) Vũ Quang ; Ở vùng ven biển nam Trung Bộ có 17) Bạch Mã, 18) Núi Chúa, 19) Phước Bình ; Ở vùng Tây Nguyên có 20) Chư Yang Sin, 21) Bidoup Núi Bà, 22) Chư Mom Ray, 23) Kon Ka Kinh, 24) Yok Đôn; Ở vùng Đông Nam Bộ có 25) Cát Tiên, 26) Lò Gò-Xa Mát, 27) Bù Gia Mập,  28) Côn Đảo; Ở vùng Tây Nam Bộ có 29) Mũi Cà Mau, 30) Phú Quốc, 31) Tràm Chim, 32) U Minh Hạ,  33) U Minh Thượng, xem chi tiết tại Vườn Quốc gia Việt Nam

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 10 VQG Phong Nha Kẻ Bàng (ảnh tư liệu HK, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

VQG PHONG NHA KẺ BÀNG

Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo được UNESCO công nhận lần 1 năm 2003, Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học, sinh thái được UNESCO công nhận lần 2 vào ngày 3 tháng 7 năm 2015 là một vườn quốc gia Việt Nam tại huyện Bố Trạch, và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này giáp khu bảo tồn thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây, cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc gia. Phong Nha-Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng khoảng 200.000 ha thuộc lãnh thổ Việt Nam, khu vực lãnh thổ Lào tiếp giáp vườn quốc gia này cũng có diện tích núi đá vôi khoảng 200.000 ha. Diện tích vùng lõi của vườn quốc gia là 85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha. Tháng 8 năm 2013, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định mở rộng vườn quốc gia này lên 1233,26 km2. Vườn quốc gia này được thiết lập để bảo vệ một trong hai vùng carxtơ lớn nhất thế giới với khoảng 300 hang động và bảo tồn hệ sinh thái bắc Trường Sơn ở khu vực Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 10 Hang Động Sơn Đoòng (ảnh tư liệu HK, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

Tháng 4 năm 2009, một đoàn thám hiểm thuộc Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh đã phát hiện và công bố hang Sơn Đoòng là hang động có kích thước lớn nhất thế giới (dài trên năm km, cao 200m, và rộng 150m), lớn hơn nhiều so với hang Deer ở Vườn quốc gia Gunung Mulu ở Sarawak, Malaysia, lớn gấp 4 đến 5 lần so với Phong Nha. Trong đợt khảo sát này, đoàn thám hiểm cũng tìm thấy nhiều hang động khác. Kiến tạo carxtơ của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành từ 400 triệu năm trước, từ thời kỳ Đại Cổ Sinh do đó là carxtơ cổ nhất ở châu Á. Trải qua nhiều thay đổi lớn về địa tầng và địa mạo, địa hình khu vực này hết sức phức tạp. Phong Nha-Kẻ Bàng phô diễn các bằng chứng ấn tượng về lịch sử Trái Đất, giúp nghiên cứu lịch sử hiểu được lịch sử địa chất và địa hình của khu vực. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng là một trong những mẫu hình riêng biệt và đẹp về sự kiến tạo carxtơ phức tạp ở Đông Nam Á.

NGUỒN SON NỐI PHONG NHA

Đất Mẹ vùng di sản là chùm hình ảnh tuyệt đẹp của tuyến du lịch đường sông từ Chợ Đồn tới Chợ Mới vào Phong Nha Kẻ Bàng Di sản Thiên nhiên Thế giới, rất cần thiết để kết nối Du lịch sinh thái với Kinh tế Quốc phòng, vì có tầm vóc lớn của Việt Nam và Thế giới

THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI

Hai ảnh trên đây tôi có nhiều bạn quý, Ảnh trên có các khuôn mặt thân quen ở Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam. Ảnh dưới có nhiều người ở Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, trong đó có cá anh Nguyễn Văn Bộ, Vũ Mạnh Hải, Lưu Văn Quỳnh là gần gũi hơn. Tiến sĩ Lưu Quỳnh chuyên gia lúa, người thứ hai phải qua, chẳng biết anh đọc bài “Nguồn Son nối Phong Nha” này từ khi nào, nhưng ngay ra sau khi tôi vừa viết xong bài trên thì tin nhắn của anh đã hiện ra “Chào anh Hoàng Kim. Anh kể những địa danh như “Chợ Mới “Minh Lệ” là nhà Dì ruột mà Quỳnh thường qua đò thăm Dì. ” Cao Lao Hạ” làng của tui thuộc xã Hạ Trạch. “Troóc” là nơi Quỳnh được sinh ra tại đây nên có tên cúng cơm là “Troóc” và nhiều địa danh khác sông Gianh, Rào Nan … anh kể như là chuyện ở quê nhà vậy. Cám ơn anh Hoàng Kim nhiều.” Tôi linh cảm những điều tôi sắp nói ra có một sự giao thoa kỳ lạ. Có thời, chúng ta coi những điều đó như là mê tín , nhưng thực ra đó là một trực giác , một sự may mắn, một sự che chở, một dẫn dắt của vận mệnh để tránh dữ tìm lành, đi được tới đích,mà các cụ thường gọi là phước đức.”Thiện căn cốt ở lòng ta. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” Phúc cho ai may sớm gặp được những lời khuyên phúc hậu mà tự biết mình. Luu Quynh Anh nói đúng. Khi con người bớt lo toan thì mới thấy hết được nhiều chuyện trong sự đời mà trước đây ít khi nghỉ tới. Chúc anh và gia đình luôn sức khoẻ.

GẶP BẠN Ở QUÊ NHÀ

LÀNG MINH LỆ QUÊ TÔI
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Ta về với Linh Giang
Đất Mẹ vùng di sản
Làng Minh Lệ quê tôi
Quảng Bình đất và người

(ảnh Hoàng Minh Đức, thơ Hoàng Kim cảm nhận, xem tiếp Làng Minh Lệ quê tôi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lang-minh-le-que-toi;

CHÚC VUI HOÀNG HỮU PHÊ
Hoàng Kim

Nam Bắc nhưng cùng một xóm quê
Cậu Đản thường khen Hoàng Hữu Phê
Khanh, Dục, Tường, Minh đều bạn quý
Sân Lai mong dịp gặp chung về

Bao chuyện bạn hay mình đọc kỹ
Nguyễn Du, Tô Thức thích nhiều hơn
Yến Thanh Công Trứ ưa phiêu lãng
Tô Nguyễn thương nghe khúc nhạc lành

“Sinh con ai chẳng muốn thông minh.
Đâu biết tinh hoa mãi lụy mình.
Chỉ ước con ta vô tư mãi
Thiện lành vui hưởng thú #annhiên

Chúc mừng Hoàng Hữu Phê sinh nhật 30 4 vui khỏe hạnh phúc, Kim Hoàng nhớ thuở cậu Đản còn khỏe, cậu vẫn thường khen bạn đọc kỹ. Hoàng Kim ngày vui nhờ sư huynh góp ý trao đổi hiệu đính chút biên khảo nông nghiệp du lịch sinh thái và lịch sử văn hóa Làng Minh Lệ quê tôi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lang-minh-le-que-toi ; Nguyễn Du là bậc anh hùng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-la-bac-anh-hung/ và Tô Đông Pha Tây Hồ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/to-dong-pha-tay-ho/

ĐOÀN TỤ ĐẤT PHƯƠNG NAM

Vườn nhà sớm mai nay 2 5 2023

Minh Nga thăm Đồng Nai 20-21.4.2023

Đoàn tụ đất phương Nam
QUẢNG BÌNH ĐẤT MẸ ƠN NGƯỜI
ghi chép của Hoàng Kim

Quảng Bình đất và người Quảng Bình với Trường Sơn; Quốc Công đạo làm tướng; Ai tỏ Ngọc Quan Âm; An Viên Ngọc Quan Âm; An Viên Phước Hoàng Gia; An vui cụ Trạng Trình , Ân tình đất phương Nam; Ban mai trên sông Son; Ban mai đình Minh Lệ; Ban mai đứng trước biển; Bà Đen; Bài ca Trường Quảng Trạch; Bài đồng dao huyền thoại; Bên suối một nhành mai; Bóng hạc chốn xa xôi; Bảo tồn và phát triển; Bến Lội Đền Bốn Miếu; Biển nhớ Trịnh Công Sơn; Ca dao Việt cày đồng; Cát bụi chuyện trăm năm; Câu chuyện đứng trước biển; Có ba dòng văn chương; Cầu Minh Lệ Rào Nan; Cầu Trời nối Mẹ Cha xưa; Chỉ tình yêu ở lại; Chốn thiêng; Chốn thiêng tròn bóng mát; Chốn vườn thiêng cổ tích; Chợt gặp mai đầu suối; Chuyện cổ tích người lớn; Chuyện hiền vui trăm năm; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Chuyện về vua Hàm Nghi; Chuyện đồng dao cho em; Chuyện đời không thể quên; Con nguyện làm Hoa Lúa; Con đường Hồ Chí Minh; Con đường lúa gạo Việt; Cuộc đời phúc lưu hương; Dám đánh và quyết thắng; Dạo chơi non nước Việt; Dấu đời thành seo biển; Em ơi can đảm lên; Gặp bạn ở quê nhà; Gốc Bồ Đề vườn xưa; Gốc mai vàng trước ngõ; Giấc mơ lai khoai lang; Giấc mơ lành yêu thương; Giống Cây Trồng Quảng Bình; Giống khoai lang Việt Nam; Chọn giống sắn Việt Nam; Hoa Đất của quê hương; Hoa Đất thương lời hiền; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Hoàng Kim chuyện đời tôi; Hoàng Kim thơ cho con; Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Hoàng Trung Trực đời lính; Hoành Sơn với Linh Giang; Làng Minh Lệ quê tôi; Lời dặn của Thánh Trần; Lời ru nhớ núi sông; Lời thề trên sông Hóa; Lửa đèn vầng trăng soi; Linh Giang sông quê hương; Linh Giang Đình Minh Lệ; Mái trường bên dòng Gianh; Một gia đình yêu thương; Nghị lực và Ơn Thầy; Nguồn Son nối Phong Nha; Nguyễn Hàm Ninh Thầy Vua; Người dĩ công vi thượng; Người lính cây sắn tuổi thơ; Nhà mình gần ngã ba sông; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Nhớ quê hương; Nhớ vầng trăng ngọn lửa; Những bài thơ ám ảnh; Pho tượng Ngọc Quan Âm; Quê hương xa mà gần; Quê Mẹ vùng di sản; Sách Văn Nghệ Quảng Minh; Sóng yêu thương vỗ mãi; Ta về với Linh Giang; Thăm thẳm đất miền Trung; Đêm Vu Lan thương chị; Đất Mẹ vùng di sản; Đi như một dòng sông; Đi để hiểu quê hương; Đường xuân theo chân Bác

TRÒ CHUYỆN VỚI MINH ĐỨC
Hoàng Kim


@Hoàng Minh Đức bạn quý: Chúc mừng Truyện ngắn Thằng Bỉnh của thầy giáo nhà văn Hoàng Minh Đức được đăng, thầy giáo nhà văn Hồ Ngọc Diệp khen rứa là tài. Truyện này hay tựa như Chú Hoạt tôi, là truyện ngắn ẩn trong Tướng về hưu của thầy giáo nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Người đời coi thường tiểu tiết, thằng dại, thằng đần, người đóng vai phụ bè trầm, ít khôn ngoan, mà ưa thích truyện văn sử hay gương tốt chính luận. Thằng Bỉnh là truyện hay, góp một góc nhìn tỉnh táo. Dân mình làng mình chắc nhiều người sẽ nhớ truyện,

THẰNG BỈNH
Truyện ngắn Hoàng Minh Đức


Lời dẫn Hoàng Minh Đức: “Tôi là người ghét kẻ nát rượu. Truyện ngắn này viết sau khi một người chết vì rượu. Truyện ngắn “Thằng Bỉnh” rất thật, có tới 90% nguyên mẫu nên nhiều người cho là ký. Tên nhân vật đã được sửa đổi, tôi chỉ sáng tạo thêm 10% để độ kết dính các nhân vật lại cho có hệ thống thành truyện ngắn, lần đầu tiên viết về cải cách ruộng đất được đăng, nhà văn Hồ Ngọc Diệp khen rứa là tài. Có lẽ đề tài khó nên tòa soạn (Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số tháng 4 năm 2023 đăng bài) ưu ái gửi chiệu giưỡi nhuận bút. Sau đây là truyện Thằng Bỉnh , nếu ai đọc thấy bóng dáng của gia đình, họ hàng, làng xóm mình trong đó cho ý kiến nhé“.

Giờ thì anh Bỉnh đã ở tuổi sáu mươi. Cái tuổi mà nhiều người đã lên ông, lên bà, nhưng trong làng ai cũng gọi anh là thằng Bỉnh. Họ gọi bằng thằng không phải vì khinh thường hay ghét bỏ gì anh đâu, có lẽ không ai chịu thay đổi cách xưng hô. Anh chẳng có con cái, họ gọi thằng từ nhỏ quen rồi.

Trên Chày về, anh Bỉnh đến thẳng nhà mẹ tôi:

“Hồi trẻ răng thím không đi hỏi vợ cho tui. Để chừ tui già rồi không ai ưng cả”.

Mẹ tôi nổi cáu:

“Tau đã nhắn cho mi biết bao nhiêu là tin tức mà mi có chịu về đâu. Trong làng có con Hòe, hồi nhỏ bị tàu hỏa cán sứt mất nửa bàn chân nhưng vẫn rất khun (1) ngoan, lanh lợi. Chừ mi mới về thì hắn đã có chồng rồi”.

*

Bác Khố có 2 đứa con. Chị đầu tên là Tình, làm công nhân xí nghiệp gạch ngói. Chị hơn anh Bỉnh gần chục tuổi. Hai chị em đều khờ khạo giống bác Khố của tôi. Bác Khố với bố tôi là hai anh em con bác, con chú. Chị Tình nhìn bề ngoài có vẻ lanh lợi khôn ngoan hơn bác Khố chút ít, chứ anh Bỉnh thì y chang như bác ngày xưa. Bố tôi nói chính tính khù khờ mà bác Khố đã cứu được ông nội tôi trong cải cách ruộng đất…

Hồi nhỏ, cha mẹ mất sớm nên ba chị em bác Khố phải ở với ông nội tôi. Hai anh chị trước của bác Khố rất khôn ngoan, riêng bác Khố khờ khạo hết chỗ nói. Trong kháng chiến chống Pháp, bác Khổn chạy công văn hỏa tốc cho huyện ủy. Khi qua sông bị máy bay bắn lật thuyền, chết đuối. Ông nội tôi vớt xác bác Khổn về chôn. Sau ngày hòa bình lập lại ông đem vào nghĩa trang liệt sĩ của xã, nhưng nay vẫn chưa chạy được giấy tờ công nhận liệt sĩ. Còn cô Miều theo chồng ra sống ngoài Hà Nội. Cô là người đảng viên đầu tiên của làng tôi từ ngày đầu Cách mạng tháng Tám.

Cải cách ruộng đất, mãi năm 1956 mới đến làng tôi. Trước năm 1954, Bình – Trị – Thiên còn nằm trong vùng địch hậu. Hồi đó cán bộ cải cách được điều từ các địa phương khác về. Ông nội tôi trong kháng chiến từng là chủ tịch xã, đã lãnh đạo du kích đánh đồn Tây, trớ trêu nay là địa chủ. Các cô chú tôi là những đảng viên cộng sản bị quy là Quốc dân Đảng.

Ngày đấu tố địa chủ, bác Khố là người đầu tiên được chọn đi. Bởi bác là thành phần cố nông phải đi ở đợ cho địa chủ.

Có một tay hồi trước đem lòng yêu cô tôi, nhưng ông nội tôi không gả bây giờ lọt vào làm cán bộ cốt cán. Hàng ngày hắn mớm cho bác Khố đấu người chú ruột của mình. Hắn dọa không nói theo sẽ bị quy là phản động. Trong làng đã có trường hợp con tố cha để được yên thân. Tôi còn nhớ ngày họ giải ông nội tôi ra giữa chợ, bác Khố quên mất lời dặn dò của tên cốt cán nọ. Bác làm việc gì thì nhớ việc nấy, còn việc không làm, không thấy mà bắt bác phải nói thì bác quên ngay. Người ta bắt bác kể tội của ông nội tôi thì bác lại nói về công ơn. Khi bố mẹ bác chết, ông tôi đã chôn cất tử tế lại đem ba chị em về nuôi. Hôm bác bị rắn cắn, ông tôi đã cõng bác lên nhà một ông thầy lang trên mạn ngược để chữa. Gã cốt cán nóng lòng giục: “Hãy kể về cái tội của hắn không chịu đi hỏi vợ cho anh đi”. Sực nhớ, bác Khố nói: “Đúng rồi. Cái tội của ông ấy là không đi hỏi o Lan cho tôi. Ông ấy nói o Lan đẹp nhất làng nên tui không xứng”.

Gã cốt cán vỗ tay khuyến khích: “Đây là cuộc đấu tranh giai cấp. Địa chủ chiếm hữu cả con gái đẹp trong làng không cho bần cố nông. Anh đẹp trai như thế mà hắn nói là không xứng. Bây giờ anh muốn lấy o Lan làm vợ không nữa không? Anh hãy nhớ lại kể nốt tội của tên địa chủ gian ác đi”.

Bác Khố gãi đầu:

“Tui ưng o Lan lắm nhưng mà o nớ không chịu ưng tui. Hôm trước tui nghe anh bày cho cứ tố mấy cái tội của ông chủ tịch, đấu xong tui sẽ trở thành chủ tịch. Tui cũng nói với o Lan như rứa nhưng o nói không thèm cái chức chủ tịch của tui. O nói tui đặt điều vu khống, lại còn chê tui là đồ bất nghĩa”.

Lời “tố khổ” của bác Khố trở thành lời minh oan cho ông nội tôi. Mấy ngày sau có lệnh sửa sai. Ông nội tôi được trả lại thành phần “trung nông lớp dưới”.

Ông tôi nhờ người mai mối tìm vợ cho bác Khố nhưng chỉ có một người trong làng chấp thuận. Đó là bác gái, mẹ của anh Bỉnh bây giờ. Bác gái là người dở hơi, nóng lạnh thất thường. Ba mươi tuổi không có ai dòm ngó. Bác không hề biết gặt hái, nuôi con lợn con gà như bà con trong làng. Hàng ngày bác Khố đi làm thuê lúc thì mang về cho một rá cơm nguội hay một đùm khoai lát nấu chín gói trong lá chuối cho mấy mẹ con. Thời kỳ máy bay giặc Mỹ ra bắn phá miền Bắc, công việc bác không lúc nào ngơi tay. Hết đào hầm cho người này lại đi trét phên đất làm bục cất giữ thóc gạo cho người khác. Người đi đào hầm cho người khác lại không kịp đào hầm cho mình để bom Mỹ giết chết. May mà hai đứa con đang chơi bên nhà hầm hàng xóm.

*

Hai bác qua đời, chị Tình đi làm công nhân gạch ngói, anh Bỉnh gánh đất thuê đắp nền nhà cho người ta giống như bác Khố ngày xưa. Nhiều nhà lợi dụng sức trai của anh cứ hứa đắp xong nền nhà sẽ gả con gái cho. Anh chẳng khác gì chàng Khoai trong truyện cổ tích “Cây tre trăm đốt”.

Hết thời kỳ làm ăn hợp tác, anh Bỉnh được chia ruộng nhưng lại bỏ hoang. Bố mẹ tôi phải cày bừa giúp đỡ giống má. Cuộc đời thích tự do, anh không chịu ở trong làng mà lên chăn trâu cho một người trên Chày, huyện Bố Trạch, một làng miền núi làm nghề khai thác gỗ. Nhiệm vụ của anh là chỉ chăn trâu thôi chứ điều khiển con trâu kéo gỗ anh không thể làm được.

Cơn lốc tìm trầm tràn về những làng quê bé nhỏ trên Chày, Lập, vùng Phong Nha, Kẻ Bàng. Người từ dưới xuôi lên, người từ trong Huế ra rầm rập như những đoàn quân đi trẩy hội. Những người đàn ông ở xứ này trở thành hoa tiêu dẫn đường cho người đi tìm trầm tứ xứ. Họ bạt núi, san rừng, chặt những cây trầm sinh hàng trăm năm đến những cây trầm mới vài ba năm tuổi. Rồi trầm sinh ở Việt Nam cũng hết, họ lại sang Lào, Mianma, Thái Lan. Nhữngngười dân bản xứ ở đây bòn lại những cội trầm họ đã khai thác các lần trước. Công việc của anh Bỉnh chỉ đổ sức trâu ra để đào bới chứ chẳng cần tính toán suy nghĩ gì nhiều. Khi đào được các khúc rể trầm rồi anh không được xoi vì tay chân anh lóng ngóng sẽ phá mất dầu.

Một bữa cả xâu ngồi trên một cây khô lấy cơm nắm ra ăn. Trời ngã bóng về chiều, tiếng ve rừng kêu râm ran, thảm thiết. Đi từ sáng đến giờ mệt lử nhưng chưa thấy một cây dó bầu nào. Ngay cả những cội trầm cũ cũng chẳng có. Ăn cơm xong, xâu trầm lại bổ đi các hướng, riêng anh vẫn mơ màng thả từng vòng khói thuốc giữa rừng già. Anh vứt điếu thuốc đang hút dở xuống đám lá khô rồi nằm trên cây ngáy khò khò. Gió nam mát rượi đã đưa anh vào giấc ngủ. Khi đám lá bắt lửa, mùi trầm bốc lên thơm nức mũi anh mới biết. Lửa đã bén vào cây trầm “rục”. Anh la lên “Trúng rồi! Các anh ơi trúng rồi”. Anh Bỉnh vừa dập lửa vừa hú vang rừng. Anh chạy đi tìm đoàn. Chiều tối cả đoàn về trại. Nghe anh Bỉnh nói chính cây khô ngồi ăn cơm lúc trưa là trầm tử, họ thắp đuốc đi ngay trong đêm. Quả là hàng độc, trầm loại một. Trước đây có đoàn trúng lỏi trầm bắp chuối trên chục ki lô đã là tỷ phú rồi, nay cây trầm “rục” cả tạ hàng.

Họ bán được bao nhiêu không biết, chỉ biết rằng anh Bỉnh được đoàn thưởng cho năm chục cây vàng. Họ cho anh ăn cơm gà, có rượu uống hàng ngày và hút thuốc ngựa trắng. Còn vàng thì chủ nhà cất dùm cho. Từ nay anh không phải đi cội nữa. Ông chủ gán cả bầy trâu cho anh và hứa sẽ gả cho cô con gái lỡ thì. Xét về gia cảnh thì như thế cũng xứng đôi vừa lứa. Anh là chàng trai sung sức lại cao ráo, trắng trẻo, đẹp trai tuy có cái tính khù khờ hay tin người. Chị lớn hơn anh vài ba tuổi, thân hình thon thả, tuy hơi đen một chút và có cái bớt màu đỏ như cánh hoa phượng nằm trên sống mũi. Được cái, chị cũng thông minh tháo vát. Hàng ngày, đến buổi trưa chị lại xách cơm vào rừng cho anh. Có hôm họ ở lại để đi tìm con trâu lạc ngày hôm sau mới về. Hồi này trong rừng Phong Nha, Kẻ Bàng không còn cọp nữa nhưng không hiểu sao bầy trâu cứ mất dần mất mòn. Cuối cùng chỉ còn lại đúng một con trâu cái. Cô gái con nhà chủ cũng đi đâu không ai biết.

*

Anh Bỉnh trở về làng. Việc đầu tiên là lợp lại mái nhà mà hợp tác làm cho thời bao cấp. Bố mẹ tôi cũng già lắm rồi, xin trả ruộng lại cho anh. Anh nói không quen làm ruộng, anh chỉ quen đi ở.

Hàng ngày anh qua cầu hái một gánh củi, hay chặt một cây rừng về đổi lấy vài lon gạo và một chai rượu trắng. Thức ăn thì chẳng cần chợ búa, anh ra đồng mò cua, bắt ốc bươu vàng, ếch nhái về nấu trong ngày. Xã xếp anh vào diện tàn tật, thiểu năng trí tuệ. Mỗi tháng, người em họ, con cậu bên ngoại làm trưởng thôn nhận về cho 540 ngàn đồng. Ngày anh Bỉnh nhận được “tiền lương”, trong nhà anh như có đám giỗ. Đám đàn ông nghiện ngập bị vợ bỏ đi Nam cứ bám riết lấy anh Bỉnh uống rượu đến hết tiền mới thôi. Hết tiền anh lại vào rừng đốn củi.

Có bữa anh ra nhà tôi vay gạo. Nhà anh ở xóm Nam cách tôi gần 2 cây số. Trời mưa to, anh không thể đi rừng được. Tôi cho anh 3 trăm ngàn đồng với 5 cân gạo mang về. Anh nói: “Tôi lấy của chú 5 chục ngàn thôi. Mai mốt đi rừng được tôi sẽ trả cho chú”. Nói thế thôi chứ ai nỡ lấy của anh. Mấy hôm sau tôi lại thấy anh xách xéo đi vay gạo hàng xóm. Gạo tôi cho hôm trước, anh đổi rượu hết rồi. Bố mẹ tôi, tuổi ngoài tám mươi, hàng ngày bòn từng đồng rau thơm cũng phải dè sẻn cho anh vài lon để khỏi tắt bữa.

*

Trận lũ năm 2013, cả miền Trung ngập nước. Nước trên nguồn ào ạt đổ về làm vỡ một quãng đường tàu trong đêm. Nước réo ầm ầm như trận bom B52 ném xuống xóm Đình ngày mùng 2 tháng 1 năm 1973. Nước trắng xóa cả một vùng. Gió vẫn quất ràn rạt từng hồi làm cây cối ngã nghiêng vật vã. Xóm Nam của anh sát với bờ sông chỉ còn lại lơ thơ vài nóc nhà nguyên vẹn. Hầu hết đã tốc mái.

Tôi chống chiếc bè chuối lên nhà bố mẹ tôi. Nước chảy xiết, ngập quá đầu người. Tôi phải trèo qua tường rào mới lội vào nhà được. Bố mẹ tôi cùng anh Bỉnh đang ngồi trên tra (2) . Trông thấy tôi, mẹ mắng sa sả: “Bây có ăn có học mà thua thằng Bỉnh. Hắn đến đây từ ngày hôm qua. Không có hắn cõng lên tra thì bọn tau đã trôi xuống biển mất rồi”. Mẹ tôi đâu biết nhà anh Bỉnh nước ngập lên tận nóc. Anh không ra nhà bố mẹ tôi thì biết trú nhà ai. Vả lại ai biết nước làm vỡ đường tàu vào đêm qua.

Tôi cười xòa: “Con cứ tưởng bọ mạ (3) cũng leo được cầu thang lên trên tra mà. Mất điện nên điện thoại con không xạc pin mà gọi được”.

Mẹ tôi xoa mái đầu đã bạc trắng của anh Bỉnh, mắng yêu: “Tổ cha mi, ai cũng nói là mi dại mi khờ mà hôm ni cũng biết chạy ra cứu chú thím”.

Anh Bỉnh nói một câu xuất thần mà nhiều người khôn ngoan chưa chắc đã nghĩ tới: “Bên chú thím thì có đủ cả con trai con gái chứ bên cháu chẳng còn ai. Ả (4) Tình có khôn hơn cháu một chút ít. Mấy năm ni ả nỏ về làng. Khi mô cháu chết nhờ mấy đứa em, con của chú thím lo cho phần mồ đống mả”. Mẹ tôi quay lại ngó chằm chằm vào mặt tôi. Tôi biết mẹ cũng muốn nhắn nhủ với tôi qua lời anh Bỉnh.

*

Mấy ngày trước tết, chị Tình về làng xủi mả họ. Một hôm chị chạy ra nhà tôi: “Cậu mi vô coi không biết răng mà thằng Bỉnh hắn nỏ nói năng chi cả. Hắn ăn hết hai tô cơm rồi lăn đùng ra giữa nền nhà. Mấy hôm ni ả đút sữa hắn không thèm nuốt. Hắn chỉ uống nước thôi”.

Tôi hớt hải chạy vào xóm Nam. Anh Bỉnh nằm giữa nền nhà, trên mình đắp một cái chăn chiên đã cũ. Tay trưởng thôn đang loay hoay mắc điện vào nhà cho anh. Hắn nhanh nhẩu: “Giấy tờ công nhận liệt sĩ của ông bác thằng Bỉnh cháu đã chạy được rồi chú ạ”.

Tôi nói: “Bố cậu là em ruột của mẹ anh Bỉnh, cậu lại tuổi đáng con cái anh, răng lại gọi anh ấy bằng thằng”.

Hắn trả lời: “vì anh ấy dại quá chú ạ. Cháu gọi quen rồi”.

Trước đây tôi đã thấy gã ngồi uống rượu giữa nhà với đám bạn của anh Bỉnh. Gã hứa với tôi là lấy tiền ủng hộ bão lụt để mắc điện, sao bây giờ mới mắc. Tôi nhìn hắn và nói: “Cậu cầm tiền bão lụt của anh Bỉnh cũng gần chục năm rồi đấy nhỉ”.

Cậu ta ấp úng: “Cháu định mắc nhưng sợ anh Bỉnh không biết dùng điện, cháy nhà”.

Anh Bỉnh nghe nói thế còng cổ lên tức giận nhưng không nói được. Máu từ trong khóe miệng của anh chảy ra ướt cả cổ áo.

Chị Tình đưa 7 triệu đồng cho tay trưởng thôn nhờ đi đóng gấp một cái gường. Tôi bỏ lên phây kêu gọi cộng đồng mạng góp tiền giúp anh Bỉnh đi chữa bệnh. Con trai của cô Miều ngoài Hà Nội gửi về 3 chục triệu đồng. Bà con làng xóm đóng góp được 2 chục triệu nữa.

Năm ngày sau thì anh Bỉnh chết. Anh ấy bị ung thư gan do uống nhiều rượu quá. Trước lúc chết anh cứ mở đôi mắt trừng trừng nhìn mẹ tôi. Mẹ tôi nói: “Nếu mà cháu nghe thím lấy một con vợ dù đui què mẻ sứt chi cũng được. Miễn là khôn ngoan để kiếm lấy cái nòi. Bây giờ cháu chẳng có con cái, nhưng cứ yên tâm, ra đi cho thanh thản. Các con thím sẽ thay cháu chăm sóc phần mồđống mả cho ông bà tiên tổ”. Mẹ tôi giơ tay vuốt mắt, anh mới từ từ khép lại.

*

Ngày mở cửa mả, có một chiếc xe con về đổ trước cổng nhà anh Bỉnh. Trên xe bước xuống là một chàng trai ăn mặc rất sang trọng. Theo sau là đoàn người mang theo vòng hoa đến viếng: “Vô cùng thương tiếc cụ ông Trần Văn Bỉnh”.

Anh thanh niên quỳ xuống trước bàn thờ và khóc cha ơi…

Tôi nhìn kỹ, trên sống mũi chàng trai có một cái bớt màu đỏ như cánh hoa phượng vĩ.

Chú thích: (1) Khôn. (2) Sàn bằng gỗ dùng để cất giữ đồ đạc lương thực cho khỏi bị ướt khi có nước lũ vào nhà. ( 3) Bố mẹ. (4) Chị.

ĐỒNG ĐỘI CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Trung Trực, Hoàng Kim


“Mười sáu tuổi áo vải đầu trần Khoác ba lô lên đường nhập ngũ” Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu ‘vị tướng viết văn’ là đồng đội cùng tháng năm với anh trai Hoàng Trung Trực đời lính của Hoàng Kim, ‘lớp anh trước, lớp em sau, đều thành chiến sĩ chung câu quân hành”. “Vài suy nghĩ nhân kỉ niệm cách mạng tháng Tám” và Đến với bài thơ hay “Đọc vị tướng viết văn” là kỷ niệm ấm áp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dong-doi-cung-thang-nam/

VÀI SUY NGHĨ NHÂN KỈ NIỆM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
Nguyễn Mạnh Đẩu

Tôi sinh ra sau Cách mạng Tháng Tám tròn 3 năm. Hồi đó, Cha tôi đi Giải Phóng Quân và đã trải qua 2 năm chiến đấu trên chiến trường Bắc Bộ. Đầu năm 1948, có lần ông được đơn vị cho tạt qua nhà.

Và, may mắn đã mỉm cười với cha mẹ tôi: Sinh được con trai sau 8 năm nên nghĩa vợ chồng.

Thiết nghĩ, nếu không có lần đó, tôi mãi mãi là hạt bụi giữa vô cùng.

Ngẫm lại, qua nhiều đời, gia đình tôi thuộc loại nông dân nghèo, trong một dòng họ công thần giàu truyền thống lịch sử hàng mấy trăm năm, nhưng cũng nghèo về kinh tế, trên một miền quê đồng khô cát bạc, khí hậu thời tiết khắc nghiệt.

Nơi đó, từ bao đời nay, mọi người dân quanh năm lam lũ mà vẫn bốn mùa đói nghèo, thiếu thốn…

Tôi cứ nghĩ, nếu không có cuộc Cách mạng Tháng Tám và đi liền sau đó không có mấy chục năm trường kỳ kháng chiến đầy ác liệt, hy sinh, gian khổ, rồi trong mấy chục năm đi theo con đường đã chọn, thì thân phận gia đình mình sẽ thế nào đây? ra sao đây ?

Tôi không đủ điều kiện kiến thức thực tiễn để lập luận dự đoán. Nhưng qua lời kể của cha mẹ và các bậc bề trên, với cái vốn khởi điểm đó, dù chế độ cũ tiếp tục tồn tại và có điều chỉnh đổi thay này nọ, thì thân phận gia đình tôi, tình cảnh làng quê tôi cũng không thể khác trước được – Nghĩa là, vẫn đói nghèo, lạc hậu !

Từ sau Cách mạng Tháng Tám, trải qua hy sinh mất mát vô cùng to lớn trong mấy chục năm chiến tranh; cộng với tác hại của cơ chế bao cấp dai dẳng; cùng những sai lầm, thiếu sót nghiêm trọng trong lãnh đạo quản lý ở các cấp, các ngành, các địa phương – đặc biệt là nạn tham nhũng, lãng phí và tệ quan liêu – làm cho Đất nước ngày càng tụt hậu hơn so với các nước trong khu vực; không thể phát triển tương xứng với tiềm năng, xu thế và triển vọng.

Đó là một thực tế không ai có thể biện minh, chối cãi !

Có người nói, nếu như không đi theo con đường Cách mạng Tháng Tám, không kháng Pháp trường kỳ, không chống Mỹ quyết liệt với biết bao xương máu, mà đi theo con đường khác…, thì Đất nước ta sẽ giàu mạnh hơn bây giờ rất nhiều !

Tôi nghĩ rằng, trong phương pháp luận, khi so sánh, đừng bao giờ dùng chữ ” nếu như ” khi bình xét về lịch sử của một Dân tộc, cũng như đánh giá về số phận một con người !

Vậy ” nếu như ” thuở trước, trong chiều dài lịch sử dựng nước & giữ nước, ông cha ta không phá Tống, chống Nguyên, đuổi Minh, bình Thanh, giành thắng lợi huy hoàng. Và, tiếp đó không nam chinh mở cõi thật vẻ vang, thì Đất nước ta ngày nay sẽ là thế nào nhỉ. Chắc chắn là, đã bị đồng hóa và chỉ là một tỉnh, một quận của ngoại bang mà thôi !

Giành Độc lập cho Dân tộc là chân lý vĩnh hằng, là khát vọng cháy bỏng của mọi dân tộc cũng như mọi người dân bị thuộc địa áp bức. Lịch sử hàng ngàn năm của Dân tộc ta và của cả thế giới đã minh chứng điều đó !

Với Dân tộc ta, kháng Pháp, chống Mỹ là điều bất khả kháng, là tất yếu khách quan, là con đường độc đạo máu lửa phải đi qua để giành lại Độc lập và Thống nhất cho Tổ quốc.

Chúng ta cũng biết, Bác Hồ vĩ đại đã có nhiều lần, bằng việc này việc khác, nhằm cố tránh cuộc chiến. Nhưng kẻ thù không chấp nhận, buộc dân tộc chúng ta, dẫu không hề muốn, cũng phải vùng lên cầm súng, bất chấp sự hy sinh to lớn.

Sai lầm trong lãnh đạo quản lý như thế nào, nguyên nhân từ đâu, tác hại to lớn ra sao, thì cũng đã chân nhận mổ xẻ từ hơn 30 năm trước, để rồi đi vào công cuộc Đổi Mới.

Có người nói, Đổi Mới chẳng qua là đi trái với qui luật vốn có của tự nhiên – mà nay do tình thế khách quan, chủ quan, buộc phải đi lại cho đúng !

Tôi cho rằng, nói thế cũng chẳng sai !

Qui luật chung là: Hợp lý thì tồn tại. Không hợp lý thì cuộc sống không chấp nhận, do đó bị đào thải !

Trước mắt, tôi thiết nghĩ: Quyết liệt, triệt để và thiết thực, hiệu quả trong chống tham nhũng, quan liêu; Kỷ cương phép nước nghiêm minh; Phát huy dân chủ; Khơi dậy khả năng tự do sáng tạo trong đời sống kinh tế xã hội của mọi người dân, … thì chắc chắn Đất nước ta sẽ phát triển nhanh hơn, bền vững hơn và đàng hoàng hơn.

Nhân đây, tôi xin được nói thêm điều này, có tính chất kiềm nghiệm, so sánh mà thôi. Cụ thể là:

Khi đương chức, tôi có một số ít lần ra nước ngoài ( Mỹ, Hàn Quốc, Indonesia, Singape, Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc …) theo chế độ công vụ, nên không có điều kiện quan sát kỹ về đời sống của người dân nơi đó.

Sau khi nghỉ hưu, năm 2015 và năm 2016, tôi được bạn bè mời sang tham quan, du lịch một số nước ( Anh, Pháp, Ý, Đức, Nga ). Thời gian không dài, cũng chỉ là dạng cưỡi ngựa xem hoa. Nhưng cái may lần này là tôi có điều kiện quan sát, trực tiếp tiếp xúc.

Khi ở Pháp, tôi đã ở khách sạn loại bình dân ở Paris; đã tham quan một số di tích, danh lam thắng cảnh và đi dạo ban đêm ở sông Seien, tháp Truyền hình Eiffel …

Khi ở Đức, tôi đã đến xem di chứng Bức tường Berlin, xem Nhà Quốc hội Đức…

Khi ở Anh, tôi đã nghỉ lại Luân Đôn dạo chơi trên bờ sông Thames, dọc nhiều con phố. Và cũng đã có mấy ngày, với vốn tiếng Anh rất ít ỏi, khi nói phải minh họa bằng tay, trong túi có vài trăm đồng Bảng Anh, một mình tôi lang thang đi chơi qua các khu phố lớn, tiếp đến những đường ngang ngõ tắt trong thành phố Manchester, không gặp bất cứ người Việt nào. Đi bộ mỏi chân, tôi nhảy lên tàu điện hoặc tắc xi. Trong những ngày lưu lại thành phố Manchester, tôi cũng đã đi ra vùng ngoại ô chơi.

Tôi đã đến tham quan du lịch thành phố Venie ngập trong nước biển của Ý. Giữa một buổi đêm trời tối đen như mực, ngồi trên chiếc thủy Tắc xi chạy qua biển vào kênh rạch, muỗi nhiều vô kể – giống như vùng sông nước ở Đồng Tháp Mười Nam Bộ – để vào các khu phố cổ ( cũ ) đang ngâm mình trong nước. Và ngày hôm sau, khi thì đi bộ, khi thì đi thuyền, chúng tôi lang thang qua từng khu phố nhỏ, …

Thời gian tham quan du lịch và lưu trú ở mấy nước ấy không nhiều. Trước khi lên đường, có người nói với tôi, ông sang đó tranh thủ xem thử “ Tư bản nó đang giẫy chết thế nào nhé”. Tôi chẳng nghĩ thế! Trong đầu tôi hình dung ngược lại. Tôi coi đây là dịp có điều kiện chứng kiến cảnh sống sung sướng, đầy đủ của người dân các nước nhóm G 7. Và quả thật tôi khá bất ngờ !

Phải khẳng định rằng, họ giàu có, hiện đại hơn nước ta về mọi phương diện là điều hiện hữu, không thể chối cãi.

Tuy nhiên, bên cạnh những tòa nhà đồ sộ, hiện đại với nhiều kiểu dáng đẹp đẽ, cao vút chọc trời xanh, thì vẫn còn nhiều nhà ở của người dân lao động cũng vầy vậy như vẫn thấy trên nhiều thành phố của Việt Nam ta. Một số phố xá mà tôi đã đi qua, tình trạng ăn xin, móc túi, lừa đảo, say rượu nằm bê bết, vạ vật trên các mặt đường, trên các vỉa hè, trên các ga tàu xe, ga tầu điện ngầm là không hiếm. Còn nhiều con phố chật hẹp và không sạch.

Có người nói, do nạn nhập cư ồ ạt từ các nước Đông Âu sang mới nên thế. Tôi chẳng biết có đúng vậy không!

Và tôi có suy nghĩ: Với mấy nước phát triển thuộc nhóm G 7 tôi đã ghé qua: Đều có trình độ khoa học công nghệ rất cao; Đã hơn 70 năm không hề chiến tranh; Lại cũng không bị cơ chế hành chính quan liêu bao cấp ( như đã diễn ra ở nước ta ) trói buộc. Ấy vậy mà, đời sống của những người dân tôi đã tiếp xúc cũng chưa giàu có như tôi từng nghĩ.

Tóm lại, cuộc Cách mạng này dù có thời điểm vấp váp sai lầm – nó như các trận bão – gây hậu quả to lớn và là điều không ai mong muốn.

Nhưng xét về đại cục, Cách mạng đã đem lại Độc lập,Thống nhất cho Tổ quốc, Tự do và từng bước đem lại từng phần Hạnh phúc cho nhân dân – Trong đó có gia đình tôi.

Đó là một thực tế khách quan, dù với cách nhìn nào, cũng không thể chối cãi, không thể phủ nhận!

Đôi điều mộc mạc lan man giải bày tâm sự.

Suy nghĩ của tôi có thể không trùng khớp với suy nghĩ của ai đó, ở đâu đó, với góc nhìn nào đó – Âu đó cũng là lẽ bình thường, dễ hiểu.

Muôn đời nay, đa dạng là thuộc tính của mọi xã hội !

Mỹ Đình, 19/8/2016

ĐỌC “VỊ TƯỚNG VIẾT VĂN”
Hoàng Trung Trực, Hoàng Kim

đồng đội anh Nguyễn Mạnh Đẩu


Đọc “Vị tướng viết văn
Tác giả Nguyễn Chí Tình
Thân mến tặng Nguyễn Mạnh Đẩu
“. (1)
Mà lặng người, rưng rưng nước mắt:

Mười sáu tuổi, áo vải đầu trần
Khoác ba lô lên đường nhập ngũ
Anh không nói văn chương.
Đường hành quân lội suối băng rừng
Trận chiến xông lên mịt mù bom đạn
Anh không nói văn chương.
Mím chặt môi nghe lời trăng trối cuối cùng
Và vuốt mắt cho người đồng đội
Anh không nói văn chương.
Trong căn hầm chỉ huy
Trước biết bao éo le căng thẳng
Sinh mệnh anh em và lòng căm thù sâu thẳm
Anh không nói văn chương.
.
Anh không nói văn chương
Nhưng tất cả, còn đây tất cả
Như rễ hút đất lành để nuôi hoa lá
Như trăm dòng suối chảy từ rừng sâu
Để hôm nay
Ngồi trong gian phòng với mái tóc ngả màu
Hay ngước nhìn bầu trời quê xanh như ngày xưa ấy.

Tất cả đang sống dậy
Thành ngọn thác trào lên
Dồn dập nhịp đời, dồn dập nhịp tim
Như cuộc đời bắt anh phải viết
Như muôn người bắt anh phải viết
Mà anh không cần biết
Đó có là văn chương?

Nhà thơ nào từng nói thế:
“Một cây chông” đánh Mỹ
Vẫn hơn “Ngàn trang giấy” văn chương
Còn anh
Anh đã đi biết mấy nẻo đường
Khói lửa nắng mưa, tấm thân dầu dãi
Đã trải những tháng ngày ưu tư khắc khoải
Thì điều khác thường lại hóa đời thường:
Anh đến với văn chương
Để chẳng bao giờ hết được văn chương !
” (1)

2

Anh Hoàng Trung Trực đời lính, là anh trai em,
Đồng đội thân của anh, cũng mười bảy tuổi lên đường
Lớp anh trước, lớp em sau
Em trong lứa sinh viên 1971
trang sách soi trang đời
Thắp đèn lên đi em
Nhớ vầng trăng ngọn lửa
Xếp bút nghiên lên đường ra trận.

Tổ chiến đấu của em có bốn người
Xuân và Chương nằm lại
Trung với em về Trường sau chiến tranh
Lửa miền Nam vừa tắt chưa thôi
Hận Nam Quan “Nước mắt Vị Xuyên”
Nhiều đồng đội em hóa đá.

Anh Tư Trực của em trở lại đời thường
‘Mảnh đạn trong người’ ‘Nhớ bạn’
‘Bền chí’ ‘Hát ru con bằng khúc quân hành”

Đối thoại với Thiền sư‘ ;Trạng Trình” (2)
Anh ấy làm ông già phúc hậu sau chiến tranh
Chăm lo điều lành, việc lành cho bà con phường, quận
Thật nhớ ngày anh lặn lội vào thăm
Đồng đội cùng tháng năm
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dong-doi-cung-thang-nam/3

Qua thơ của bạn Nguyên Hùng
Kể về vị tướng giữa đời thường
Anh và em bất ngờ kết nối
Anh nhớ tường tận từng chút về gia đình em
Thấu suốt mọi điều hay đồng đội
Hiểu tường tận uẩn khúc trăm năm…
Quốc Công đạo làm tướng
Vị tướng của lòng dân
Ban mai đứng trước biển
Thăm thẳm một tầm nhìn.

4

Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu là Người
Sinh tử giữa chiến trường
Đồng đội cùng tháng năm
Biết mình và biết người
Có ba dòng văn chương
Văn chương ngọc cho đời.

5

Anh đến với văn chương
Để chẳng bao giờ hết được văn chương !


Tài liệu dẫn:

(1) XIN KHOE MỘT CHÚT
Nguyễn Mạnh Đẩu

Nhà thơ, Nhà văn, Nhà nghiên cứu Nguyễn Chí Tình ( tên thật Nguyễn Đức Nhật ), sinh 1935, quê Nghi Trung ( Nghi Lộc-Nghệ An ). Ông là cháu nội Chí sĩ Nguyễn Đức Công ( tức Hoàng Trọng Mậu ), con trai Nhà giáo, Nhà thơ Nguyễn Đức Bính, cháu Nhà phê bình văn học Hoài Thanh (Nguyễn Đức Nguyên). Hơn tôi 13 tuổi, là đồng hương huyện Nghi Lộc, ông Nguyễn Chí Tình thân thiết tôi từ nhiều năm nay. Ông viết tặng tôi bài thơ, đăng trong tập CÓ MỘT MIỀN QUÊ ( NXB Thanh niên – 2015). Tôi xin được khoe với bè bạn Fb.

VỊ TƯỚNG VIẾT VĂN
(Thân mến tặng Nguyễn Mạnh Đẩu)
Tác giả Nguyễn Chí Tình


Mười sáu tuổi, áo vải đầu trần
Khoác ba lô lên đường nhập ngũ
Anh không nói văn chương.
Đường hành quân lội suối băng rừng
Trận chiến xông lên mịt mù bom đạn
Anh không nói văn chương.
Mím chặt môi nghe lời trăng trối cuối cùng
Và vuốt mắt cho người đồng đội
Anh không nói văn chương.
Trong căn hầm chỉ huy
Trước biết bao éo le căng thẳng
Sinh mệnh anh em và lòng căm thù sâu thẳm
Anh không nói văn chương.
Anh không nói văn chương

Nhưng tất cả, còn đây tất cả
Như rễ hút đất lành để nuôi hoa lá
Như trăm dòng suối chảy từ rừng sâu
Để hôm nay
Ngồi trong gian phòng với mái tóc ngả màu
Hay ngước nhìn bầu trời quê xanh như ngày xưa ấy.

Tất cả đang sống dậy
Thành ngọn thác trào lên
Dồn dập nhịp đời, dồn dập nhịp tim
Như cuộc đời bắt anh phải viết
Như muôn người bắt anh phải viết
Mà anh không cần biết
Đó có là văn chương?

Nhà thơ nào từng nói thế:
“Một cây chông” đánh Mỹ
Vẫn hơn“Ngàn trang giấy” văn chương
Còn anh
Anh đã đi biết mấy nẻo đường
Khói lửa nắng mưa, tấm thân dầu dãi
Đã trải những tháng ngày ưu tư khắc khoải
Thì điều khác thường lại hóa đời thường:
Anh đến với văn chương
Để chẳng bao giờ hết được văn chương !

(2) Hoàng Trung Trực đời lính https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-trung-truc-doi-linh/

(3) Đồng đội cùng tháng năm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dong-doi-cung-thang-nam/

Kim Hoàng

kính anh chị Mạnh Đẩu Nguyễn và cả nhà vui khỏe. Em Kim Hoàng xin phép anh chép chung bài viết này về chung bài “Vài suy nghĩ nhân kỉ niệm cách mạng tháng Tám” tuyệt hay trong ghi chú ĐỒNG ĐỘI CÙNG THÁNG NĂM https://hoangkimlong.wordpress.com/…/dong-doi-cung…/ với tấm ảnh để đời và câu thơ hay ám ảnh “Mười sáu tuổi áo vải đầu trần Khoác ba lô lên đường nhập ngũ” Máy ai viết được vậy. Nhưng để hiểu kỹ cần những lối diễn đạt của ảnh rất chuẩn và VĂN CHƯƠNG NGỌC CHO ĐỜI để lưu lại ẩn ngữ ấy. Em vừa đi tiễn một thầy dạy sử rất giỏi và sẽ viết rõ hơn trong bài “Trò chuyện với Yến Thanh” mời anh ghé đọc

Lê Quý Đôn tinh hoa https://hoangkimlong.wordpress.com/category/le-quy-don-tinh-hoa/ có trích đoạn lời bàn của Hoàng Kim: “Cụ Lê Quý Đôn … Văn chương Cụ trác tuyệt, một đời lưu lại căn bản mươi câu ngôn chí và ghi chú cực ngắn, ví như: “Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng. Không bằng kinh sử một vài pho” “Long cương nằm khểnh hát nghêu ngao, Vì cảm ơn sâu biết tính sao! Hai biểu ra quân lòng đã tỏ, Tám đồ bày trận giá càng cao. Tam phân gặp buổi đương tranh vạc, Ngũ trượng ngờ đâu bỗng tối sao. Miếu cũ ngày nay qua tới đó, Tấc lòng khởi kính biết là bao! ” (Nguồn: Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004). Cụ ‘mười phân vẹn mười’, nhưng không lời tỏ bày xác tín ‘biết người biết mình’ thì mấy ai thấu hiểu ?”

Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu, vị tướng viết văn, tác giả lời nhàn đàm “Nói ít một tính cách máy mẫu người”, là một tổng kết chiêm nghiệm HK thích đọc lại và chép về để chiêm nghiện. Tướng Đẩu thế gia cả nhà ông và nhà vợ, sâu sắc trãi việc và chân tình , là hậu duệ Cương Quốc Công Nguyễn Xí, một trong số đệ nhất khai quốc công thần thời Hậu Lê

NÓI ÍT – MỘT TÍNH CÁCH
MẤY MẪU NGƯỜI
Nguyễn Mạnh Đẩu


Trong đời sống cộng đồng – trừ những người nói nhiều do chức năng công việc – còn nói chung, mọi người thường thiện cảm với týp người nói ít. Chẳng thế mà, người đời đã khái quát hình tượng : Tạo hóa sinh ra con người có 2 tai, 2 mắt mà chỉ có 1 miệng – Điều đó như có ý nhắc nhở con người rằng: Trong giao tiếp với người khác – nhất là giữa đám đông – chủ yếu là nghe, quan sát, học hỏi; và hạn chế nói.

Biết bao câu danh ngôn khuyến cáo về việc nói nhiều: “ Bệnh tật vào từ miệng. Tai họa từ miệng mà ra”, “Hãy nghĩ kỹ về điều mình nói. Đừng nói hết mọi điều mình nghĩ”, “Lời chưa nói ra, ta là chủ nó. Lời nói ra rồi, nó là chủ ta”, “ Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” ( Một lời nói ra, cỗ xe bốn ngựa khó đuổi kịp ), ” Phúc thủy nan thu ” ( Cốc nước đã đổ xuống, khó thu lại được), “ Nếu anh có một người bạn ít nói, thì đó là một người bạn chân thành. Ngược lại, nếu anh có một kẻ thù ít nói, thì đó là kẻ thù nguy hiểm nhất”, “ Nên để người ta dành thời gian mà nghĩ, đừng bắt người ta phải nghe nhiều”, ..v..v…
Tựu trung lại, nói ít là một điều nên làm.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở đời cùng một tính cách nói ít, nhưng lại có mấy mẫu người khác nhau. Và, không phải người nào nói ít cũng đều là tốt. Cụ thể là :

1 – Có một số rất ít thuộc loại người uyên bác. Họ coi nói ( ngôn ngữ ) là phương tiện giao tiếp nhằm diễn đạt tư tưởng, trí tuệ, tình cảm. Nên khi họ nói, người nghe cảm thấy như đang đếm chữ. Những điều họ nói ra chính xác tựa như viết; chẳng bao giờ sai, thừa, thiếu.

2 – Có nhiều người nói ít hoặc nói ngắn gọn. Bởi, trước khi nói, họ suy nghĩ thấu đáo, kỹ càng: Mình là ai, nói về cái gì, nói với ai, nói ở đâu, nói lúc nào, nói đến đâu là vừa đủ, lập luận logic thế nào … và điều quan trọng nhất là nói để đạt mục đích gì. Có những vấn đề trong cuộc sống họ xét thấy nói cũng được mà không nói cũng được, thì dứt khoát là họ không nói.

3 – Có người từ khi sinh ra, tính cách vốn dĩ rất ít nói – thuộc diện trầm tĩnh, phản ứng chậm mà chắc. Họ chỉ nói cái gì thật cần thiết vào thời điểm thích hợp và có liên quan trực tiếp đến bản thân.

4 – Có người do kiến thức, năng lực rất hạn chế – Thực ra là, trong tư duy của họ không có gì để trình bày. Hễ ai nói gì, vì không hiểu, nên bề ngoài họ tươi tỉnh gật gù, tỏ thái độ tán thưởng. Thường là, họ không có chính kiến trước mọi lập luận, phương án. Theo nguyên tắc ” Tập trung dân chủ “, đến khi cuộc họp biểu quyết lựa chọn ra quyết nghị, thì dứt khoát là họ quan sát cả bốn phía và bao giờ cũng ngả theo số đông. Nói chung, họ thuộc mẫu người chẳng sắc nhưng cũng ít khi sai! Họ là người luôn biết cách hòa đồng với xung quanh. Vì vậy, họ luôn được đánh giá là: trầm tĩnh, điềm tĩnh, chững chạc, chín chắn, cẩn trọng và đặc biệt là rất khiêm tốn. Nhờ đó, họ thường được tín nhiệm, được cân nhắc trong công việc – Mặc dù xét ra năng suất, chất lượng, hiệu quả của họ thuộc loại bình bình, thường thường bậc trung.

Quả thật ở đời, nhìn bề ngoài, nhiều người nhầm lẫn tai hại: Một kẻ không biết gì để nói lại cứ tưởng đó một người thông thái im lặng.

Đôi điều lạm bàn tản mạn trên đây, chắc rằng không trùng với quan niệm của nhiều người khác. Âu đó cũng là bình thường. Trong cuộc sống, trên từng phương diện, muôn người muôn nẻo nghĩ.

Hoàng Kim kính anh Mạnh Đẩu Nguyễn vui khỏe. Em Hoàng Kim thấy còn có mẫu người ít nói thứ năm

5 – Có mẫu người kiệm lời, nói rất ngắn gọn, chỉ hai đến ba câu ngắn, nhưng lại thích lưu lại cho riêng mình và người thân kén đọc ba lập luận chính ý nghĩa sâu sắc nhất bài học ấy . Ví như “Đời day ta tốt gỗ chẳng cần sơn. Sự thật tốt hơn ngàn lời nói” Câu trên là tục ngữ Việt chất lượng cốt lõi hơn hư danh, nhưng thời nay không thể coi thường nhiễu dư luận truyền thông của mẫu mã đánh bóng . Câu dưới “Sự thật tốt hơn ngàn lời nói” không phải là tục ngữ nhưng dường như hợp với mọi thời, là bài học thấm thía nhất của sự thành công khởi nghiệp, ít nhất có ba thí dụ tâm huyết nhất đời người để dạy và học , như câu chuyện kể dưới đây https://hoangkimlong.wordpress.com/…/su-that-tot-hon…

Kinh kiệm lời là vàng. Kinh kiệm lời có chú giải NGỌC ẨN NGỮ TINH HOA, để thấu hiểu chân thiện mỹ, soi sáng lại chính minh, chẳng màng cầu danh lợi.”

Ví như lời kiệm chữ: Nguyễn Du là bậc anh hùng đã cung cấp tổng luận và 540 trang tư liệu chọn lọc về Nguyễn Du; trong trao đổi Nguyễn Du danh sĩ tinh hoa dưới đây là một điểm nhấn nhằm đánh giá đúng Nguyễn Du là người thế nào ? theo lối soi xét “Vịnh Thúy Kiều” của Nguyễn Công Trứ.

NguyenDu

NGUYỄN DU LÀ BẬC ANH HÙNG
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Nguyễn Du khi sang sứ nước Thanh về có tập thơ “Bắc Hành” và truyện “Thúy Kiều” lưu hành ở đời (1). Thơ Kỳ Lân Mộ trong ‘Bắc Hành” kiếm bút sắc hơn gươm, là thông điệp ngoại giao thấu tình đạt lý, sức mạnh như một đạo quân, là kiệt tác văn chương đã làm thay đổi chính sách của  vua Thanh và danh tướng Phúc Khang An tổng đốc Lưỡng Quảng, thay vì báo thù rửa hận cho Tôn Sĩ Nghị, đã giữ hòa hiếu lâu dài với Việt Nam. Nguyễn Du là bậc anh hùng quốc sĩ, danh sĩ tinh hoa, kỳ tài hiếm có của dân tộc Việt. Nguyễn Du là bậc anh hùng xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-la-bac-anh-hùng

KỲ LÂN MỘ
Nguyễn Du

Phương Chi Yên Đệ người thế nào?
Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân.
Mỗi khi nổi giận giết mười họ,
Cổn to vạc lớn hại trung thần
Năm năm giết người hơn trăm vạn
Xương chất thành núi máu chảy tràn
Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất
Buổi ấy sao không đi về Nam?

Nguyên văn chữ Hán

Hà huống Yên Đệ hà như nhân
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
Bạo nộ nhân sinh di thập tộc
Đại bỗng cự hoạch phanh trung thần
Ngũ niên sở sát bách dư vạn
Bạch cốt thành sơn địa huyết ân
Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất
Đương thế hà bất Nam du tường?

(1) Nguyễn Du tiểu sử trong sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, người dịch Đỗ Mộng Khương, người hiệu đính Hoa Bằng, Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế 2006, trang 400 /716 Tập 2; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-tho-chu-han/

TRÒ CHUYỆN VỚI YẾN THANH
Bạch Ngọc Hoàng Kim


Thế sự hiên ngang một chiến thần
Thượng đài bản lĩnh thật vô song
Anh hùng trí dũng Kỳ Lân vượt
Lãng Nhân thời vũ Tống Giang so
Hảo hàn Lý Quỳ nhường bạn quý
Chân tình Người Ngọc phước duyên cho
Tiểu Ất Yến Thanh cao ẩn sĩ
Sư Sư Thủy Hữ nhất lão sư

(*) yến thanh đánh thẩm nguyên https://youtu.be/1jHkJsP1t5s; Yến Thanh Lý Sư Sư https://youtu.be/1jHkJsP1t5s ; Yến Thanh ‘đạo ẩn vô danh’ https://youtu.be/g27TchOffLk ; Thủy Hử tập 66 Lương Sơn 108 anh hùng https://youtu.be/rNZPCojf3XU ; Yến Thanh mê tung quyền https://youtu.be/kLHrZ7XX9qs ; Yến Thanh Thủy Hử luận https://youtu.be/UnR9Zmo7F-0 https://hoangkimlong.wordpress.com/2023/04/25/tro-chuyen-voi-yen-thanh/


Nguyễn Du danh sĩ tinh hoa 365 chuyện kể mỗi ngày 3 tháng 1 năm 1776 nhằm ngày 23 tháng 11  năm Ất Dậu là ngày sinh của Nguyễn Du. Ba trăm năm nữa chốc mòng. Biết ai thiên hạ khóc cùng Tố Như? Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”. Nguyễn Du hiện được thế giới đánh giá là danh nhân văn hóa thế giới, nhà thơ lớn, nhưng tầm vóc của Người không phải chỉ vậy. Nguyễn Du là hiền tài lỗi lạc, nhà chính trị, ngoại giao, văn hóa, giáo dục kiệt xuất của Việt Nam không chỉ đối với triều Nguyễn mà Nguyễn Du còn là danh sĩ tinh hoa lỗi lạc của mọi thời đại.

Nguyễn Du 250 năm nhìn lại, đã giới thiệu Nguyễn Du quê hương và dòng họ, tóm tắt gia thế Nguyễn Du để hiểu câu Kiều: “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.” Họ Nguyễn Tiên Điền có thế lực mạnh đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản. Nguyễn Du cuộc đời và thời thế, niên biểu từ lúc ông sinh thành cho đến lúc Nguyễn Du mười sáu tuổi, làm Chánh Thủ hiệu quân Hùng Hậu ở Thái Nguyên, tạo đất căn bản, dấy nghiệp ở Bắc Hà, lập thế chân vạc, tranh hùng với Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn ở Thuận Hóa và Nguyễn Ánh ở đất Gia Định.

Nguyễn Du danh sĩ tinh hoa, bài viết này luận về ba điểm căn bàn: 1) Nguyễn Du phong trần mài một lưỡi gươm, 2) Nguyễn Du đội trời đạp đất ở đời; 3) Nguyễn Du thiện căn ở tại lòng ta.

Nguyễn Du phong trần mài một lưỡi gươm

Lần theo chính sử chúng ta tái hiện được Nguyễn Du của năm năm đầu trong 15 năm lưu lạc (1781-1796):

Năm Tân Sửu (1781) Nguyễn Du mười sáu tuổi, Nguyễn Du làm Chánh Thủ hiệu quân Hùng Hậu ở Thái Nguyên. Ý định họ Nguyễn Tiên Điền và Nguyễn Du là tạo đất căn bản và dấy nghiệp ở Bắc Hà, lập thế chân vạc, tranh hùng với Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn ở Thuận Hóa và Nguyễn Ánh ở đất Gia Định. Tướng trấn thủ Thái Nguyên Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến (Hà Mỗ trong Gia Phả họ Nguyễn Tiên Điền) là cha nuôi của Nguyễn Du và tâm phúc Nguyễn Nhiễm. Tướng trấn thủ Sơn Tây Nguyễn Điền là anh cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du, Tướng trấn nhậm Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ đều là học trò Nguyễn Nhiễm và đó cũng là đất tổ nghiệp của nhà Nguyễn Tiên Điền. Nguyễn Du định dựng cờ phù Lê, xin chiếu vua Càn Long, liên thủ với vùng Nam Trung Quốc và Nghệ Tĩnh, giao kết kẻ sĩ, xây dựng lực lượng, trầm tĩnh theo chuyển biến thời cuộc để chớp thời cơ hành động.

Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai

Cũng năm ấy, Nguyễn Ánh sau sự biến Đông Sơn, phải vất vả đối phó với nội tình tan rã ở Gia Định. Tháng 10 năm đó, vua nước Xiêm La (Thái Lan) là Trịnh Quốc Anh (Taksin) sai hai anh em tướng Chất Tri (Chakkri) sang đánh Chân Lạp. Nguyễn Vương sai Nguyễn Hữu Thụy và Hồ Văn Lân sang cứu, trong khi hai quân đang chống nhau thì ở Vọng Các (Băng Cốc) vua Xiêm bắt giam vợ con của hai anh em Chất Tri. Hai anh em tướng Chất Tri (Chakkri) bèn giao kết với Nguyễn Hữu Thụy rồi đem quân về giết Trình Quốc Anh (Taksin) và tự lập làm vua Xiêm La, xưng là Phật Vương (Rama1). Họ Chakkri làm vua cho đến ngày nay và các vua đều xưng là Rama. Vua Rama I chọn Bangkok (hay “Thành phố của các thiên thần”) làm kinh đô.

Năm Nhâm Dần (1782). Nguyễn Du mười bảy tuổi. Năm ấy, Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Khải (Trịnh Tông) lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận công, Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.

Trước đó, Trịnh Sâm kiêu hãnh khi quân Trịnh lấy được Thuận Hóa, đã có ý cướp ngôi nhà Lê, bèn sai quan thị lang Vũ Trần Thiệu đi cùng quan nội giám mang biểu sang tấu trình vua Thanh rằng con cháu nhà Lê không có ai đáng làm vua nữa. Nhưng, Vũ Trần Thiệu khi sang hồ Đồng Đình đã đem đốt tờ biểu rồi uống thuốc độc mà chết nên việc cầu phong bỏ không nói đến nữa. Trịnh Sâm say đắm Đặng Thị Huệ, trước khi chết để di chiếu phế con trưởng là Trịnh Khải lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử và giao Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo (Tố Lý) làm phụ chính. Trịnh Cán ít tuổi, lắm bệnh không mấy người phục, nên xảy ra biến loạn. Tháng 9 năm 1782 Trịnh Sâm mất, Trịnh Khải mưu với quân tam phủ kéo đến vây phủ giết Hoàng Đình Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa, tức Đoan Nam Vương (Nguyễn Khản là thầy dạy của Trịnh Khải).

Tháng 10 năm 1782, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem hơn 100 chiến thuyền vào cửa Cần Giờ đánh nhau với quân Nguyễn Ánh ở Ngã Bảy. Thủy binh Tây Sơn tinh nhuệ và thiện chiến áp sát và dùng hỏa hổ tấn công. Quân Nguyễn Ánh mặc dù có người Pháp và người Bồ Đào Nha điều khiển tàu châu Âu bảo vệ vòng ngoài vẫn thua to. Cai cơ Mạn Hòe (Manuel) người Pháp chết tại trận. Nguyễn Ánh phải bỏ thành Sài Gòn chạy về Ba Giồng. Quận công Tống Phước Thiêm bị quân Đông Sơn giết chết. Nguyễn Ánh dẫn tàn quân lánh ra đảo Phú Quốc.

Nguyễn Nhạc bình xong đất Gia Định, rút quân về Quy Nhơn, để hàng tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập giữ Sài Gòn. Khi quân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, Chu Văn Tiếp đem quân từ Phú Yên về hợp với quân các đạo, đánh đuổi quân Tây Sơn đi, lấy lại thành Sài Gòn rồi đón Nguyễn Ánh về, sửa sang mọi việc để chống giữ với Tây Sơn.

Năm Quý Mão (1783). Nguyễn Du mười tám tuổi. Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường . Nguyễn Du vẫn giữ chức Chánh thủ hiệu quân Hùng hậu Thái Nguyên, nơi Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến là cha nuôi làm quan trấn thủ. Đây là vùng đất hiểm yếu có nhiều người Trung Quốc sang khai mỏ bạc. Nguyễn Đăng Tiến vốn là tay giặc già phản Thanh phục Minh người Việt Đông Trung Quốc, vừa là tân khách, thầy dạy võ cho Nguyễn Du và các anh em, vừa là tâm phúc của Nguyễn Nhiễm.

Nguyễn Du lấy vợ chính thất họ Đoàn (hoặc đính hôn?) là con gái thứ sáu của Đoàn Nguyễn Thục (người Quỳnh Côi, Hải An xưa thuộc Sơn Nam, nay thuộc Thái Bình). Nhờ lương duyên này mà Nguyễn Du có thêm thế lực của cha vợ là quan Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá và anh vợ là tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn, sau này làm quan thị lang triều Tây Sơn.

Cũng năm ấy, Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng, Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa. Anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ (sinh 1761) đỗ đầu thi Hương ở điện Phụng Thiên, được bổ thị nội văn chức, khâm thị nhật giảng, sung Nội Hàn Viện cung phụng sứ, phó tri thị nội thư tả lại phiên, Thiên Thư Khu mật viện Đức Phái hầu, cai quản đội quân Phấn Nhất của phủ Chúa. Vừa lúc Thuận Châu khởi binh, phụng sai hiệp tán quân cơ của đạo Sơn Tây.

Năm 1783, vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem binh vào đánh phía Nam. Trong chiến dịch này Nguyễn Huệ đã khéo lợi dụng lúc thủy triều lên và mượn sức gió thổi từ biển vào đất liền để dùng hỏa công và hỏa hổ tiến công, trên bờ thì dùng voi chiến do thủy binh chở vào, lần đầu xuất hiện ở đất Gia Định trên một địa thế hẹp. Nguyễn Vương thua to. Nguyễn Ánh rước mẹ và cung quyến chạy ra đảo Phú Quốc. Tháng 6 năm ấy, Nguyễn Huệ ra đánh Phú Quốc, Nguyễn Vương chạy về Côn Lôn. Quân Tây Sơn lại đem thuyền đến vây Côn Lôn , nhưng gặp bão đánh đắm cả thuyền nên Nguyễn Ánh mới trốn thoát được, chạy về đảo Cổ Cốt rồi lại trở về Phú Quốc.

Lại nói đất kinh kỳ Thăng Long, nguyên từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng về sau, chia quân làm hai thứ binh là ưu binh và nhất binh. Ưu binh thì kén quân Thanh Nghệ làm quân túc vệ đóng ở kinh thành canh giữ những nơi trọng yếu cung vua phủ chúa, được cấp công điền và có chức sắc. Nhất binh là lính tứ trấn ở Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây chỉ để đủ giữ các trấn và hầu hạ các quan còn thì cho về làm ruộng, khi cần dùng thì mới gọi. Những lính ưu binh từ các đời trước dù có kẻ ngang ngược công thần nhưng nhà chúa cũng chỉ trị tội tên cầm đầu mà vẫn giữ chế độ ưu binh, nên về sau ưu binh đã quen thói gặp điều trái ý là nổi lên làm loạn. Nay Trịnh Khải nhờ quân tam phủ Thanh Nghệ mà đoạt được ngôi chúa Đoan Nam Vương, trừ được vây cánh của Trịnh Cán nên ban ân quan tước cho kẻ đứng đầu kiêu binh là Nguyễn Bằng và trọng thưởng cho kiêu binh. Đó chính là mầm loạn khó kiềm chế.

Năm Giáp Thìn (1784). Nguyễn Du mười chín tuổi. Tháng 2 , nhân vụ 7 kiêu binh bị nhà chúa giết vì bữa tiệc vua Lê đãi kiêu binh có công phò Hoàng Tự Tôn Lê Duy Kỳ từ trong tù ra, kiêu binh đã nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu, Thăng Long bị phá. Nguyễn Khản trốn lên với em là Nguyễn Điều đang làm trấn thủ Sơn Tây và Nguyễn Nể làm Hiệp tán Nhung vụ. Họ toan hợp quân các trấn về đánh kiêu binh, nhưng khi sự lộ ra quân kiêu binh vào canh chặt phủ chúa, Trịnh Khải không ra được nên mưu bất thành. Kiêu binh chia nhau giữ các cửa ô. Quân các trấn sợ chúa bị hại nên đành kéo về. Kiêu binh áp lực bãi chức Nguyễn Khản và giáng chức Nguyễn Điều, hai người về Hà Tỉnh.

Lại nói Hoàng tôn Lê Duy Kỳ (tức vua Lê Mẫn Đế, Lê Chiêu Thống sau này) là con trưởng của Lê Duy Vĩ, cháu đích tôn của vua Lê Hiển Tông . Ba anh em hoàng tự tôn được kiêu binh giải cứu sau 15 năm lao tù. có mối hận sâu sắc với chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1767-1782). Hoàng Lê Nhất thống chí của Ngô Thời Chí kể rằng: Nguyên Trịnh Doanh có con gái lớn là quận chúa Tiên Dung , quận chúa là con vợ cả, được Trịnh Doanh yêu lắm. Thế tử Trịnh Sâm là con vợ thứ. Vợ cả Doanh muốn con được làm hoàng hậu nên xin với Doanh để gả cho thế tử Lê Duy Vĩ. Vì quá yêu con, vợ Doanh thường phân biệt lễ vua tôi quá rõ rệt, những bữa mời thái tử ăn cơm, Sâm không được vợ cả Trịnh Doanh cho cùng ngồi với thái tử. Trịnh Sâm nói với Lê Duy Vĩ: “Trong hai ta phải có kẻ mất người còn. Vua ấy không thể cùng thời với chúa này”. Thái tử Lê Duy Vĩ vẫn có ý đề phòng, thường giao kết với hào kiệt và dân sĩ trong thiên hạ, mong ngày giành lại thực quyền. Do Trịnh Doanh mất sớm. Trịnh Sâm được lên thay quyền. Việc đầu tiên của Sâm là sai một viên quan thị vu cho thái tử thông gian với cung nhân của Trịnh Doanh (Lập lại mưu cũ của Trịnh Giang giết vua trước đây: vu cho Lê Đế Duy Phương tư thông với vợ Trịnh Cương, buộc phế bỏ, giáng xuống làm Hôn Đức quân, rồi bị giết chết). Nay thái tử Lê Duy Vĩ cũng bị kết tội trạng giống hệt vậy. Thái tử và ba con bị tống giam vào ngục. Sau đó, thái tử lại bị vu tội định bỏ trốn để tạo phản nên bức uống thuốc độc chết năm 1771. Ba anh em hoàng tự tôn bị giam vào ngục 15 năm sau mới được kiêu binh giải cứu. Nhà chúa giết bảy kiêu binh giải cứu hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ khi vua Lê đang thiết họ ăn uống đã châm ngòi cho loạn Kiêu binh phá nát Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu và áp lực bãi chức Nguyễn Khản, bởi ông là thầy Trịnh Khải, lại làm quan Tham tụng, thượng thư bộ Lại.

Lại nói Nguyễn Ánh ở Phú Quốc hết sạch lương thực phải hái rau và tìm củ chuối mà ăn, thế lực cùng kiệt, bèn cho người tìm người quen cũ là cố đạo Bá Đa Lộc lúc đó đang ở Thái Lan để hỏi kế. Bá Đa Lộc khuyên là nên cầu nước Pháp nhưng phải cho thế tử Cảnh cùng đi để làm tin. Nguyễn Ánh theo lời ấy, bèn giao Hoàng tử Cảnh theo Bá Đa Lộc mang quốc thư sang Pháp. Tờ thư ấy có 14 khoản đại ý xin nước Pháp giúp cho 1500 quân và tàu bè, súng ống, thuốc đạn, đủ cả mọi thứ. Nguyễn Vương xin nhường cho nước Pháp cửa Hội An, đảo Côn Lôn và để riêng cho nước Pháp được đặc quyền vào buôn bán ở nước Nam. Nguyễn Ánh lại tiếp được mật biểu của Châu Văn Tiếp (lúc trước bị thua ở Sài Gòn đã theo đường núi chạy sang Thái Lan xin cầu viện) nên mới đến hội với tướng Thái Lan tại Hà Tiên và sau đó sang Bangkok. Vua Xiêm Chakri (Rama1) tiếp đãi Nguyễn Ánh rất hậu và sai hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng các tướng Lục Côn, Sa Uyên và Chiêu Thùy Biện là một cựu thần Chân Lạp thân Xiêm, đem hai vạn quân (tài liệu khác nói là ba vạn, có tài liệu nói là năm vạn kể cả quân bộ của Chân Lạp và hương binh mới mộ của Nguyễn Ánh ) với 300 chiến thuyền sang giúp. Nguyễn Ánh phong Châu Văn Tiếp là Bình Tây đại đô đốc được toàn quyền điều khiển việc quân. Ngày 9 tháng 6 xuất quân, trước chiếm Kiên Giang sau theo hai đường thủy bộ tiến sang lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Sa Đéc. Khi đánh đến Mân Thít, Châu Văn Tiếp bị thương nặng và mất. Nguyễn Ánh cử Lê Văn Quân thay chức thống lĩnh đại quân, Nguyễn Văn Thành đem 8.000 quân theo quân Xiêm đi đánh trận. Các tướng Mạc Tử Sinh (con Mạc Thiên Tứ), Nguyễn Thừa Diễn đi trấn thủ và mộ binh ở các vùng vừa chiếm được. Quân Xiêm tiến đến đâu cũng làm nhiều điều hung ác, dân rất oán giận. Tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa sai người cấp báo về Quy Nhơn. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.

Năm Ất Tỵ (1785). Nguyễn Du hai mươi tuổi. Nguyễn Huệ vào đến Gia Định, nhữ quân Xiêm vào trận địa mai phục ở rạch Gầm, Xoài Mút ở phía trên Mỹ Tho. Nguyễn Huệ bố trí pháo binh ở hai bên bờ và các cù lao trên sông, phục sẵn chiến thuyền ở các con lạch và cù lao Thới Sơn, sau đó phái một số thuyền tới khiêu khích quân Xiêm dụ vào nơi đã giăng bẫy, đánh một trận vào ngày 19 tháng 1 năm 1785, giết quân Xiêm chỉ còn vài nghìn, theo đường bộ chạy được về nước. Nguyễn Huệ phá được quân Xiêm và đem binh truy đuổi Nguyễn Ánh. Chúa Nguyễn hết cả lương thực chỉ còn khoảng 200 quân tướng và 5 chiếc thuyền chạy dạt sang đảo Cổ Cốt, rồi sang Xiêm. Nguyễn Ánh nói với vua Xiêm: Quý quốc vương nghĩ tình lân bang giao hảo cho quân sang giúp nhưng vì tướng tá kiêu ngạo, quân lính tham bạo nên mới đến nổi thất bại như thế. Vua Xiêm Chakri I gọi Chiêu Tăng, Chiêu Sương là “ngu hèn, kiêu căng, hung hãn đến nỗi bại trận làm bại binh, nhục quốc”. Người Xiêm từ sau cuộc bại trận năm 1785, miệng tuy nói khoác mà lòng thì sợ Tây Sơn như cọp. Nguyễn Ánh sau đó xin vua Xiêm cho ra ở Đồng Khoai, ngoại thành Vọng Các (Bangkok ngày nay) khẩn hoang, làm ruộng, đốn củi… để nuôi nhau và bí mật cho người về do thám ở Long Xuyên.

Nguyễn Huệ, sau khi đánh dẹp xong, liền đem đại quân về Quy Nhơn, cử Đô đốc Đặng Văn Trấn ở lại giữ Gia Định. Dương Công Trừng đánh úp quân Tây Sơn ở Long Xuyên bị Thái bảo Tham dẫn quân từ Gia Định xuống đánh, bắt sống và giết chết. Quân Miến Điện sang đánh Xiêm, vua Xiêm đích thâm cầm quân đi đánh. Nguyễn Ánh tự mình cầm quân đi trợ chiến, bắt sống được hơn 500 tù binh cùng nhiều khí giới. Ít lâu sau Xiêm bị quân Chà Và sang xâm chiếm, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Quân trợ chiến cùng em vua Xiêm đi đánh trận. Quân Chà Và bị thua phải rút về. Nguyễn Ánh đóng chiến thuyền và dò la tình hình nhà Tây Sơn để mưu tính trở về.

Năm Bính Ngọ (1786). Nguyễn Du hai mươi mốt tuổi. Loạn kiêu binh ở kinh đô Thăng Long lên cao trào. Quân kiêu binh kéo nhau hàng trăm, hàng ngàn đi cướp phá các làng. Hễ có đứa nào đi lẻ loi thì dân làng lại bắt giết đi nên quân và dân xem nhau như cừu địch. Các văn thần võ tướng đều bó tay. Tham tụng Bùi Huy Bích phải dỗ dành mãi mới tạm yên. Các vụ mất mùa liên tiếp xẩy ra, giá gạo tăng vọt và kiêu binh cướp phá làm hàng nghìn người chết đói. Các trấn Quảng Yên, Kinh Bắc, Thái Nguyên lâm vào cảnh tàn phá, nạn đói và nổi dậy lan rộng.

Tây Sơn chăm chú theo dõi sự suy đồi của họ Trịnh. Ý đồ Tây Sơn đối với phía Bắc đã được Nguyễn Hữu Chỉnh đổ thêm dầu. Nguyễn Hữu Chỉnh là môn hạ của Quận Huy Hoàng Đình Bảo, lập kế rước Tây Sơn về dẹp kiêu binh để báo thù cho chủ.

Nguyễn Hữu Chỉnh là người huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, Trấn Nghệ An nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, đỗ hương cống năm 16 tuổi, tục gọi là cống Chỉnh. Ông hào hoa, cơ trí, nhiều can đảm lại có tài biện bác, trước theo Hoàng Ngũ Phúc đi đánh giặc bể, giặc sợ gọi là chim dữ. Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” chép: “Hữu Chỉnh, lúc trẻ tuổi đỗ hương tiến, là người hào phóng không bó buộc vào khuôn phép. Du lịch kinh sư, Hữu Chỉnh vào yết kiến Hoàng Ngũ Phúc. Ngũ Phúc khen là có tài khác thường, dùng làm gia khách. Khi Ngũ Phúc vào xâm lấn trong Nam, cho Hữu Chỉnh đi theo quân thứ, giữ công việc thư kí, rồi sai đến Tây Sơn khuyên Văn Nhạc (tức Nguyễn Nhạc) quy thuận với triều đình, được Văn Nhạc kính trọng”.

Sau khi quận Việp mất, Nguyễn Hữu Chỉnh tiếp tục làm thủ hạ cho cháu quận Việp là quận Huy Hoàng Đình Bảo, người được giao làm phụ chính cho Điện Đô vương Trịnh Cán, con nhỏ của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm lên ngôi lúc mới 5 tuổi. Khi quận Huy bị kiêu binh giết, Nguyễn Hữu Chỉnh bàn với trấn thủ Nghệ An là Võ Tá Giao việc tự lập nhưng Giao sợ không dám theo nên Chỉnh bỏ vào với vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc và được vua Thái Đức Nguyễn Nhạc rất tín nhiệm. Tây Sơn nhiều phen dòm ngó Phú Xuân nhưng còn nghe ngóng chưa dám quyết . Gặp khi Phạm Ngô Cầu sai Nguyễn Phu Như vào do thám Tây Sơn, không ngờ Nguyễn Hữu Chỉnh quen biết Phu Như nên dò biết rõ tình hình Thuận Hóa và hiến kế cho vua Thái Đức.

Nguyễn Nhạc nắm được tình hình Thuận Hóa trấn thủ Phạm Ngô Cầu là người nhu nhược, vô mưu, tham lam, ham làm giàu, mê tín, đa nghi và Bắc Hà biến động nên chớp thời cơ sai em là Nguyễn Huệ làm tiết chế, rể là Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc đem quân thủy bộ ra đánh Thuận Hóa.Nguyễn Lữ đưa quân tiếp ứng ở mặt sau. Nguyễn Huệ phái một cánh quân thủy tới thẳng sông Gianh để chiếm các công sự phòng thủ và ngăn chặn mọi tiếp viện từ phía Bắc, hai cánh quân thủy bộ cùng lúc tiến đánh Phú Xuân. Phạm Ngô Cầu trúng kế mê hoặc lập đàn chay cầu siêu, lại bị kế li gián của Nguyễn Hữu Chỉnh nên nhanh chóng thất bại. Biết Phạm Ngô Cầu tính đa nghi, Nguyễn Hữu Chỉnh viết thư chiêu hàng gửi phó tướng Hoàng Đình Thể lại giả vờ cho người đưa nhầm cho Phạm Ngô Cầu. Khi quân Tây Sơn đánh thành, Hoàng Đình Thể đem quân bản bộ ra đối trận bắn hết thuốc đạn, Phạm Ngô Cầu đóng chặt cửa thành không ra cứu viện nên Hoàng Đình Thể và hai con cùng tỳ tướng Vũ Tá Kiên đều bị chết. Phạm Ngô Cầu kéo cờ trắng ra hàng bị giải về Quy Nhơn định tội phải chém. Toàn bộ vùng Thuận Hóa rơi vào tay Tây Sơn chỉ trong mấy ngày.

Nguyễn Huệ hội tướng bàn định việc trấn giữ Thuận Hóa. Nguyễn Hữu Chỉnh nói: Tướng quân phụng mệnh ra đánh một trận mà bình được Thuận Hóa, binh uy chấn động Bắc Hà. Phép dùng binh, có đủ thời, thế và cơ thì đánh đâu cũng được. Bắc Hà bây giờ tướng lười, quân kiêu, triều đình không kỹ cương, nay nhân uy thanh nếu đánh là thắng, xin đừng bỏ lỡ. Nguyễn Huệ nói: Bắc Hà có nhiều nhân tài không nên coi thường. Hữu Chỉnh đáp lại: Nhân tài Bắc Hà chỉ có một mình Chỉnh, nay Chỉnh đã bỏ đi thì nước không còn ai, xin ông chớ ngại. Nguyễn Huệ cười nói: Người khác thì ta không ngại mà chỉ ngại ông đó thôi. Chỉnh biến sắc nói: Tôi tài hèn, nói vậy là để tỏ cho ông biết, Bắc Hà không còn nhân tài mà thôi. Nguyễn Huệ lấy lời nói ngọt để yên lòng Chỉnh và bảo rằng: Nhà Lê làm vua đã mấy trăm năm nay, bây giờ cướp lấy, chưa chắc lòng người đã theo mình. Hữu Chỉnh nói: Nay Bắc Hà có vua lại có có chúa, ấy là một sự cổ kim đại biến. Họ Trịnh tiếng là phù Lê, thực là hiếp chế, cả nước không ai phục. Vả xưa nay không ai làm gì để giúp nhà Lê là vì sợ cái thế mạnh đó mà thôi, nay ông phù Lê diệt Trịnh thì thiên hạ ai chẳng theo ông. Nguyễn Huệ nói: Ông nói phải lắm nhưng ta chỉ phụng mệnh đi đánh Thuận Hóa mà thôi, chứ không phụng mệnh đi đánh Bắc Hà, sợ rồi mang tội trái lệnh thì làm thế nào? Hữu Chỉnh nói: Trái lệnh là tội nhỏ, việc ông làm là công to. Tướng ở ngoài có điều không theo mệnh vua, ông lại không biết hay sao?.

Nguyễn Huệ để anh là Nguyễn Lữ ở lại giữ thành Phú Xuân, cử Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh đi tiên phong vào cửa Đại An đánh lấy kho lương ở bên sông Vị Hoàng. Nguyễn Huệ tự đem binh đi theo sau, ước với Hữu Chỉnh đến sông Vị Hoàng đốt lửa lên làm hiệu. Đại quân Tây Sơn đánh như gió cuốn ra bắc.

Trịnh Tự Quyền đem quân vào tăng cường cho Nghệ An dềnh dàng chưa tới nơi thì Vị Hoàng đã mất. Trấn thủ Sơn Nam Bùi Thế Dận đưa quân bộ về ứng cứu, đô đốc thủy quân Đinh Tích Nhưỡng dàn chiến thuyền giữ cửa sông Luộc. Nguyễn Huệ lợi dụng gió đông nam thổi mạnh, đêm đến nước sông lên to sai lấy hình nộm đặt lên thuyền rồi đánh trống kéo cờ thả cho thuyền trôi đi. Đinh Tích Nhưỡng dàn thuyền chống giữ và dùng súng để bắn, đến lúc biết bị lừa thì hết cả thuốc đạn không chống nổi quân Tây Sơn phải bỏ thuyền mà chạy. Quân của Bùi Thế Dận và Trịnh Tự Quyền cũng tan cả, Nguyễn Huệ hạ được thành Sơn Nam, một mặt truyền hịch đi các lộ nói danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh, một mặt thần tốc đánh thốc vào thành Thăng Long. Quân Trịnh rệu rã thua trận, tan vỡ chạy.

Bấy giờ ở Thăng Long, kiêu binh không sai khiến được, Trịnh Khải gọi Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây về cứu viện. Quân Tây Sơn tiến lên đánh tan quân thủy của Đinh Tích Nhưỡng và quân bộ của Hoàng Phùng Cơ. Đoan Nam Vương Trịnh Khải đích thân mặc áo nhung y, cầm cờ lên voi thúc quân chặn đánh Nguyễn Huệ ở bến Long Tân nhưng thế quân Tây Sơn quá mạnh nên phải chạy về Sơn Tây rồi bị người dân là Nguyễn Tranh lừa bắt được, áp giải đi nộp cho quân Tây Sơn. Dọc đường, Trịnh Khải lấy gươm cắt cổ mà chết.

Nguyễn Huệ sai lấy vương lễ mà chôn cất chúa Trịnh rồi vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê. Họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng lập ra nghiệp chúa truyền từ Trịnh Tùng đến Trịnh Khải được 216 năm (1570-1786) thì chấm dứt. Sau khi Nguyễn Huệ yết kiến vua Lê Hiển Tông, Nguyễn Hữu Chỉnh lại sắp đặt Nguyễn Huệ lấy công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ của vua Lê. Tại kinh kỳ, phe cánh họ Trịnh còn đông, Bấy giờ mọi người mới hiểu rõ Hữu Chỉnh rước Tây Sơn ra để trả thù cho chủ (chứ không phải Nguyễn Khản).

Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn Khản từ Hà Tỉnh theo ghe mành ra Bắc giúp chúa Trịnh chủ trương đóng quân theo lối vẩy sộp kiểu phòng ngự chiều sâu nhiều tầng (theo Lê Quý Kỷ sự), nhưng kiêu binh vu cáo ông rước giặc Tây Sơn về. Nguyễn Khản phải bỏ chạy, ông mất trong hoàn cảnh đó ở Thăng Long, thi hài ông được đưa về an táng tại Hà Tĩnh. Khi kinh thành thất thủ, nhà Trịnh mất, Nguyễn Điều buồn uất ức thành bệnh mất ngày 31-7-1786. Mộ được an táng xã Đại Đồng, huyện Nam Đàn, Nghệ An, sau được cải táng về xã Sơn An, huyện Hương Sơn. Các con và gia đình ông lập chi Nguyễn Tiên Điền tại đây. Chi họ này ở đó hiện có trên 400 người.

Nguyễn Du ở đâu trong năm này? Trong cơn lốc của các sự biến, quân tướng Lê Trịnh nháo nhác tháo thân, khiếp sợ trước binh uy của danh tướng Nguyễn Huệ. Thế nhưng viên võ tướng Nguyễn Du trẻ tuổi, cao lớn, với thanh bảo kiếm của Việp Quân Công Hoàng Ngũ Phúc trao tặng trước đây, đã trầm tĩnh, ung dung bước vào điện Kính Thiên đối mặt với người anh hùng Nguyễn Huệ oai chấn Bắc Hà. Sử liệu đã xác nhận rằng Nguyễn Huệ không giết vị tướng quân tôn phò nhà Lê đó, một mặt vì nếu Nguyễn Huệ ra tay tàn độc lúc này sẽ tự mình xóa đi danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh mà ông nêu ra trước đó. Một mặt ông không dám kết oán với viên tướng tâm phúc của Nguyễn Du là  Quản Vũ Hầu Hà Mỗ Nguyễn Đăng Tiến vốn là một danh tướng sức khỏe và võ nghệ vô địch luôn kế cận như bóng với hình bên cạnh Nguyễn Du và là một tướng giỏi người Quảng Tây. Nguyễn Huệ với tầm nhìn chiến lược sắc sảo, đồng ý với Nguyễn Đăng Tiến và Nguyễn Du để ông về “quê cũ” của Nguyễn Đăng Tiến ở Quảng Tây. Người đời sau Nguyễn Thế Quang đã kẻ chuyện Nguyễn Du gặp Nguyễn Huệ tại điện Kính Thiên, và Hoàng Kim đã lược sử Quảng Tây xưa và nay để luận về hình thái lịch sữ Trung Việt.

Niên biểu Nguyễn Du từ năm 1786-1820 sẽ được tiếp nối trong một khảo luận khác. Những sử liệu trên đây và tiếp sau đó đã cho thấy: Nguyễn Du là một võ tướng hiển hách ngoài đờì, một Từ Hải trong Truyện Kiều thể hiện rất rõ nét trong năm năm đầu của Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc, một Đặng Dung bôn ba khi ở Lưỡng Quảng, khi ở vùng “hải tần” đồng bằng ven biển Bắc Bộ, một cai bạ của tỉnh Quảng Bình tương đương với của một tổng đốc trọng thần, tại địa bàn hiểm yếu bậc nhất của kinh thành Phú Xuân:

Phong trần, mài một lưỡi gươm
Những loài giá áo, túi cơm sá gì
Nghêng ngang một cõi biên thùy
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương
Dưới cờ ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.

Nguyễn Du đội trời đạp đất ở đời,

Nguyễn Du làm Chánh sứ của vua Gia Long, đối mặt với vua Càn Long, một trong mười vị vua xuất chúng nhất của Trung Hoa từ xưa đến nay. Nguyễn Du đã dám mắng Minh Thành Tổ Chu Đệ ông vua giỏi và tàn bạo nổi tiếng của nhà Minh trong sử Trung Hoa, có lý có tình, chặt chẽ và sắc sảo đến mức khiến vua Càn Long phải nể phục, triệt binh không dám dòm ngó phương Nam. Nguyễn Du thấu hiểu và tôn vinh Liễu Hạ Huệ ẩn khuất trong dân gian Trung Quốc, ông biết rõ điển tích  và đánh giá những danh nhân văn hóa Trung Hoa mọi thời trước và cùng thời Nguyễn Du với kiến giải vững chắc và văn chương trác tuyệt làm cho các văn thần võ tướng Trung Hoa phải kính nể.

Nguyễn Du thiện căn ở tại lòng ta,

Tố Như là bậc danh sĩ chí thiện, khiêm nhường tận tụy,  không hề chút sơ hở trong chốn quan trường! Nguyễn Du hiếu thấu kinh Kim Cương, sâu sắc Kinh Dịch, Phong Thủy và Nhân tướng học, uyên thâm mọi mặt về lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hội và ngôn ngữ, nhưng cẩn trọng và khiêm nhường hiếm thấy. Ông thấu hiểu và vận dụng sâu sác đến mức vẫn trao lại được ngọc cho đời toàn bộ di sản một đời của ông trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt mà vua Gia Long, vua Minh Mệnh buộc phải trọng dụng và vinh danh ông mà không thể tìm được bất cứ một cớ nhỏ nào để loại trừ.

Sử liệu Niên biểu Nguyễn Du sẽ được trình bày ở bài kế tiếp.

Nguyễn Du là hình tượng Kim Vân KiềuTừ Hải trong Truyện Kiu.

Nguyễn Du là bậc anh hùng danh sĩ tinh hoa .

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/an-vui-cu-trang-trinh/

MƯA LÀNH VÀ LÚA XUÂN
Bạch Ngọc Hoàng Kim


Sớm xuân trên đồng rộng
Mưa lành trời đất nghiêng
Lúa đang thì con gái
Đất vào mùa làm duyên

?????????????
Mưa lành và lúa xuân

Sau mưa lành sớm xuân thăm đồng, đất trời đẹp lạ lùng. Thật thích giữa những bản nhạc thiên nhiên an lành và cảnh đẹp đồng quê thanh bình …

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-12-team-group-of-gsr-in-ccvn.jpg

MƯA LÀNH VÀ LÚA XUÂN
Hoàng Kim  

Phương Nam nắng ấm suốt ngày
Mưa lành lại nhớ mùa vàng lúa xuân
Dẫu rằng xuân đến tự xuân
Biết chăm bón đúng tươi mầm nõn xanh

Ngày vui nhàn chuyện an lành
#Thungdung đồng rộng #Annhiên việc đời
Trạng Trình phúc hậu đường vui
Ban mai nắng sớm thuận thời nông lâm

Lúa xuân nhớ bạn đồng tâm
Mưa lành nước mát đất nhuần người chăm

Thông tin tích hợp tại TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
#htn #ana #Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc, #đẹpvàhay,
#cnm365#cltvn; Mưa lành và lúa xuân (hình) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mua-lanh-va-lua xuanhttps://khatkhaoxaqnh.wordpress.com/category/mua-lanh-va-lua-xuan

SỚM THU TRÊN ĐỒNG RỘNG
Hoàng Kim


Sớm thu trên đồng rộng
Cây đời xanh thật xanh
Lúa siêu xanh tỏa rộng
Hương đồng thơm mông mênh.

SỚM ĐÔNG TRÊN ĐỒNG RỘNG
Hoàng Kim


Sớm Đông trên đồng rộng
Trời đất đẹp lạ lùng
Bản nhạc vui an lành
Ơi đồng xanh yêu dấu,

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chom-dong-2.jpg

Sớm Đông từ tiết Lập Đông trong 24 tiết khí lịch nhà nông. thường bắt đầu khoảng ngày 7 hay 8 tháng 11 dương lịch tùy theo từng năm khi khi Mặt Trờixích kinh 225°. Tiết khí đứng ngay trước Lập đông là Sương giáng và tiết khí kế tiếp sau là Tiểu tuyết. Ý nghĩa của Sớm Đông là bắt đầu mùa Đông. Trong văn chương Việt có bài thơ hay ‘Cây thông’ và ‘Vịnh mùa Đông’ đặc sắc của Nguyễn Công Trứ thông reo ngàn Hống  và một số bài đối họa thú vị về chủ đề này.

CÂY THÔNG 
Nguyễn Công Trứ

Ngồi buồn mà trách ông xanh.
Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người.
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời vách đá cheo leo.
Ai mà chịu rét thì trèo với thông

VỊNH MÙA ĐÔNG
Nguyễn Công Trứ

Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng,
Chẳng vì rét mướt bỏ mùa đông.
Mây về ngàn Hống đen như mực,
Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng.
Cảo mực hơi may ngòi bút rít,
Phím loan cưỡi nhuộm sợi tơ chùng.
Bốn mùa ví những xuân đi cả,
Góc núi ai hay sức lão tùng.

Qua đèo chợt gặp mai đầu suối với những bài thơ về mùa xuân và hoa mai nói đến sự vượt qua tiết đông lạnh giá để đến với mùa xuân ấm dần… Bài thơ ‘Tảo Mai’ của Trần Nhân Tông lưu trong “Lên Yên Tử sưu tầm thơ đức Nhân Tông’ là một kiệt tác , tiếc là đến nay vẫn chưa có bản dịch thơ tiếng Việt hay tương xứng

Tảo mai của Trần Nhân Tông

五出圓芭金撚鬚,
珊瑚沉影海鱗浮。
箇三冬白枝前面,
些一辨香春上頭。
甘露流芳癡蝶醒,
夜光如水渴禽愁。
姮娥若識花佳處,
桂冷蟾寒只麼休。

Ngũ xuất viên ba kim niễn tu,
San hô trầm ảnh hải lân phù.
Cá tam đông bạch chi tiền diện,
Tá nhất biện hương xuân thượng đầu.
Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh,
Dạ quang như thủy khát cầm sầu.
Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ
Quế lãnh thiềm hàn chỉ ma hưu!

Năm cánh hoa tròn nhị điểm vàng,
[Như] bóng san hô chìm, [như] vảy cá biển nổi.
Cành hoa trắng xóa suốt trong ba tháng đông,
Sang đầu xuân chỉ còn loáng thoáng một vài cánh thơm nhẹ.
Móc ngọt chảy mùi thơm làm chú bướm si ngây tỉnh giấc,
ánh sáng ban đêm như nước khiến con chim khát buồn rầu.
Nếu Hằng Nga biết được vẻ đẹp thanh nhã của hoa mai,
Thì có ưa gì cây quế với cung thiềm lạnh lẽo.

Thơ Việt mới có nhiều bài hay về Chớm Đông. Một số trích đoạn các bài thơ Chớm Đông đặc sắc mà tôi yêu thích hơn cả: Nguyên Đỗ viết những lời thơ Chớm Đông hay đằm thắm “Năm ngoái gặp nhau buổi chớm đông. Sáng nay lành lạnh mặt trời hồng. Chao ơi lại nhớ ơi là nhớ. Lúc cận kề nhau, phút mặn nồng…”.  Khánh Chân tứ thơ Chớm đông thật sang trọng: “Chiều nay gió lạnh chớm sang đông. Héo hắt bên hiên chút nắng hồng.  Mây xám chờ ai ôm chót núi. Sương mờ nhớ bạn trải ven sông…”.  Linda thơ Chớm đông là sự hoài niệm: “Thu đã tàn rồi trời chớm Đông. Từng cơn gió lạnh buốt qua hồn. Tâm tư ray rứt mùa Thu nhớ. Đâu phút êm đềm thóang ước mong”.

Video nhạc Việt về chớm Đông có nhiều bài hay. “Nỗi nhớ mùa Đông’ trong NS Phú Quang – Những ca khúc hay nhất tôi thường thích nghe lại. Mời bạn cùng thưởng thức

Sớm đông trên đồng rộng, Hoàng Kim thơ và bình, đôi lời cảm nhận.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-13.jpg

LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM
Hoang Long, Hoàng Kim và đồng sự

Giống lúa siêu xanh GSR65
Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR65 có nguồn gốc từ giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-DT11-SAL2-7, được lai tạo và nhập nội nguồn gen từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR65 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 65 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR65 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới.

Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR65 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng 95 – 100 ngày đối với lúa sạ và 100 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 98 – 100 cm. Giống có 336 – 354 bông/m2, trọng lượng 1000 hạt khoảng 24 – 25g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR65 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR65 kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm vừa với bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR65 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,70 tấn/ ha vượt 30,12% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha, trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 7,98 tấn/ ha vượt 11,92% so với đối chứng ML48 đạt 71,3 tạ/ha

Giống lúa siêu xanh GSR90
Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR90 được lai tạo từ tổ hợp OM9921x GSR38 thực hiện tại Việt Nam (GSR38 có nguồn gốc là giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-Y7-Y3 nhập nội từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR90 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam lai tạo, tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 90 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR90 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửa Long, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới tại Việt Nam.

Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR90 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng khoảng 99 – 102 ngày đối với lúa sạ và 101 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 103 – 105 cm. Giống có 309 – 351 bông/m2 trọng lượng 1000 hạt khoảng 28 – 29 g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR90 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR90 ít sâu bệnh hại ngoài đồng ruộng, kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR90 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,36 tấn/ha vượt 25,01% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha; trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 8,17 tấn/ ha vượt 14,58% so với đối chứng ML48 đạt 7,13 tấn/ha.

Thông tin tại: 1) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Văn Minh, Đặng Văn Mạnh, Ngô Thị Bích Diễm, Lê Thanh Tùng, Hoàng Kim, Tian Qing Zheng, Zhikang Li. 2018. Nghiên cứu hai giống lúa siêu xanh GSR65, GSR90 năng suất cao, chất lượng tốt và quy trình kỹ thuật thâm canh lúa thích hợp tại cánh đồng Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (Two Green Super Rice varieties GSR65, GSR90 with high productivity and quality and appropriate technical process of cultivation in the Tuy Hoa fields, Phu Yen province) Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tạp chí Khoa học và Công nghệ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số 10, trang 47- 55; Science and Technology Journal of Agriculture & Rural Development , MARD, No 10, p. 47-55, ISSN0866-7020 ; 2) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 2). Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part Two). Trong sách:Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X ; 3) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 1) Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part one). Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X

Lúa Siêu Xanh Việt Nam giống tốt và kỹ thuật thâm canh là khâu trọng yếu, đầu tiên để cải tiến chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo Việt Nam, bảo tồn và phát triển bền vững ngành lúa gạo, thích ứng với biến đổi khí hậu, thích hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam khẳng định tầm nhìn, cơ chế, chính sách mới nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại Nghị định 57/2018 / ND-CP. Theo đó, trục sản phẩm chính nhắm đến các sản phẩm chính quốc gia, trong khi lúa gạo vẫn tiếp tục là ngành chính của nông nghiệp Việt Nam, giá đỡ của an sinh xã hội và phát triển kinh tế, là sinh kế chính của vùng nông thôn rộng lớn, lao động và việc làm. Chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo ở cấp tỉnh cần đủ lớn, liên kết các khu vực nguyên liệu thô với các thương hiệu, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và đào tạo nguồn nhân lực. Mục tiêu hướng tới sự đáp ứng tốt nhất chất lượng cuộc sống của người lao động, đạt hiệu quả cao trong tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng xã hội. Mục đích của tài liệu này là nhằm cung cấp thông tin về các kết quả nghiên cứu đã được xác định rõ ràng để giúp người nông dân nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất lúa gạo đi đôi với việc bảo vệ đất đai và môi trường. Tài liệu được thiết kế như một cẩm nang nghề lúa gạo cần thiết cho các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông, cán bộ tổ chức phi chính phủ làm việc về phát triển nông nghiệp, cũng như các hộ nông dân trồng lúa quy mô nông hộ sản xuất lớn và nhỏ. Tài liệu nhằm cung cấp một thông tin  tham khảo kỹ lưỡng về thực hành sản xuất lúa thân thiện môi trường. Từ việc trình bày ngắn gọn tầm quan trọng lúa gạo trên thế giới và Việt Nam; sản xuất tiêu thụ lúa gạo trên thế giới và Việt Nam; thành phần dinh dưỡng và giá trị kinh tế lúa gạo; nguồn gốc vùng phân bố và phân loại cây lúa; Sinh học cây lúa: Đặc điểm thực vật học cây lúa (rễ, thân, lá, hoa, hạt) Các giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây lúa Đặc điểm sinh lý của ruộng lúa năng suất cao; Khí hậu và đất lúa, tầm quan trọng của nó trong khu vực để đề xuất chi tiết về quản lý đất nước và cây trồng, giống mới và kỹ thuật thâm canh lúa. Tài liệu mỏng này cung cấp một bằng chứng thực nghiệm mạnh mẽ của chính tác giả và đồng sự sau mười năm nghiên cứu ứng dụng lúa siêu xanh (Green Super Rice) vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp Việt Nam, với một số kết quả bước đầu đã được xác định để tiếp tục sự nghiên cứu, giảng dạy, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới, bảo tồn phát triển lúa siêu xanh Việt Nam cho thương hiệu gạo Việt. Kính chúc bà con nông dân những mùa thu hoạch bội thu.

Anh Nam Sinh Đoàn viết : “Ngoài đồng giống lúa không thuần, nhà nông lười khử giống bị lẫn, giống dại. Cộng với nhà lái mua vào để lẫn, hoặc cố tình pha lẫn lấy lời. Ai đời trộn lẫn hột dài với hột hơi tròn, gạo dẽo với gạo cứng cơm, gạo cũ với gạo mới, … Chính vì vậy mà nồi cơm nào cũng chỗ nhão chỗ khô, hạt mềm nhẽo cạnh hạt còn tim bột. (Chưa kể phun thêm hương liệu, chất chống mốc mọt,…thay đổi cả đặc tính hạt gạo khi đun nấu). Nhiều năm làm lúa với anh Hồ Quang Cua, mới có dịp học hỏi về việc làm giống, giữ đặc trạng của từng giống, cách thức trồng trọt – thu hoạch – tồn trữ – xay xát – lựa lọc – bao bì,…cả chục việc đòi hỏi phải chắc tay. Thế mà khi thí nghiệm trên bàn của nhóm chuyên gia còn lòi ra bao thứ khác: thời gian ngâm, tỉ lệ nước, thời gian đun và cách đun nấu, … Ví dụ, với cùng một thứ gạo, nhưng có dòng nở ít, thì chỉ 70-71% nước. Loại nào nở cơm thì ngâm trước 15 phút, loại nở búp chỉ cần mươi phút là được. Lại còn tùy loại gạo, để ăn xào với rau, gia vị cho có màu mùi như kiểu châu Âu thì nấu bằng nồi hơi như nồi hong. Để còn làm cơm xào, cơm chiên thì chớ ngâm nhiệt, tức là ngâm gạo, đun nước vừa nóng chừng 50 độ hãy cho gạo vào theo đúng tỉ lệ, mới đạt yêu cầu. Câu nói: Cơm lành canh ngọt tưởng dễ mà khó thay”. Tôi (Hoàng Kim) trả lời: Thưa anh, xin hãy nhìn tấm ảnh, từ hạt gạo đến bát cơm chỉ là một phần ngắn trong chuỗi “hoa lúa, bùn, hột lúa, cây lúa, hạt gạo, bát cơm”. Hai khâu khó nhất và nhọc nhằn nhất là hoa lúa và bùn. Mời đọc bài tiếp nối Từ Sắn Việt Nam đến Lúa Siêu Xanh; Lúa Siêu Xanh Việt Nam

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chien-luoc-chon-tao-lua-sieu-xanh-vietnam.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-gsrgvn.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-4a.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là gsr90.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là anhbongvacua.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-6.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-7.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-8.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-9.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-10.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-11.jpg

Thích ứng cây trồng trước biến đổi khí hậu

Báo Nhân Dân: Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra ngày càng khốc liệt, đe dọa an ninh lương thực và có tác động toàn diện đến sự phát triển bền vững của đất nước. Để ứng phó, giảm nhẹ tác động tiêu cực của BĐKH lên sản xuất nông nghiệp, thích ứng cho cây trồng là biện pháp, hướng mở có ý nghĩa rất quan trọng và hiệu quả. (xem tiếp…)

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-11-luachiumanpy3.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-12-team-group-of-gsr-in-ccvn.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-hoang-long-34a.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-11-1.jpg

Sau bảy năm (2012-2018) đánh giá và tuyển chọn giống lúa siêu xanh (GSR Green Super Rice) Việt Nam, ngày 24 tháng 5 năm 2018 tại Viện Khoa học Cây trồng, Viện Hàn lâm Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS) tiến sĩ Hoàng Kim đã gặp Giáo sư tiến sĩ Zhikang Li và Phó Giáo sư tiến sĩ Tian-Qing Zheng trưởng dự án lúa toàn cầu IRRI CAAS để trao đổi kế hoạch hợp tác Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI trong việc đánh giá mở rộng các giống lúa tốt thích nghi biến đổi khí hậu có chất lượng ngon, năng suất cao, ngắn ngày, chống chịu sâu bệnh chính, thích hợp vùng thâm canh vùng mặn vùng hạn và đào tạo nguồn lực giảng dạy nghiên cứu phát triển. Do tình hình dịch bệnh, nên các trao đổi lúa siêu xanh toàn cầu hướng về giải pháp trực tuyến và nổ lực mỗi bên là chính.

Bài này là tóm tắt thông tin Lúa siêu xanh Việt Nam.

Xem tiếp
Con đường lúa gạo Việt Nam
Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI
Việt Nam con đường xanh

ST25 gạo ngon Việt Nam

Việt Nam con đường xanh
Một niềm tin thắp lửa
Gạo Việt và thương hiệu
Con đường lúa gạo Việt Nam
Trường tôi nôi yêu thương
Viện Lúa Sao Thần Nông
Đường tới IAS 100 năm
Sóc Trăng Lương Định Của
Lương Định Của lúa Việt
Thầy Tuấn kinh tế hộ
Thầy lúa Bùi Bá Bổng
Thầy Quyền thâm canh lúa
Thầy nghề nông chiến sĩ
Thầy Xuân canh tác lúa
Thầy Luật lúa OMCS OM
Thầy lúa xuân Việt Nam
Chuyện cô Trâm lúa lai
Chuyện thầy Hoan lúa lai
Lúa siêu xanh Việt Nam
Lúa siêu xanh Phú Yên
Lúa Việt tới Châu Mỹ
Lúa sắn Việt Châu Phi
Lúa C4 và lúa cao cây
Lúa sắn Cămpuchia và Lào
Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi
Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh
Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
Hồ Quang Cua gạo ST
Những người Việt ở FAO
Thầy bạn là lộc xuân

HOA LÚA GIỮA ĐỒNG XUÂN
Hoàng Kim

Bao năm Trường Viện là nhà
Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương
Một đời người một rừng cây
Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng

Con theo Người nguyện làm Hoa Lúa
Bưng bát cơm đầy quý giọt mồ hôi
Trọn đời vì Dân mến thương hạt gạo
Hoa quê hương hạt ngọc trắng ngần.

Con thăm Thầy lên non thiêng Yên Tử
Về đất lành chùa Giáng (*) giữa đồng xuân
Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
Ngát gương sen lồng lộng bóng trúc mai

Lẫn với cỏ không tranh đua hương vị
Không màng ngôi ngự trị các loài hoa
Hoa Lúa đượm hồn quê dung dị
Quên sắc hương để lộng lẫy Hoa Người ! ” (**)

Con nguyện ước nối đời theo hạt gạo
Chén cơm ngon thơm bếp lửa gia đình
Thầy Trò cùng chung tay làm việc thiện
Sống trọn tình với giấc mơ xanh.

CHÙA RÁNG GIỮA ĐỒNG XUÂN
Hoàng Kim

Nơi cổ tự mây lành che xóm vắng
Viên Minh xưa chùa Ráng ở đây rồi
Bụt thư thái chim rừng nghe giảng đạo
Trời trong lành gió núi lắng xôn xao.

(*) Chùa Ráng giữa đồng xuân. Chùa Viên Minh còn gọi là chùa Ráng nằm ven đê thuộc xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Hà Tây (cũ) nay thuộc Hà Nội, nơi Tổ Giáng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ trụ trì. Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ viết “Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng. Nhân tươi quả tốt được thu nhiều” và ấn chứng Bạch Ngọc (hạt gạo trắng ngần) cho người có tâm nguyện theo nghề nông, nối đời noi tâm nguyện và chí hướng Thiền Sư Lão Nông Tăng tạo phước mưa lành cho dân. Đại sư sinh ngày 12 tháng 4 năm 1917, viên tịch ngày 21 tháng 10 năm 2021, trụ thế 105 năm, hạ lạp 85 năm. Người từng nói: “Sống ở trên đời này được bao nhiêu năm, theo tôi, không phải là thước đo giá trị của đời người. Con rùa nó sống hàng ngàn năm thì đã sao? Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo, ngài Trần Nhân Tông chỉ ở đời có 51 năm, Ngài Pháp Loa có 47 năm mà công nghiệm thì bất khả tư nghì. Tôi trụ thế đến nay.( …) nghiệp là tu hành, nuôi thân thể chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, khi nào chư Phật, chư Tổ cho gọi thì về thôi” . Đại sư Thích Phổ Tuệ là người đóng góp nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn, dịch thuật về Phật học như: Đại từ điển Phật học, Đại Luật, Đại tạng kinh Việt Nam, Đề cương Kinh Pháp Hoa, Kinh Bách Dụ, Phật Tổ Tam Kinh, Phật học là tuệ học.Thiền sư Thích Phổ Tuệ là đệ Tam pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, xem tiếp Hoa Lúa

THIỀN SƯ LÃO NÔNG TĂNG
https://youtu.be/w21hkPfEA2M
“Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”

Viên Minh Thích Phổ Tuệ
Lời Thầy dặn thung dung

Nhớ Viên Minh Hoa Lúa
Chùa Ráng giữa đồng xuân
Kim Notes lắng ghi chú
Hoa Đất thương lời hiền. ·

Noi theo dấu chân Bụt
Dạy và học làm Người
Hiểu Quân Dân Chính Đảng
Thấu Nông Lâm Y Sinh
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thien-su-lao-nong-tang/

CHỮ TUỆ 慧
Hán Nôm ( Học với chữ Hán-Nôm )
Đỗ Hoàng  · 2 4 2022 lúc 21; 42  

Tuệ có nghĩa là thông minh tài trí, sáng dạ. Tuệ thường được sử dụng để chỉ sự sáng suốt mau mắn lanh trí của con người. Sinh ra đã thông minh hơn người, tư duy nhanh nhẹn gọi là có tuệ căn. Có con mắt nhìn thấu mọi thứ soi rõ tiền nhân hậu hoạn gọi là tuệ nhãn.

Chữ tuệ được dùng nhiều trong phật học. Nhưng từ này cũng hàm ý chỉ sự tốt đẹp, nên thường được dùng để đặt làm tên người.

Cách viết chữ Tuệ

Tuệ – Huì – 慧. Bên trên là hai chữ phong 丰, bên dưới có bộ kệ 彐, sau đó là chữ tâm.

(**) Trích dẫn thơ Dương Phượng Toại

xem thêm: #Dayvahoc Nông nghiệp sinh thái Việt, điểm đến yêu thích của bạn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/di-san-the-gioi-tai-viet-nam/

Việt Nam tổ quốc tôi
Việt Nam thông tin khái quát
Việt Nam con đường xanh
Nông nghiệp sinh thái Việt
Di sản thế giới tại Việt Nam
Du lịch sinh thái Việt
Vườn Quốc gia Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp Việt trăm năm
Ngôn ngữ văn hóa Việt
Dạo chơi non nước Việt
Việt Nam tổ quốc tôi
Việt Nam thông tin khái quát
Việt Nam con đường xanh
Nông nghiệp sinh thái Việt
Di sản thế giới tại Việt Nam
Du lịch sinh thái Việt
Vườn Quốc gia Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp Việt trăm năm
Ngôn ngữ văn hóa Việt
Dạo chơi non nước Việt

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
#htn #ana #Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc, #đẹpvàhay, #cnm365#cltvn
; Việt Nam con đường xanh (hình) Thế giới trong mắt ai ; Chỉ tình yêu ở lại ; Về với vùng cát đá ; Thầy giáo già trước biển; Mưa lành và lúa xuân; Lúa siêu xanh Việt Nam ; Tiến bộ giống sắn Việt Nam https://youtu.be/GEaSV3p3Nb8 ; Sắn Việt Nam ngày nay https://youtu.be/MBL_RtU3Tcw; Đồng đội cùng tháng năm; #cnm365 #cltvn 18 tháng 4 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-18-thang-4/ ; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/tinh-thuc-cung-thang-nam/

CNM365 Tình yêu cuộc sống https://hoangkimlong.wordpress.com; #tinhyeucuocsong #hoangkimlong,  #hoanggia; #AnnhiênBan mai chào ngày mới; Tỉnh thức cùng tháng năm; Lên Trúc Lâm Yên TửĐêm Yên Tử; An vui cụ Trạng Trình; Trăng rằm Ngọc Quan Âm; Pho tượng Ngọc Quan ÂmNhớ Viên Minh Hoa Lúa; Ai bảo chăn trâu là khổ?; A Na tìm được Ngọc; Hoàng Tố Nguyên tiếng TrungHoàng Long cây lương thực;  Hoàng Kim chuyện đời tôi; Chọn giống sắn Việt Nam; Thầy nghề nông chiến sĩ;  Kim Notes lắng ghi chú; Thầy bạn là lộc xuân;  Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Sóc Trăng Lương Định Của;  Thầy Quyền thâm canh lúaThầy Xuân canh tác lúa; Thầy Vũ trong lòng tôi; Thầy Luật lúa OMCS OM;  TTC Group Sen vào hè;  ĐHNN2 Hà Bắc nay và xưa; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc;   Sự chậm rãi minh triết; Họ im lặng như núiVăn chương ngọc cho đời; Chính Ngọ đoán Kinh Dịch; An nhiên; Một gia đình yêu thương; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Kim Notes lắng ghi chú; Chung sức trên đường xuân; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Quà xuân thật tuyệt vời; Xuân ấm áp tình thân; Chuyện đời không thể quên; Thời chuyển mùa nhớ bạn. Nước Nga và châu Âu; Giống sắn KM140 VIFOTEC; Bảo tồn và phát triển sắn; Vietnamese cassava today; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Trần Khánh Dư Vạn Kiếp; Nhớ bài thi tuổi thơ; Trường học hướng ban mai; Thơ tặng mùa yêu thương; Bà Đen; Sholokhov người sông Đông Nhớ kỷ niệm một thời; A Na Bình Minh An; A Na bà chúa Ngọc; Truyện George Washington; Sắn Việt Nam và Kawano, Cassava and Vietnam: Now and Then. Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Công viên Tao Đàn HCM; Đêm trắng và bình minh; Mạc triều trong sử Việt; Ngày mới Ngọc cho đời; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Thăm thẳm trời sông Thương; Nha Trang và A. Yersin; Nha Trang thơm trầm hương; Nha Trang biển và em; Sắn lúa ở Phú Khánh; Ức Trai tâm tựa Ngọc; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Tháng ba hoa hồng trắng; Qua Mang Thít Vĩnh Long; Nơi một trời thương nhớ; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Sớm xuân kênh Thị Nghè; Nhà Trần trong sử Việt; Sơn Nam ông giá Nam Bộ ; Sơn Nam và Bùi Giáng; Thầy bạn là lộc xuân; Trăng rằm Ngọc Quan Âm ; An nhiên; Champasak ngã ba biên giới ; Điểm hẹn chốn đồng tâm; Lào hoa trắng nắng Mekong; Gia Cát Mã Tiền Khóa; Thành tâm với chính mình; Soi sáng lại chính mình ; Tím một trời yêu thương; Giấc mơ lành yêu thương; Ngôi sao mai chân trời; Công viên Tao Đàn HCM; Hậu duệ của mặt trời; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Đến với Tây Nguyên mới; Giống lúa siêu xanh GSR65; Giống lúa siêu xanh GSR90; Nguyễn Duy cát trắng bụi; Nguyễn Khải thầy văn ViệtSự chậm rãi minh triết; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Họ im lặng như núiVăn chương ngọc cho đời; Chính Ngọ đoán Kinh Dịch; An nhiên; Một gia đình yêu thương; Kim Notes lắng ghi chú; Chung sức trên đường xuân; An vui cụ Trạng Trình; Quà xuân thật tuyệt vời; Chuyện đời không thể quên; Thời chuyển mùa nhớ bạn. Thế giới trong mắt ai. Hạnh Phúc khát khao xanh ; Phúc hậu thanh thận cần ; Càu hiếu nối bờ thương; Trân trọng Ngọc riêng mình; Ngày Quốc tế Hạnh phúc; Chim Phượng về làm tổ; Quốc Công đạo làm tướng; Ngồi tựa đỉnh non xanh; Thượng Đức thương nhìn lại; Tô Đông Pha Tây Hồ; Cây bồ đề nhà tôi ; Ngắm dấu chân thời gian; Gốc Bồ Đề vườn xưa ; Ấn Độ địa chỉ xanh; Linh Giang sông quê hương; Câu cá bên dòng Sêrêpôk; Chuyện đồng dao cho em ; Đến với Tây Nguyên mới ; Thanh nhàn vui tháng năm Lên Việt Bắc điểm hẹn ; Tiếng Việt lung linh sáng; Bài thơ Viên đá Thời gian; Kim Notes lắng ghi chú; Gia Cát Mã Tiền Khóa; Bài thơ Viên đá Thời gian;Tĩnh lặng cùng với Osho; Đi thuyền trên Trường Giang; Đến với Tây Nguyên mới; Lời thương; Địa chỉ xanh Ấn Độ; #Annhiên; Việt Nam con đường xanh.Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Lời thương; Giấc mơ lành yêu thương; Thầy nghề nông chiến sĩ; Truyện Norodom Sihanouk; Tĩnh lặng cùng với Osho; Đi thuyền trên Trường Giang; Đến với Tây Nguyên mới; Bài thơ Viên đá Thời gian ; Chín điều lành hạnh phúc; Trở về nơi điểm hẹn; Hữu Ngọc văn hóa Việt; Trăng rằm đêm Thanh Minh; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Lúa siêu xanh Việt Nam; Hoa Đất thương lời hiền; Đất Việt Nguyễn Đình Bông; Xanh một trời hi vọng; Về miền Tây yêu thương; Nơi một trời thương nhớ; Nông lịch tiết Thanh Minh; Tốt gỗ chẳng cần sơn; Ngày xuân đọc Trạng Trình; Nhớ thầy Trần Ngọc Ngoạn; Đợi anh ngày trở lại ; Vui quà tặng cuộc sống; Tuyệt vời lục bát Việt; Nhớ lời thề cỏ May; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói ; Thế giới trong mắt ai; Nhà Trần trong sử Việt; Lời dặn của Thánh Trần; Bà Đen; Câu chuyện ảnh tháng Tư; Hoa Đất thương lời hiền; Đất Việt Nguyễn Đình Bông; Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng Nhà Trần trong sử Việt; Lời dặn của Thánh Trần; Bà Đen; Đền Trần chùa Thắng Nghiêm; Một gia đình yêu thương; Nguồn Son nối Phong Nha; Đại Lãnh nhạn quay về; Sớm mai qua Đại Lãnh; Cát đá đất miền Trung; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Hương Huế nhớ Thầy Cô; Câu chuyện ảnh tháng Tư. Giấc mơ lành yêu thương; Bài thơ Viên đá Thời gian; Sông Mekong tin nổi bật; Ma Văn Kháng trong tôi; Nguyên Hùng bạn xứ Nghệ; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Nhớ thầy Tôn Thất Trình; Bảo tồn và phát triển sắn; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Chuyện đồng dao cho em; Giấc mơ lành yêu thương; Bài thơ Viên đá Thời gian; Gặp bạn giữa đồng xuân; Thầy nghề nông chiến sĩ; Thượng Đức thương nhìn lại; Đêm ngủ ở Hà Tân; Nguyên Hùng bạn xứ Nghệ; Nhớ bạn nhớ châu Phi;Ghana bờ biển vàng; Ai Cập bạn tôi ở đấy; Câu chuyện ảnh tháng Tư, Nhớ thầy Tôn Thất Trình; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Giống khoai lang Việt Nam; Về Trường để nhớ thương; Minh triết Thomas Jefferson; Chuyện cổ tích người lớn; Lời dặn của Thánh Trần; Đèo Ngang thăm thẳm nhớ; Một vùng trời nhân văn; Chẳng hiểu sao Ông Út lại chảy nước mắt? Văn chương ngọc cho đời, Những người Việt ở FAO; Tắm tiên Chư Yang Sin; Thầy bạn trong đời tôi; Bóng hạc chốn xa xôi; Nông nghiệp công nghệ cao; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Việt Nam con đường xanh; Chuyện cổ tích người lớn; Mưa bóng mây nắng đầy; Mưa lành và lúa xuân; Đồng đội cùng tháng năm; Một vùng trời nhân văn; Thầy bạn trong đời tôi; Đọc ’50 năm nhớ lại’; Chẳng hiểu sao Ông Út lại chảy nước mắt? Văn chương ngọc cho đời; Đèo Ngang thăm thẳm nhớ; Việt Nam con đường xanh; Giống sắn KM419 và KM440, Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn Việt Nam; Tắm tiên Chư Yang Sin; Nông nghiệp công nghệ cao; Mưa bóng mây nắng đầy; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Chuyện vua hề Sác lô; Việt Nam con đường xanh; Cây Lương thực Việt Nam; Hoàng Long cây lương thực; Hoàng Đình Quang bạn tôi, Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Hoàng Trung Trực đời lính; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Thầy nghề nông chiến sĩ; Nắng và gió phương Nam; Về miền Tây yêu thương; Ngắm ‘ngõ nhà lão Hâm’; Đọc ’50 năm nhớ lại’; Con đường xanh yêu thương; Mưa xuân trong mắt ai; Hoa Mai với Thiền sư; Hoa Bình Minh Hoa Lúa; Hoa và Ong Hoa Người; Lev Tonstoy năm kiệt tác; Trò chuyện với Hoàng Kim ; Chỉ tình yêu ở lại, Thế giới trong mắt ai

Từ ngày 18 đến 21 / 4 Quân lực Việt Nam Cộng hòa tháo chạy khỏi Xuân Lộc đã bị cô lập Sáng 21 tháng 4, những tuyến phòng thủ cuối cùng tại Xuân Lộc tan rã. Trận Xuân Lộc là chiến thắng quyết định của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam Ngày 18 tháng 4 năm 1965 Zimbabwe đơn phương tuyên bố ngày Độc lập. Zimbabwe là một quốc gia không giáp biển nằm ở phía nam lục địa Phi, Zimbabwe nổi tiếng với thác Victoria ở trên sông Zambezi và nhiều khu bảo tồn hoang dã. Quốc gia này có 16 ngôn ngữ chính thức,] trong đó tiếng Anh, tiếng Shona, và tiếng Bắc Ndebele được sử dụng phổ biến nhất. Trước đó quốc gia này là thuộc địa Anh, sau Đơn phương Tuyên bố Độc lập (UDI), chính phủ Anh yêu cầu Liên hiệp quốc cấm vận kinh tế Nội chiến xẩy ra và leo thang. Hoà giải Nội bộ, các cuộc bầu cử đã được tổ chức vào tháng 4 năm 1979. Đảng Hội đồng Quốc gia châu Phi Thống nhất (UANC) đã giành đa số trong cuộc bầu cử này. Ngày 18 tháng 4 năm 1506, Viên đá đầu tiên của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô được đặt, hiện là một trong bốn nhà thờ lớn nhất ở Vatican. Thánh đường này “giữ vị trí độc nhất trong thế giới Công giáo” và như là “nhà thờ vĩ đại nhất trong những nhà thờ Công giáo”. Ngày 18 tháng 4 năm 1955 là ngày mất Albert Einstein, nhà vật lý vĩ đại (sinh năm 1879); Bài chọn lọc ngày 18 tháng 4: #vietnamhoc Việt Nam con đường xanh; Cây Lương thực Việt Nam; Hoàng Long cây lương thực; Hoàng Đình Quang bạn tôi, Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Hoàng Trung Trực đời lính; Hoàng Kim chuyện đời tôi; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Thầy nghề nông chiến sĩ; Nắng và gió phương Nam; Về miền Tây yêu thương; Ngắm ‘ngõ nhà lão Hâm’; Đọc ’50 năm nhớ lại’; Con đường xanh yêu thương; Mưa xuân trong mắt ai; Câu chuyện ảnh tháng Tư; Hoa Mai với Thiền sư; Hoa Bình Minh Hoa Lúa; Hoa và Ong Hoa Người; Lev Tonstoy năm kiệt tác Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-18-thang-4/https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-18-thang-4/

CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ
Hoàng Kim


Có một ngày như thế
Cuộc đời nâng trang văn
Lan tỏa niềm vui mới
Lộc đời thêm tình thân

Giếng ngọc mãi thanh xuân
Người hiền gieo chí thiện
Thung dung giữa đời thường
An nhiên lời cảm mến.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/co-mot-ngay-nhu-the/

Có một ngày như thế.
Thầy bạn là lộc xuân.
Hợp tác đào tạo tốt.
Nơi ấy xa mà gần.

Chúc mừng em vững bước
Đi về phía  bình minh
Mừng những người hướng đạo
Giúp em vượt chính mình.

Thắp sáng một niềm tin
Tỏa ngời như nắng ấm
Ngày thước đo cố gắng
Chúc mừng em thành công.

Có một ngày như thế.
Nỗ lực òa niềm vui.
Chào lớp thầy cô trẻ.
Thênh thang trên đường đời.

Có một ngày như thế.
Người thân bên mẹ hiền.
Đời vui người trẻ lại.
Lộc Vừng thắm đầy sân.

Có một ngày như thế
Giữa cuộc đời yêu thương
Em đi tìm điều hay
Tôi bày em việc tốt.

Đời vui người trẻ lại
Thoải mái bên bạn hiền
Trường tôi thành điểm tựa
Giấc mơ lành bay lên.

Có một ngày như thế.
Vui em nay thành công.
Nụ cười tươi rạng rỡ.
Ngày mỗi ngày trưởng thành.

Phúc hậu và thực việc
Tận tụy với nghề nông
Thân thiết tình thầy bạn
Chăm chút từng trang văn.

Có một ngày như thế
Đường xa về thăm Thầy
Niềm vui ngời nét mặt
Thầy trẻ lại vì vui.

Ảnh đẹp và thật tươi
Khoảnh khắc mà vĩnh cửu
Thay bao lời muốn nói
Học bởi hành hôm nay.

Hoa Bình Minh Hoa Lúa

Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) – Thanh Thúy

Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.