Hoàng Kim October 30 ·Ca dao mới : Nợ anh đi dạm miếng trầu Em đem trọn kiếp dãi dầu nhớ thương. Nợ em nửa sợi tơ vương Anh mang vàng đá trãi đường nhân duyên. THANH XUÂN là câu chuyện TÌNH YÊU CUỘC SỐNG, bài học DƯỠNG SINH THI. Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần Ít lo, ít muốn, ít lao thân. Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị, Rượu chỉ vài phân, chớ qúa từng. Miệng cứ câu đùa, vui miệng mãi, Bụng thường nghĩ tốt, bụng lâng lâng. Bốc đồng, biến trá, thôi đừng hỏi, Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm. (thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, GS. Lê Trí Viễn dịch). CNM365. Chào ngày mới 30 tháng 10. Năm 1821 – ngày sinh Fyodor Dostoevsky, Nhà văn Nga. Năm 1644 – Thuận Trị Đế Phúc Lâm đăng quang hoàng đế tại Tử Cấm thành Bắc Kinh, khẳng định địa vị của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Năm 1973 – Cầu Bosphorus tại Istanbul hoàn thành, trở thành cây cầu thứ hai kết nối châu Á và châu Âu qua eo biển Bosphore thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày này HK khởi đầu bài viết ĐỨC THÁNH TRẦN VÀ CHÙA THẮNG NGHIÊM; xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/2016/10/30/duc-thanh-tran-va-chua-thang-nghiem/
Nhớ là sức khỏe đầu tiên.
Gia đình sự nghiệp đứng liền thứ hai.
Chân Thiện Nhẫn phải nhớ đời
Phước Lộc Thọ hạnh phúc nơi chính mình.
Ba quên bốn có năm đừng.
Chuyện chưa hề cũ nay mừng chép vô.
3 QUÊN
Một quên đừng sợ mình già,
Sống vui, sống khỏe, lo xa làm gì.
Hai quên bệnh tật lờ đi,
An nhiên thoải mái lo gì nhọc tâm.
Ba quên thù hận vứt xong,
Ung dung điều độ để lòng thảnh thơi.
4 CÓ
Một nên có một gia đình,
Vì không homeless người khinh lẽ thường.
Hai cần phải có nhà riêng,
Đói no cũng chẳng làm phiền dâu con.
Ba là trương mục ngân hàng,
Ít nhiều tiết kiệm sẽ an tuổi già.
Bốn cần có bạn gần xa,
Tri âm tri kỷ để mà hàn huyên.
5 ĐỪNG
Đừng nên vô cớ bán nhà,
Dọn vào chung chạ la cà với con.
Đừng giành nhận cháu để trông,
Nhớ thì thăm hỏi cháu ông bà mừng.
Đừng ham hố việc ở chung,
Tiếng chì tiếng bấc khó lòng tránh đâu.
Đừng nên từ chối yêu cầu,
Tấm lòng hiếu thảo con, dâu cho mình.
Đừng nên can thiệp nhiệt tình,
Đời tư hay việc riêng mình của con.
CHÍN ĐIỀU LÀNH
KHÁT KHAO XANH. Sống đơn giản, yêu thật lòng, quan tâm sâu sắc, hướng đến phía trước. Thực hành chín điều lành quý báu. Đó là bài học sâu sắc của cuộc sống.
CHÍN ĐIỀU LÀNH QUÝ BÁU
1) Cười nhiều Giận ít
2) Vui nhiều Lo ít
3) Làm nhiều Nói ít
4) Đi nhiều Ngồi ít
5) Rau nhiều Thịt ít
6) Chay nhiều Mặn ít
7) Chua nhiều Ngọt ít
8) Tắm nhiều Lười ít
9) Thiện nhiều Tham ít
Bạn gieo thành thật Bạn gặt lòng tin
Bạn gieo lòng tốt Bạn gặt thân thiện
Bạn gieo khiêm tốn Bạn gặt cao thượng
Bạn gieo kiên nhẫn Bạn gặt chiến thắng
Bạn gieo cởi mở Bạn gặt thân mật
Bạn gieo tha thứ Bạn gặt hoà giải
Bạn gieo chịu đựng Bạn gặt cộng tác
Bạn gieo chăm chỉ Bạn gặt thành công
Chăm chín điều lành Bạn thành người tốt.
BÍ QUYẾT SỐNG VUI VÀ HẠNH PHÚC
Nhiều tiền ít tiền, không phung phí là được
Ai phải ai sai, mình không sai là được
Biết ít biết nhiều, làm xong việc là được
Người già người trẻ, mạnh khỏe là được
Người giàu người nghèo, hoà thuận là được
Ông xã về sớm về trễ, miễn về là được
Bà xã cho ăn ít ăn nhiều, miễn sạch, nóng là được
Người xấu người đẹp, có duyên là được
Nhà lớn nhà nhỏ, no ấm là được
Sung túc nghèo nàn, bình an là được
Xe mới xe cũ, chạy được là được
Vui cười không mệt, buồn phiền mới mệt
Yêu thương không mệt, ghen ghét mới mệt
Chân thật không mệt, gian dối mới mệt
Tương ái không mệt, tương tàn mới mệt
Rộng rãi không mệt, ích kỷ mới mệt
Khoan dung không mệt, khó khăn mới mệt
Khiêm nhường không mệt, khoe khoang mới mệt
Mỉm cười không mệt, tức giận mới mệt
Đơn thuần không mệt, phức tạp mới mệt
Chân thành không mệt, giả dối mới mệt
Tương tư không mệt, đơn phương mới mệt
Chung tình không mệt, đa tình mới mệt
Được mất không mệt, tính toán mới mệt
Mệt trí không mệt, mệt tâm mới mệt
BÀI ĐỒNG DAO CHO EM
Ở đời nhân nghĩa làm đầu. Đừng tham tưởng bở, quên câu ân tình.
Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Cứ trên là sáng, cứ tu là hiền
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ nhiều là được, cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe là điếc, không trông là mù
Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của là sang
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.
Đừng tưởng cứ uống là say
Cứ chân là bước, cứ tay là sờ
Đừng tưởng cứ đợi là chờ
Cứ âm là nhạc, cứ thơ là vần
Đừng tưởng cứ mới là tân
Cứ hứa là chắc, cứ ân là tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh, cứ đình là to
Đừng tưởng già hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng, cứ mềm là thua.
Đừng tưởng đã dấm là chua
Sấm rền là sẽ có mưa ngập trời
Đừng tưởng vui chỉ có cười
Buồn thì ủ rũ, chỉ ngồi khóc than
Đừng tưởng cứ lớn là khôn
Cứ bé là dại, cứ hôn… là chồng
Đừng tưởng bịa có thành không
Nhìn gà hóa cuốc, lẫn ông với thằng
Lúc vui tham bát bỏ mâm
Đến khi hoạn nạn tần mần bỏ đi
Đừng tưởng không nhất thì nhì
Phò thịnh sung sướng, giúp suy nghèo hèn
Gặp trăng thì vội quên đèn
Hám tiền quên nghĩa, đỏ đen lạc đường
Đừng tưởng giàu hết cô đơn
Cao sang hết ốm, gian tham hết nghèo.
Đừng tưởng cứ thấp là hèn
Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.
Đừng tưởng quan chức là rồng,
Dân thường thấp cổ, là không biết gì.
Đời người lúc thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
Ai ơi nhớ lấy đừng quên…!
Hoàng Kim
(Sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn)
“Hai chữ đầu tiên con HỌC LÀM NGƯỜI Hãy học hai điều NHÂN NGHĨA”
Bài thơ Viên đá Thời gian.
50 NĂM NHỚ LẠI Người hiền.
Chuyến đi ngắn và điều đáng nhớ Ba lô xe đò Một lối đi riêng.
Nhớ THƠ VIẾT VỀ NGƯỜI
của cụ Hải Như
” Chúng ta thích đón đưa, Người không thích. Đến thăm chúng ta Người thường “đột kích”, Chữ “đột kích” vui này Người nói lại cùng ta. Và đường quen thuộc Người chẳng đi đâu Đường quen thuộc Thường xa Người hiện đến bằng lối tự tìm ra Ngắn nhất. Người không muốn dẫm lên mọi đường mòn có sẵn. Khi đích đã ngắm rồi. Người luôn luôn tạo cho mình Một lối đi riêng”.
“Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.
Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
Hoa Người Hoa Đất vui thầy bạn.
Phước Đức mừng anh thắng tuổi trăm”
Tôi đùa anh Thắng “Anh là Hoa Người. Hoa Người về Hoa của Đất, sau lưng Hoa Người là Vườn Mai và Cây Bồ Đề đấy’. Anh tặng tôi cuốn sách của anh về “50 năm nhớ lại”. Tôi tặng anh cuốn sách “10 đại văn hào Trung Quốc” có câu chuyện gần gũi…
Để bắt đầu câu chuyện , tôi sẽ kể vắn tắt với bạn Phan Chí Thắng là ai? Tôi đã kể về anh Phan Chí Thắng năm 2009, bức ảnh chụp trên đây là năm 2006, nay chưa tiện nói dài, chỉ chép lại để lưu giữ thông tin và hiến tặng bạn đọc.
Nhân chuyện vui, một bạn hỏi tôi: “Văn hóa là gì?” Tôi trả lời : “Các cụ có định nghĩa rồi. Văn hóa là điều người ta còn nhớ khi người ta đã quên đi tất cả”. Bạn tôi hỏi tiếp: “Theo anh thì anh Phan Chí Thắng là người thế nào ? ” Tôi đáp không chút ngập ngừng: “Theo mình đó là một người rất hay, sâu sắc, tinh tế” và xòe năm ngón tay nhớ bốn bài thơ và một bài văn của anh
TÔI BẮT ĐẦU MỘT KÝ ỨC với Victor Thắng, kẻ xách va ly cho người vũ công già, trong 50 năm nhớ lại, người anh đã liên tưởng tới Người đàn bà xa lạ của họa sĩ Kramskoi. Số phận đã cho Victor Thắng được gặp người phụ nữ Nga, cho tâm hồn anh một lần được trú ngụ trong cái hiền hòa và nhân hậu của người Nga. Câu chuyện này giúp tôi neo đậu tại đây các bài thơ không quên. Tôi nói với Huynh Thi Kim Em “Mời bạn theo dõi câu chuyện này, không phải với cương vị CATAND nữa mà là nhân chứng chuyện cổ tích cho người lớn nói về Con Người”. Trước hết, mời bạn hãy đọc kỹ bốn bài thơ và một bài văn của Victor Thắng
TỨ TUYỆT KHÔNG ĐỀ
Phan Chí Thắng
Không có rượu sao mà say đến thế Giải Ngân Hà mờ tỏ bóng thời gian Ta đã được một lần say lặng lẽ Giữa cuộc đời tỉnh táo đến khôn ngoan.
TA NỢ
Phan Chí Thắng
Ta nợ mặt trời chiếc bóng dưới chân Ta nợ đêm thu tiếng sáo trong ngần Ta nợ mẹ già tháng năm tần tảo Ta nợ vợ hiền một thời thanh xuân
Ta nợ cuộc đời cúi đầu tạ lỗi Ta nợ quê hương núi thẫm ráng chiều Ta nợ lòng mình những lần thất hẹn Ta nợ cuộc tình khoá lễ cầu siêu
Ở ĐÂU?
Phan Chí Thắng
Ở đâu có một ngôi nhà bé Cửa sổ đèn khuya bóng em ngồi Giai điệu dân ca ngân nhè nhẹ Tự tình dạ khúc gửi xa xôi
Ở đâu có một khuôn vườn lặng Em nở dùm tôi những nụ hồng Chim hót chào reo bình minh nắng Sương mòn xao xuyến như mắt mong
Ở đâu có một trời thương nhớ Em thấu dùm tôi nỗi cháy lòng
Ở đâu có một con thuyền nhỏ Chở những vần thơ tôi sang sông
GỬI HOÀNG KIM
Phan Chí Thắng
Nghe đêm vỡ giọt bên mành Hương thơm như khẽ lay nhành phong lan Mưa xa chớp loé trên ngàn
Lòng riêng chất chứa muôn vàn thiết tha
Ta tìm gặp bạn đường xa Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình Đêm dài xoè một bình minh…
MỘT GIỜ DẠY HỌC CỦA KHỔNG TỬ
Phan Chí Thắng
Khổng tử thường đưa học trò đi các nơi du lịch sinh thái, vừa đi vừa dạy bằng cách trò chuyện với học trò. Các giáo án từ trên đưa xuống tỏ ra quá giáo điều và khô cứng nên ông không dùng. Mà ông cũng không bao giờ chuẩn bị giáo án. Ông phó mặc cho trí tuệ và cảm hứng dẫn dắt.
Vào một ngày đầu thu mát mẻ, ông đưa mấy người học trò ra vườn trúc. Những khóm trúc xanh nằm giữa bãi cỏ xanh. Xa xa có con suối róc rách, bên kia con suối là đồi chè rất xanh, vài ba thiếu nữ đang khom lưng hái chè.
Cầm chén rượu từ tay Tử Tư, người cháu duy nhất là môn đồ của ông, Khổng tử thư thái ngắm nhìn cảnh đẹp thiên nhiên đang bày ra trước mắt. Mấy người học trò cung kính chắp tay đứng sau lưng ông.
Bỗng Khổng tử cất tiếng:
– Hôm nay ta muốn các con trả lời câu hỏi: “Cái gì ở sau lưng người đàn bà?”
Sau vài phút suy nghĩ, Tử Tư bước lên:
– Thưa thầy, sau lưng người đàn bà là một giỏ đầy trách nhiệm. Mời thầy và các bạn nhìn lên đồi sẽ thấy những người phụ nữ đang còng lưng với cái giỏ chè.
– Con là người có tấm lòng nhân ái và biết thông cảm với nhân quần. Ta cho con 7 điểm.
Đến lượt Mạnh tử:
– Thưa thầy, sau lưng người đàn bà là không có gì ạ. Bản thân người đàn bà đã quá đẹp, không còn cái gì xung quanh có thể so sánh nổi với người đàn bà nữa rồi. Ca dao có câu:
Trúc xinh trúc đứng đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh
Khổng tử lại chiêu thêm một ngụm rượu, cười hiền hậu:
– Con có khả năng tư duy logic và là người tin vào Chân Thiện Mỹ. Ta cho con 7 điểm.
Đến lượt Tuân Tử:
– Thưa thầy, sau lưng người đàn bà là nhiều người đàn ông ạ. Đó là những người si mê chạy theo nàng.
Khổng tử cười lớn:
– Con nói đúng. Con biết đề cao sự thực tế và những khía cạnh vật chất trong tư tưởng Khổng Tử. Ta cho con 7 điểm. Tất cả các con đều nói đúng nhưng chỉ mới đưa ra được một câu trả lời chưa khái quát, lại quá phức tạp và có vẻ chữ nghĩa quá!
Đám học trò im lặng chờ thầy đưa ra đáp án. Khổng tử uống nốt chén rượu, chậm rãi nói:
– Rất đơn giản: Ở ngay sau lưng của người đàn bà là cái khoá áo ngực. Hầu hết thời gian trong ngày người đàn bà mặc áo ngực? Ta hiểu các con muốn nói là có những lúc người đàn bà không mặc áo ngực. Những lúc đó thì chúng ta chỉ quan tâm đến phía trước của người đàn bà thôi. Ha ha!
Các môn đồ cúi đầu suy nghĩ. Thầy của họ thật sâu sắc. Thầy dạy cho họ biết bao giờ người ta cũng nhận thức thế giới khách quan như nó vốn có nhưng lại theo quyền lợi của ta.
PHAN CHÍ THẮNG TUYỂN VĂN
Anh Phan Chí Thắng có một nhà thật và ảo một nhà. Nhà thật là nhà số 10. Nhà ảo mà thật là http://pcthang.vnweblogs.com; Phan Chí Thắng tuyển văn có ba bài đáng để ý “Bình sinh Hồ Chí Minh” “Gia đình tôi” “Hậu duệ của Hàn Tín”. Đó là một ẩn ngữ thú vị, ban mai cho đời và nắng ấm cho văn.
“Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh
Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành
Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy
Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”
“Cách đây mấy ngày trong một cuộc tiếp xúc nhiều người tôi vô tình được nói chuyện với anh H. – cháu nội người đỗ đầu khoa Hội cùng năm với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Dì ruột của anh H lấy anh cả của ông LĐT. Anh H. kể là được nghe trực tiếp từ ông LĐT về bài tứ tuyệt được thêu trên trướng do 5 nhà cách mạng lão thành Nga gửi đến tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ nghe một lần mà anh H. thuộc lòng cho đến bây giờ thật xứng danh cháu nội cụ Hội Nguyên. Tôi xin chép lại vào đây để Hoàng Kim tham khảo.
Có vài điểm thắc mắc: 1. Làm sao mà các nhà cách mạng Nga lại làm được thơ tứ tuyệt? Hay là họ nhờ ai đó làm giúp theo ý họ? 2. Các chữ viết hoa trong bài tứ tuyệt được thêu chữ hoa nghĩa là có dụng ý. Ba chữ là lấy từ trong “Hồ Chí Minh”. Còn chữ “Thơm” có phải đó cũng là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia? Hay là một tên gọi khác của Bác mà rất ít người biết? Sơ bộ như thế, các nhà nghiên cứu sẽ tìm câu trả lời.”
“GIA ĐÌNH TÔI
Phan Chí Thắng
Năm 1957 cha tôi được “sửa sai”. Trên mời cha tôi ra Hà nội nhận công tác. Dịp chỉnh huấn năm 1953 riêng cơ quan cha tôi có 7 người tự tử. Họ bị khép nhiều tội mà họ không hề mắc. Không ai tìm ra cha tôi có tội gì. Cha bị ghép là xuất thân con nhà quan lại bản thân thành phần tiểu tư sản theo cách mạng chưa chắc đã thật lòng. Không thật lòng thì có thể làm cho địch biết đâu đấy?
Cha tôi không tự tử. Sau này cha nói là một phần do cho đến năm đó cha chưa hề biết mặt tôi. Cha sợ nếu chết đi thì tôi sẽ khổ vì không có cha hoặc có cha nhưng cha mang tiếng phản động (vì mình chết rồi lấy ai thanh minh).
Từng là thư ký của tướng Nguyễn Chí Thanh đang là Trưởng ban Chính trị Công an Thừa thiên cha tôi được (hay bị) thuyên chuyển ra Nghệ an chờ nhận công việc mới.
Qua đường dây liên lạc cha nhắn tin đón mẹ con tôi lên chiến khu. Phải lần thứ hai chúng tôi mới đi thoát. Du kích đưa chúng tôi lên rừng bố trí ở trong một căn nhà lá. Sáng hôm sau cha và mấy người trong cơ quan mới đến. Trong số những người mặc bộ bà ba đen đeo xắc cốt giống hệt nhau tôi vẫn đoán ra ai là cha mình và lao vội vào lòng ông.
Sau một tháng đi xuyên rừng chúng tôi mới ra đến Nghệ an. Đoạn nào dễ đi thì tôi tự đi chỗ hiểm trở thì có người cõng tôi. Tôi mới 6 tuổi. Vì hầu hết là đi ban đêm nên chủ yếu là tôi được cõng. Tôi đi qua những địa danh mà sau này tôi không bao giờ quên. (Hôm đầu tháng Tư vừa rồi tôi về Lệ Thuỷ thăm quê của nhà thơ Trần Quang Đạo đại tá Thọ bạn của Đạo khoe ở vùng này có một suối nước nóng 103 độ C tôi nói tôi biết rồi luộc trứng ăn được nhưng hơi nồng vì trong nước có nhiều lưu huỳnh. Thọ ngạc nhiên: “Anh tới suối nước nóng này bao giờ?” tôi nói là từ năm 1953 Thọ tỏ ra rất thú vị).
Qua đất Hà Tĩnh có một đọan chúng tôi được đi “xe lửa” (một toa xe hàng còn sót lại do người đẩy trên quãng đường sắt vẫn còn ray). Ngồi chen chúc trên sàn xe nhưng ai cũng thấy sướng sau những ngày đi bộ xuyên rừng hai chân nứt nẻ toé máu.
Chúng tôi được bố trí nghỉ một ngày ở nhà cụ Phan Châu Trinh. Tôi còn nhỏ quá không biết cụ Phan Châu Trinh là ai thấy mọi người nói về cụ với lòng ngưỡng mộ sâu sắc con tim trẻ thơ của tôi ghi sâu tình cảm với cụ ngay từ lúc đó.
Ra đến Nghệ an cha tôi mới biết là mình bị chuyển sang làm thuế vụ. Ông kiêu hãnh vứt trả quyết định bỏ về ở Nam Vân – Nam Đàn. Phải chăngtừ ngày ấy định mệnh đã gắn tôi Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 vĩnh viễn với mảnh đất Nam Đàn?
Ở Nam Đàn mấy tháng thì hoà bình lập lại đất nước bị chia làm hai miền. Bà ngoại tôi chỉ có hai người con gái mẹ tôi là con đầu cậu tôi đã chết đuối năm lên mười tuổi. Ông ngoại tôi ghét thực dân Pháp bỏ quan (tôi không biết ông làm chức quan gì chắc là chức nhỏ thôi Tôn thất có ít chữ nghĩa thể nào chả được một chức quan) theo bạn sang Lào làm ăn bị ngã nước chết khi bà tôi mới 27 tuổi. Bà ở vậy nuôi con. Bà yêu tôi lắm. Những năm ở Huế tôi sống với bà là chính. Những lần bị Tây đuổi bà một bên nách là tôi bên kia là gói vài cái áo quần và cuộn thuốc Cẩm Lệ.
Đất nước chia cắt nhớ thương con cháu quá bà dắt dì tôi đi xuyên rừng ra Nghệ an tìm chúng tôi bỏ lại sau lưng nhà cửa ruộng vườn và cuộc sống no đủ dấn thân vào quãng đời gian khổ mấy chục năm trên đất Bắc chiến tranh và nghèo đói. Mẹ tôi dệt vải nhuộm nâu còn bà giã lá gai làm bánh mang ra chợ bán. Có lần bà ngủ gật chày giã phải tay ngón cái từ đó bị tật cong queo cầm điếu thuốc lá rê…
Sau đó cha tôi mua nhà và mảnh ruộng ở Thịnh Sơn Anh Sơn. Ông quyết định về làm ruộng. Không hẳn là ông thấy cần tự cải tạo lao động mà ông không có việc gì để làm ngoài việc tối tối đi dạy bình dân học vụ. Ông làm thơ những bài thơ ông làm thời cải cách ruộng đất sau này ông đốt hết và vĩnh viễn không làm thơ nữa trừ những bài thơ khóc bạn đọc ở đám tang những người bạn ra đi trước ông. Ông cũng không thích tôi làm thơ bài thơ nào tôi viết ra ông cũng xé đi hoặc cất giữ rất bí mật. Ông muốn tôi theo đuổi con đường khoa học kỹ thuật tránh xa chuyện văn chương vì vậy mãi tới năm 56 tuổi khi cha tôi đã mất rồi tôi mới tí toáy viết lách.
Như đã nói năm 1957 trên mời cha tôi ra Hà nội nhận công tác hình như có sự can thiệp của chính Đại tướng Nguyễn Chí Thanh điều này tôi không dám chắc vì tính cha tôi ít khi nói chuyện với con cái về công việc của mình tôi chỉ nghe mẹ nói thế. Ông từ chối về lại ngành công an. Những người bạn vào sinh ra tử năm nào nhưng đã “đấu tố” ông trong chỉnh huấn nay vẫn còn đó ông không muốn làm việc với họ nữa. Thế là ông về làm biên tập viên ở Nhà Xuất bản Sự Thật nay là NXB Chính trị quốc gia. Ông chơi thân với ông Minh Tranh Giám đốc Nhà xuất bản người sau này bị cho là thuộc nhóm xét lại. Bởi vậy cha tôi cứ lẹt đẹt ở chức Trưởng phòng chính trị cho đến lúc về hưu mặc dù từng tham gia dự thảo nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và lãnh tụ. Sau này khi đã già mắc bệnh pa-king-sơn ông không tự đi được nữa song năm nào dịp tết cũng bảo tôi lấy xe đưa ông đi thăm ông Minh Tranh.
Vài tháng sau cha tôi được phân một phòng 24 mét vuông trên tầng hai ở 169 Mai Hắc Đế tiêu chuẩn độc thân. Cha đón mẹ tôi ra Hà nội trước bà ngoại ở lại bán nhà bán ruộng xong thì đưa tôi ra Hà nội.
Tôi có hai cái bình minh đáng nhớ ở Nghệ An. Một lần đi thuyền trên sông Lam. Sương khói lãng đãng trên sông xa xa là những ngọn núi tím mờ bãi ngô xanh mướt hai bên bờ sông tiếng hò lan trên mặt nước thấm vào đâu đó trong không gian tuyệt đẹp bao quanh. Và lần hai là khi bà cháu chúng tôi dắt nhau đi lúc tờ mờ sáng sau lưng là 4 năm thơ ấu của tôi là nấm mộ cô em gái tôi chết khi mới mấy tháng tuổi chỉ vì không có vài viên thuốc cần thiết. Chó sủa ăng ẳng tiễn đưa chúng tôi ra đi không ngày trở lại.”
HẬU DUỆ CỦA HÀN TÍN
Phan Chí Thắng
1. Cụ Vi Văn Định từng làm tổng đốc tỉnh Thái Bình dưới thời Pháp cai trị nổi tiếng đàn áp cách mạng nhưng thực ra cụ là người trí thức cách mạng ngoài miệng cụ chửi cộng sản nhưng ngầm giúp che giấu cán bộ hoạt động bí mật. Hai cuộc họp hội nghị trung ương đảng được tổ chức thành công tại chính nhà cụ trong khi thực dân Pháp ráo riết tìm kiếm khắp nơi. Cụ đã gả hai người con gái là bà Vi Kim Ngọc cho nguyên Bộ trưởng giáo dục chính quyền cách mạng Nguyễn Văn Huyên bà Vi Kim Phú cho giáo sư Hồ Đắc Di nguyên Giám đốc Đại học và gả cô cháu Vi Nguyệt Hồ cho giáo sư Tôn Thất Tùng.
Cụ đã hiến tặng ngôi nhà riêng tại phố Trần Bình Trọng cho Đảng một thời làm nhà khách Trung ương. Sinh thời cụ và Bác Hồ có qua lại thăm nhau.
2. Ngồi nói chuyện với Hàn Tín về tài năng của các tướng Lưu Bang hỏi ông: – Như ta thì có thể cầm được bao nhiêu quân?
Hàn Tín nói:
– Bệ hạ chẳng qua chỉ cầm được mười vạn.
Lưu Bang lại hỏi:
– Thế còn nhà ngươi thì cầm được bao nhiêu?
Hán Tín trả lời:
– Thần thì càng nhiều càng tốt.
Lưu Bang cười nói:
– Càng nhiều càng tốt thì sao lại bị ta bắt?
Hán Tín đáp:
– Bệ hạ không có tài cầm quân nhưng có tài cầm tướng vì vậy cho nên Tín mới bị bệ hạ bắt.
Sau lần đó Lưu Bang càng sợ tài của Tín và quyết trừ khử cho được.
Sử ký Tư Mã Thiên ghi đại ý: Năm 196 TCN Trần Hy làm phản. Lưu Bang thân hành làm tướng đem quân đi đánh. Lã Hậu muốn gọi Hàn Tín vào để giết nhưng sợ ông không đến nên bàn với tướng quốc Tiêu Hà giả vờ sai người từ ngoài chiến trường chỗ Lưu Bang trở về báo tin rằng:
Trần Hy đã chết các chư hầu các quan đều đến mừng.
Tiêu Hà lừa Hàn Tín rằng:
– Tuy ngài ốm cũng xin cố gắng vào mừng.
Hàn Tín theo Tiêu Hà vào cung Lã Hậu lập tức sai võ sĩ trói ông rồi mang chém ở nhà treo chuông trong cung Trường Lạc. Lã Hậu giết tiếp cả ba họ nhà Hàn Tín. Sau khi Lưu Bang đã dẹp xong quân của Trần Hy trở về kinh đô thấy ông đã chết nhà vua vừa mừng vừa thương.
Tiêu Hà trước kia là ân nhân của Hàn Tín ra sức tiến cử ông với Lưu Bang nhưng cuối cùng lại chính Tiêu Hà lừa ông vào cung cho Lã Hậu giết. Bởi vậy đời sau nói rằng Hàn Tín làm nên sự nghiệp nhờ bởi Tiêu Hà mà chết cũng do tay Tiêu Hà.
3. Gần tết lão Hâm sang nhà ông tổ phó dân phố biếu cuốn lịch. Cơ quan in lịch nhiều quá biếu không hết nên chia thêm cho anh em mang đi đối ngoại.
Ông tổ trưởng dân phố người gầy gò thấp bé một mắt bị hỏng trong chiến tranh ông là thương binh loại hai. Ngày ngày hai vợ chồng ngồi dán túi nilon gia công cho người ta. Căn nhà nhỏ một tầng khá giản dị.
Ông tổ phó được phân công lo chuyện cung cấp nước cho dân đi ghi chỉ số công tơ tháng tháng đến từng nhà thu tiền nước. Những ngày hè nước chảy ri rỉ hoặc không chảy các hộ dân cứ nhè ông mà réo mà than phiền. Ông lăn lộn với bà con nên ai cũng quý thấy ông nghèo ai có cái gì cũng cho.
Ông tổ phó pha chè rút bao Thăng Long mời lão Hâm. Chuyện qua chuyện lại lão Hâm mới biết ông tổ phó là cháu của cụ Vi Văn Định – một người lẫy lừng tên tuổi. Khi biết vợ lão Hâm từng học cùng trường với chị Hà con ông Nguyễn Văn Huyên và là cháu ngoại của cụ Vi Văn Định ông tổ phó mới chậm rãi kể về giòng họ Vi mà người ta vẫn cho là người dân tộc Thổ ở Cao Bằng.
Ông tổ phó nói hiện ông còn giữ bộ gia phả giòng họ Vi được chạm trên nhiều tấm đồng lá theo đó chữ Vi chính là cắt ra từ chữ Hàn trong tiếng Hán. Một ngưòi con của Hàn Tín chạy thoát sang Việt nam đổi thành họ Vi sợ hậu thế không biết đến gốc gác của mình là từ Hàn Tín – vị võ tướng hiển hách thời Lưu Hán Đế – nên đã cho làm bản gia phả nói trên.
Lão Hâm ngắm ông tổ phó người nhỏ thó theo tài liệu thì Hàn Tín cũng nhỏ bé thể chất yếu ớt.
Không thể ngờ được là cái ông tổ phó ốm yếu nghèo nàn nhưng cần cù lo cho dân này lại chính là hậu duệ của Hàn Tín.
Ghi chú thêm về truyện ngắn “Gia đình tôi” của Phan Chí Thắng đã đăng trên sách Nhà số 10 Tập truyện ngắn Nhà Xuất bản Lao Động 2010. Trên hộp thư nhà ảo của bài “Gia đình tôi” có lời nhắn tin của Nguyễn Minh Châu:”Kính gửi Anh Thắng. Có phải Ba của Anh tên là Chư ? Em trai anh tên là Quyết ? Vợ anh tên là Chính ? Con gái anh tên là Thuỷ? Nhà số 10 là số 10 Phùng Hưng ? Nếu đúng như vậy – anh em mình biết nhau đấy từ hồi anh mới học ở Liên Xô về“.
Tôi rất tâm đắc với những bài viết trích dẫn trên đây của anh và nhắn: Cám ơn anh đã tặng bài thơ “GỬI HOÀNG KIM Nghe đêm vỡ giọt bên mành Hương thơm như khẽ lay nhành phong lan Mưa xa chớp loé trên ngàn Lòng riêng chất chứa muôn vàn thiết tha Ta tìm gặp bạn đường xa Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình Đêm dài xoè một bình minh…“. Em đồng cảm tiếng tri âm “sau lưng người đàn bà là một giỏ đầy trách nhiệm” trong “Một giờ dạy học của Khổng Tử” Em hiểu sâu sắc : “Tôi có hai cái bình minh đáng nhớ ở Nghệ An…” trong ‘Gia đình tôi’ và rất muốn anh viết tiếp “Người đàn bà xa lạ” kết nối ’50 năm nhớ lại’ để tỉnh thức điều mới mẻ ‘ĐÊM DÀI XÒE MỘT BÌNH MINH” .
Trong Ngọc lục bảo Paulo Coelho tôi đã kể bạn nghe chuyện ngày xưa có một người thợ đá thử 999.999 viên đá, đến viên đá cuối cùng đã tìm được một viên ngọc lục bảo quý giá vô ngần. Paulo Coelho là ngọc lục bảo của đất nước Brazil. Tác phẩm của ông “O Alquimista” là kiệt tác của tâm hồn. Tiểu thuyết này được dịch ra 56 thứ tiếng, bán chạy chỉ sau kinh Thánh, đến năm 2008 đã bán được hơn 65 triệu bản trên toàn thế giới. Cuốn sách với tựa đề tiếng Anh là “The Alchemist” do Alan R. Clarke chuyển ngữ, và bản tiếng Việt có tựa đề là “Nhà giả kim” do Lê Chu Cầu dịch, Công ty Văn hóa Truyền thông Nhã Nam và Nhà Xuất bản Văn hóa in và phát hành. Nhà văn Brazil này đã tìm được NGỌC TRONG ĐÁ của chính mình hay đến vậy.
Tôi theo chân những người bạn lẫn thẩn, chưa ngộ nhận mình là minh triết phúc hậu nhưng thích học, làm, dạy và viết. Tôi thích có được 365 CHUYỆN KỂ MỖI NGÀY. Đó là một sở thích rất riêng, chí thiện và không làm hại bất cứ ại cả, nếu thông tin ấy được chọn lọc rất kỹ như thợ đá tìm ngọc. Sản phẩm ấy sẽ quý như ngọc vì tốt cho trí tuệ sức khỏe của chính mình và cộng đồng khi lắng nghe sự minh triết. Mỗi người chúng ta chỉ nhỏ nhoi thôi trong sự trường tồn và đi tới mãi của dân tộc, nhân loại nhưng tôi tâm đắc và tôi tin lời Nguyễn Khải: “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại“.“Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”
Cám ơn anh, cám ơn bạn, cám ơn người thân trong gia đình, nơi tôi yêu thương nhận ra ở họ những phẩm chất trí tuệ và CON NGƯỜI giúp tôi học, làm, dạy và viết, trở thành người thợ đá cần mẫn, học mỗi ngày làm người , tự mình tìm ra kho báu chính mình để trở thành NGƯỜI.
Ta tìm gặp bạn đường xa
Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình
Đêm dài xoè một bình minh…
Cám ơn anh Phan Chi đã nói hộ điều muốn nói.
BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
Giáo sư tiến sĩ Ngô Kế Sương (người thứ ba bên trái qua hàng đứng ở trong ảnh) và các bạn lớp 1 trường Internat Moskva gặp nhau ngày 15-10-2016 ở nhà hàng ẩm thực Nga 60 Ngọc Khánh Hà Nội, ảnh Phan Chi. Câu chuyện vui có Đôi lời của thầy Ngô Kế Sương: “Vấn đề của bạn là gì? Bạn không phán xét bất kỳ ai vì bạn biết rằng mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình. Đó là lí do tại sao bạn thấy được điều tốt ở tất cả mọi người và không tin rằng bất kỳ ai có thể làm điều gì xấu xa một cách có chủ ý”.
Thầy Ngô Kế Sương là người Thầy sinh hóa sinh lý của nhiều thế hệ sinh viên, là chủ của một gia đình hạnh phúc, bố mẹ của nghệ sĩ nhân dân Hồng Vân, người có chùm ảnh đẹp và lời giới thiệu cực ngắn và thật hay: “Ba người đàn ông của cuộc đời tôi: “Bố – Chồng – Con trai; Cảm ơn Ông Trời đã ban cho tôi ba con người này. Love them for life !!!!”. Thầy có trang Face Book Ngoke Suong nói chuyện về sức khỏe trí tuệ thật nhân hậu. Thầy Sương thuộc thế hệ chuyên gia sinh học đầu tiên của nước Việt Nam mới, được đào tạo tại Liên Xô. Thầy dạy khối sinh viên Trồng trọt 2 Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh là lứa tuyển sinh thứ 2 sau ngày Việt Nam thống nhất. Tôi đã kể chuyện này trong Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời. Do sự yêu thích học để làm “nhà phù thủy sinh học” nên tôi thực sự ngưỡng mộ những danh sư như thầy Đào Thế Tuấn, Mai Văn Quyền, Trịnh Xuân Vũ, Ngô Kế Sương, Lê Văn Tố, Nguyễn Văn Uyển, Lê Doãn Diên, Chu Phạm Ngọc Sơn. … Câu chuyện “nhà giả kim” (The Alchemist) Ngọc lục bảo Paulo CoelhoNgọc trong đá là một sự liên tưởng thú vị.
BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN thoạt đầu là chuyện đời thường nhưng, thầy bạn ơi, về cuối sẽ có ‘dấu hiệu’ thú vị, tại thời điểm thích hợp.
Hoàng Kim
Notes:
LƯU LẠI CÁC GHI GHÉP TẢN MẠN
Tôi sau này theo hướng chọn giống cây lương thực, cây thực phẩm (sắn, khoai, ngô lúa, đậu đỗ) và nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ thâm canh tổng hợp hệ canh tác cây trồng vật nuôi lấy lúa – hoa màu làm nền. Mục đích đời tôi nhằm chuyên sâu chọn tạo giống cây lương thực và xây dựng quy trình canh tác thích hợp bền vững để nâng cao năng suất chất lượng sản lượng và thu nhận đời sống cho các hộ nông dân. Mơ ước tuổi thơ đầu đời “thích làm nhà phù thủy cây lương thực” và các bài nông sinh học đầu đời thành hành trang quý cho tôi lập nghiệp. Lạ lùng thay ước mơ sống giữa thiên nhiên nhởn nhơ cùng thầy quý bạn hiền, chọn lưu lại những viên đá ngọc cứ ám ảnh suốt tôi. Những lời nhắc như của thầy Lê Văn Ký của chúng tôi “Hồn Tổ quốc ngự giữa rừng sâu thẳm. Rừng điêu tàn là Tổ Quốc suy vong !”, về với ruộng đồng lại là điều mà tôi yêu thích hơn cả. Tôi đã được trãi nghiệm thăm thú qua hầu hết Vườn Quốc gia ở Việt Nam do sự yêu thích và những chỉ dấu này. Vườn Quốc gia ở Việt Nam, những chỉ dấu lịch sử văn hóa đất nước con người Việt Nam và Thế Giới, các danh lam thắng cảnh tôi thực sự hanm thích. Đó là những quà tặng vô giá trên quê hương Việt Nam yêu dấu mà chúng ta may mắn được thừa hưởng, là những điểm đến du lịch đáng ao ước của cả đời người, các điểm nhấn bảo tồn thiên nhiên và di sản lịch sử văn hóa.
Bài thơ viên đá thời gian là câu chuyện tiếp nối Ngọc phương Nam kho báu chính mình Tôi đang trở về vùng ký ức như nhân vật trong chuyện Ngọc lục bảo Paulo Coelho. Nơi đó tôi nhận ra thầy Ngô Kế Sương và nhóm bạn Nga cùng Victor Thắng, người viết “Người đàn bà xa lạ” tác phẩm văn học “50 năm nhớ lại”, Nhà Xuất bản Lao Động, năm 2016, trang 193-197, là người chụp hình không có trong ảnh.
Chúng tôi cũng có câu chuyện của riêng mình. Nhà tôi Nguyễn Thị Thủy, nói với anh Hoa Huyền năm 2007: “Gia đình em có được ngôi nhà này cũng vất vả lắm. Nhà bắt đầu làm từ năm 1986 mãi cho đến năm 2003 sau 18 năm mới hoàn thành đấy anh à. Công việc nghiên cứu khoa học và thầy giáo nghề nông dành dụm được thế này là thật cố gắng”. Tôi có bài viết Hoa Huyền cùng với các trao đổi của thầy bạn.
GẶP BẠN ĐẦU XUÂN
Đầu xuân gặp bạn thật mừng vui
Rượu ngọt trà thơm sóng sánh mời
NƯỚC suối ban mai trong tựa ngọc
OANH vàng CÚC tím nắng xuân tươi.
MÂY TRẮNG quyện lưng trời lãng đãng
Thiên NGA từng cặp nhởn nhơ bay
Nhớ xưa CHIẾN SỰ vùng đất lửa
HÒA bình về lại Chứa Chan nay.
9 NĂM LÀ BẤY NHIÊU NGÀY? anh Phan Chí Thắng viết: “9 năm trước, ngày 31 tháng 10 năm 2007, tôi cùng nhà văn Hoàng Đình Quang và nhà thơ Hoa Huyền đến thăm gia đình tiến sĩ nông học Hoàng Kim ở Dầu Giây. Ngày 18 tháng 10 năm nay (2016) tôi có dịp quay lại. Nhiều thứ đã thay đổi cùng thời gian, riêng tình bạn thì bền chặt hơn”.
TỪ LỀU THƠ THÀNH LẦU THƠ VĂN, Giáo sư Lê Văn Tố đùa vui ngợi khen nhóm bạn hữu chúng tôi đã bay qua giấc mơ, mỗi ngày tình bạn thêm bền chặt hơn, năng lượng ngày một dồi dào hơn và bài viết có vẻ ngày một chắc tay và đằm thắm hơn. Tôi cũng “bị” (được) nhà thơ Hoa Huyền, nhà báo Kim Loan với một số bạn thân khác cứ gọi bừa là ‘giáo sư’ trong khi tôi không hề bén được tới danh hiệu cao quý ấy. Tôi chỉ là hoa của đất đã trực tiếp làm thầy hướng dẫn của 5 tiến sĩ, 12 thạc sĩ, 98 kỹ sư nông học, có được 27 giống cây trồng tốt và 5 tiến bộ kỹ thuật phục vụ sản xuất, nhưng đó chỉ là sản phẩm một thời. Tôi đã viết bài thơ “Ước noi cụ Trạng ưa duyên thắm” họa thơ Hoa Huyền
ƯỚC NOI CỤ TRẠNG ƯA DUYÊN THẮM
Hoàng Kim
Gửi Hoa Huyền
Tui chỉ mới là thuộc sách (TS) thôi.
Giảng sách (GS) xem ra chửa tới nơi.
Vui việc cứ LÀM chưa vội DẠY
Nói nhiều làm ít sợ chê cười. Cổ điển honda không biết chạy
Canh tân blog viết đôi bài
Quanh quẩn chỉ là ngô khoai sắn
Vô bờ biển HỌC dám đơn sai.
Tôi đang đọc bài thì nhà tôi chạy vào: “Nấm ngon nhà mình nhiều quá ! kín cả dưới gốc bồ đề và vườn mai trước ngõ. Anh ra chụp ảnh đi, đẹp quá!” Tôi chạy ra. Trời, cơ man là nấm ngon trắng xóa đất. Đúng là nhà có lộc! Chúng tôi trồng nhiều cây bóng mát, không săn bắn nên nhà tôi có chim về làm tổ và dưới gốc cây có nấm ngon để ăn. Tôi gọi nấm ngon và người hiền là Hoa của Đất. Ai ao ước những chuyện cao siêu, chúng tôi thì ao ước sự bình an, yêu thương, làm người hiền “hoa của đất” và có nấm ngon để chén… Nấm ngon và người hiền là Hoa của Đất.
Triết lý nhân sinh của gia đình tôi thật giản dị “Người khôn về chốn đông người. Cái nhìn thì mỏng, cái cười thì nông. Ta vui ở lại ruộng đồng. Để gieo tục ngữ để trồng dân ca, Thỏa thuê cùng với cỏ hoa. Thung dung đọc sách nhẫn nha dọn vườn. Mặc ai tính thiệt so hơn Bát cơm gạo mới vẫn thơm láng giềng. Thiên nhiên là thú thần tiên, Chân quê là chốn bình yên đời mình. Bạn hiền bia miệng anh linh. Thảnh thơi hưởng trọn ân tình thế gian. Nước khơi ngập ánh trăng vàng. Ta ra cởi bỏ nhọc nhằn âu lo. Lợi danh một thực mười hư. Trăm điều ước vọng chỉ phù du thôi. Thung dung thanh thản cuộc đời. Tình quê bồi đắp về nơi sâu đằm. Ta về hát khúc trăm năm. Chọn tìm giống tốt đêm nằm chiêm bao“.
Tôi thích DẠY VÀ HỌC, TÌNH YÊU CUỘC SỐNG, thích lắng nghe đất trời , cổ vật và con người kể chuyện lịch sử văn hóa, thích dạy, học và thực hành những bài học minh triết, chí thiện, tải đạo, chứa đựng tinh hoa làm người và có năng lượng cao. Tôi thích câu chuyện cuộc đời và thơ văn của Trạng Trình, Nguyễn Du, Đào Duy Từ, Kim Dung hơn các nhà văn khác, tâm đắc với Nguyễn Hiến Lê học và viết, Nguyễn Khải, ngọc cho đời và diễn từ của Mạc Ngôn “viết là cách nói tốt nhất”. Đời tôi vui sống thung dung vì chính mình: Hạnh phúc đối thoại triết học,Minh triết sống thung dung phúc hậu, Ngọc phương Nam, và Tình yêu cuộc sống, …
Dấu chân thời gian là câu chuyện nhà tôi, hoa của đất.
Hoàng Kim
(*) Notes của Hoàng Kim: Nguyễn Hiến Lê học và viết là trí tuệ bậc Thầy, ngọn đèn văn hóa, sao sáng trời Nam. Cuộc đời và di sản của danh nhân Nguyễn Hiến Lê là mẫu mực nhân cách người hiền còn mãi với thời gian. Trong “Lời mở đầu” tác phẩm “Đời viết văn của tôi” Nguyễn Hiến Lê đã viết: “Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời. Tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT”. Nguyễn Khải, ngọc cho đời cũng nói những lời thật tâm huyết: “Trên cuộc đời không có bước đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải vượt qua được những ranh giới ấy”.“Tôi viết vậy thì tôi tồn tại! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”. Lắng nghe Mạc Ngôn kể chuyện, Mạc Ngôn cũng nói: “Đối với một tác giả, viết là cách nói tốt nhất”
Mạc Ngôn là một trong ba nhà văn đương đại Trung Quốc mà tôi yêu thích và tôi đã viết ở DẠY VÀ HỌC – Kim Dung, Vương Mông, Mạc Ngôn: bạn thích ai? .Theo Mạc Ngôn: “Đối với một tác giả, viết là cách nói tốt nhất. Các bạn sẽ tìm thấy mọi điều tôi muốn nói trong các tác phẩm của tôi. Lời nói bị gió cuốn đi, còn những câu chữ đã được viết ra thì không bao giờ bị xóa bỏ. Tôi mong các bạn hãy kiên nhẫn đọc các cuốn sách của tôi. Tôi không thể ép buộc các bạn, và ngay cả khi các bạn làm như vậy thì tôi cũng không trông chờ các bạn thay đổi ý kiến về tôi. Chưa có tác giả nào, dù ở bất cứ nơi đâu, lại được mọi độc giả của mình yêu thích; điều đó đặc biệt đúng trong những lúc như thế này“.
Mạc Ngôn kể chuyện về mẹ, về đất mẹ, về sự hình thành và ra đời của tác phẩm lớn “Ngực lớn mông rộng” (“Báu vật của đời”). Ông đã kính tặng hương hồn mẹ, tác phẩm đỉnh cao đưa ông đến giải Nobel văn chương. Cuối diễn từ, Mạc Ngôn kể tiếp câu chuyện thú vị:
“Xin vui lòng nghe tôi, chỉ một câu chuyện cuối nữa thôi, câu chuyện mà nhiều năm trước ông tôi đã kể cho tôi: Một nhóm tám người thợ xây ở ngoại thành đến trú bão trong một ngôi đền. Sấm ầm ầm bên ngoài, trút những quả cầu lửa xuống chỗ họ. Họ thậm chí còn nghe thấy cả âm thanh tựa rồng thét. Họ kinh hãi, mặt tái mét. Một người nói: “Trong chúng ta có một người nào đó hẳn là đã gây tội khủng khiếp đối với trời. Ai có tội thì tình nguyện bước ra nhận lấy hình phạt và cứu những người vô tội khỏi sự đau đớn”. Tất nhiên chẳng có ai tình nguyện. Cho nên một trong số bảy người còn lại đề nghị: “Vì không ai muốn bước ra, nên tất cả chúng ta hãy quăng mũ rơm của mình ra cửa. Mũ của ai bay qua cửa thì người ấy có tội, và chúng ta sẽ đòi người ấy bước ra và nhận lấy hình phạt của mình”. Thế là họ quăng mũ của mình ra cửa. Bảy cái bị thổi ngược vào trong, một cái bay ra ngoài. Một người bị buộc bước ra và nhận lấy hình phạt của anh ta, và khi anh ta không chịu, bảy người còn lại nhấc bổng anh ta lên và quẳng anh ta ra cửa. Tôi dám cá rằng các bạn đều biết kết cục của câu chuyện: Ngôi đền sụp xuống ngay sau khi anh ta bị quẳng ra khỏi cửa.” Tôi là một người kể chuyện. Kể chuyện đã giúp tôi có được giải Nobel văn học. Nhiều điều thú vị đã đến với tôi sau khi đuợc giải thưởng này, và chúng thuyết phục tôi rằng sự thật cũng như công lý vẫn tồn tại, vững vàng.
Vì thế trong thời gian tới tôi sẽ tiếp tục kể những câu chuyện của mình. Cảm ơn mọi người!”
“Mười sáu tuổi, áo vải đầu trần Khoác ba lô lên đường nhập ngũ Anh không nói văn chương. Đường hành quân lội suối băng rừng Trận chiến xông lên mịt mù bom đạn Anh không nói văn chương. Mím chặt môi nghe lời trăng trối cuối cùng Và vuốt mắt cho người đồng đội Anh không nói văn chương. Trong căn hầm chỉ huy Trước biết bao éo le căng thẳng Sinh mệnh anh em và lòng căm thù sâu thẳm Anh không nói văn chương. . Anh không nói văn chương Nhưng tất cả, còn đây tất cả Như rễ hút đất lành để nuôi hoa lá Như trăm dòng suối chảy từ rừng sâu Để hôm nay Ngồi trong gian phòng với mái tóc ngả màu Hay ngước nhìn bầu trời quê xanh như ngày xưa ấy.
Tất cả đang sống dậy Thành ngọn thác trào lên Dồn dập nhịp đời, dồn dập nhịp tim Như cuộc đời bắt anh phải viết Như muôn người bắt anh phải viết Mà anh không cần biết Đó có là văn chương?
Nhà thơ nào từng nói thế: “Một cây chông” đánh Mỹ Vẫn hơn “Ngàn trang giấy” văn chương Còn anh Anh đã đi biết mấy nẻo đường Khói lửa nắng mưa, tấm thân dầu dãi Đã trải những tháng ngày ưu tư khắc khoải Thì điều khác thường lại hóa đời thường: Anh đến với văn chương Để chẳng bao giờ hết được văn chương !” (1)
Tổ chiến đấu của em có bốn người Xuân và Chương nằm lại Trung với em về Trường sau chiến tranh Lửa miền Nam vừa tắt chưa thôi Hận Nam Quan “Nước mắt Vị Xuyên” Nhiều đồng đội em hóa đá.
Qua thơ của bạn Nguyên Hùng Kể về vị tướng giữa đời thường Anh và em bất ngờ kết nối Anh nhớ tường tận từng chút về gia đình em Thấu suốt mọi điều hay đồng đội Hiểu tường tận uẩn khúc trăm năm… Quốc Công đạo làm tướng Vị tướng của lòng dân Ban mai đứng trước biển Thăm thẳm một tầm nhìn.
“Anh đến với văn chương Để chẳng bao giờ hết được văn chương !“
Tài liệu dẫn:
(1) XIN KHOE MỘT CHÚT Nguyễn Mạnh Đẩu
Nhà thơ, Nhà văn, Nhà nghiên cứu Nguyễn Chí Tình ( tên thật Nguyễn Đức Nhật ), sinh 1935, quê Nghi Trung ( Nghi Lộc-Nghệ An ). Ông là cháu nội Chí sĩ Nguyễn Đức Công ( tức Hoàng Trọng Mậu ), con trai Nhà giáo, Nhà thơ Nguyễn Đức Bính, cháu Nhà phê bình văn học Hoài Thanh (Nguyễn Đức Nguyên). Hơn tôi 13 tuổi, là đồng hương huyện Nghi Lộc, ông Nguyễn Chí Tình thân thiết tôi từ nhiều năm nay. Ông viết tặng tôi bài thơ, đăng trong tập CÓ MỘT MIỀN QUÊ ( NXB Thanh niên – 2015). Tôi xin được khoe với bè bạn Fb.
VỊ TƯỚNG VIẾT VĂN (Thân mến tặng Nguyễn Mạnh Đẩu) Tác giả Nguyễn Chí Tình
Mười sáu tuổi, áo vải đầu trần Khoác ba lô lên đường nhập ngũ Anh không nói văn chương. Đường hành quân lội suối băng rừng Trận chiến xông lên mịt mù bom đạn Anh không nói văn chương. Mím chặt môi nghe lời trăng trối cuối cùng Và vuốt mắt cho người đồng đội Anh không nói văn chương. Trong căn hầm chỉ huy Trước biết bao éo le căng thẳng Sinh mệnh anh em và lòng căm thù sâu thẳm Anh không nói văn chương. Anh không nói văn chương
Nhưng tất cả, còn đây tất cả Như rễ hút đất lành để nuôi hoa lá Như trăm dòng suối chảy từ rừng sâu Để hôm nay Ngồi trong gian phòng với mái tóc ngả màu Hay ngước nhìn bầu trời quê xanh như ngày xưa ấy.
Tất cả đang sống dậy Thành ngọn thác trào lên Dồn dập nhịp đời, dồn dập nhịp tim Như cuộc đời bắt anh phải viết Như muôn người bắt anh phải viết Mà anh không cần biết Đó có là văn chương?
Nhà thơ nào từng nói thế: “Một cây chông” đánh Mỹ Vẫn hơn“Ngàn trang giấy” văn chương Còn anh Anh đã đi biết mấy nẻo đường Khói lửa nắng mưa, tấm thân dầu dãi Đã trải những tháng ngày ưu tư khắc khoải Thì điều khác thường lại hóa đời thường: Anh đến với văn chương Để chẳng bao giờ hết được văn chương !
Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá! Đất trời lồng lộng một màu trăng Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm.
Rằm Tháng Giêng năm 1994 gần nửa đêm là lúc mất của anh hai tôi là Hoàng Ngọc Dộ. Đó cũng là thời khắc mà tôi chào đời Rằm Tháng Giêng năm Giáp Ngọ 1954. Sinh thời, anh Hoàng Ngọc Dộ có bài thơ Cuốc đất đêm. Tôi cũng có bài thơ Trăng rằm và Hẹn uống rượu ngắm trăng. Anh Chu Nhạc có bài thơ Con chim xanh với bảy chữ xanh ngẫu đối với bảy chữ trăng trong Trăng rằm; Em Nguyễn Lâm Cúc có chùm thơ Đãi trăng. Tôi chép lại bài thơ Trăng rằm và chùm thơ này để làm kỷ niệm. Mời bạn cùng đọc.
Cuốc đất đêm Hoàng Ngọc Dộ
Mười lăm trăng qủa thật tròn Anh hùng thời vận hãy còn gian nan Đêm trăng nhát cuốc xới vàng Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm Đất vàng, vàng ánh trăng đêm Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn
Con chim xanh Chu Nhạc
Con chim xanh trong tán lá xanh Chỉ một màu xanh lay động Tiếng hót nào trên trời xanh cao rộng Con chim xanh bay rồi tán lá vẫn xanh.
(*) Ngẫu đối Chim xanh 7 chữ xanh và Trăng rằm 7 chữ trăng.
Hẹn uống rượu ngắm trăng Hoàng Kim
Ta hẹn em uống rượu ngắm trăng Mấy khi đời có một người tri kỷ? Nâng chén nhé! Trăng vàng như giọt lệ Buồn ư em? Trăng vằng vặc trên đầu!
Ta nhớ Anh ta xưa mưa nắng dãi dầu Khi biệt thế gian chọn trăng làm bạn “Trăng tán trời mưa, trăng quầng trời hạn” Dâu bể cuộc đời đâu chỉ trăm năm?
Mười lăm trăng qủa thật tròn Anh hùng thời vận hãy còn gian nan Đêm trăng nhát cuốc xới vàng Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm Đất vàng, vàng ánh trăng đêm Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn (1)
Ta mời em uống rượu ngắm trăng Mấy khi đời có một người tri kỷ? Nâng chén nhé! Trăng vàng như giọt lệ Vui ư em? Trăng lồng lộng trên đầu!
Ta nhớ Bạn ta vào tận vùng sâu Để kiếm tìm ta, người thanh xứ núi Cởi bỏ cân đai xênh xang áo mũ Rượu đế, thưởng trăng, chân đất, đũa tre.
Hoa mận chờ trăng nhạt bóng đêm Trăng lên vời vợi vẫn êm đềm Trăng qua vườn mận, trăng thêm sáng Mận đón trăng về, hoa trắng thêm
Ta cùng em uống rượu ngắm trăng Ta có một tình yêu lặng lẽ Hãy uống đi em! Mặc đời dâu bể. Trăng khuyết lại tròn Mấy kẻ tri âm?
Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá! Đất trời lồng lộng một màu trăng Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm
Hoàng Kim
1) Hoàng Ngọc Dộ. Cuốc đất đêm
Không hẹn hò đời hóa hoang vu Nguyễn Lâm Cúc
Hôm nay buồn lại bày tiệc gọi trăng Lại mời rượu Lại bưng sông ra uống Đặt lên mâm những quả tình nẫu chín Hái từ vườn ấp ủ trăm năm
Nào, Cạn ly nhé trăng! Chớ có chau mày mà xôn xao vằng vặc Mây bạc đầu còn lang thang như hành khách Dưới vòm trời nơi nao chẳng cô đơn?
Chốn ồn ào chắc gì đã vui luôn? Nói nhiều, cười nhiều. Mấy câu là thật Đâu hay gì khi khoe sầu chất ngất Nhưng ít ra đó là nỗi lòng ta
Nào, Nghiêng sông, rót nữa trăng ha! Muôn thuở tràn trên chén đầy dâu bể Trăng ơi! Ta có một tình yêu lặng lẽ Không hẹn hò đời hóa hoang vu.
Đãi trăng Nguyễn Lâm Cúc
Hôm nay nhàn ta mở tiệc mời trăng Để thỏa thích bưng dòng sông ra uống Bày lên mâm là dạt dào cảm hứng Bạn tri âm, bạn có vui cùng?
Này trăng, trăng chớ ngại ngần Cạn ly nhé. Sông có vơi cũng mặc. Say thì say nhưng đừng khóc! Trần gian…cứ mặc kệ trần gian.
Hát vu vơ Nguyễn Lâm Cúc
Trần gian một chuyến rong chơi Thấy trăng giữa chợ, đông người vỗ tay Mua vui một cuộc rõ hài Gọi trăng, trăng khẽ chau mày rồi thôi…
Lê Đình Cánh là một trong những nhà thơ mà tôi yêu thich. Trong khi lục bát Đồng Đức Bốn xuất thần, bạo liệt, có lúc bụi bặm… Lục bát Nguyễn Duy tài hoa mà hóm hỉnh, thì lục bát Lê Đình Cánh cứ rỉ rả mà thâm trầm sâu cay. Thọ Xuân là quê ông,”May mà” là bài thơ ông nói về quê mình?? Ở đó có Lam Kinh, một khu di tích rộng khoảng 30 ha ở xã Xuân Lam. Lam Kinh có đến 14 công trình di tích như Ngọ môn, Sân rồng, Chính điện Lam Kinh, Khu thái miếu triều Lê sơ, Lăng mộ các vua và hoàng hậu, Vĩnh lăng, Bia Vĩnh Lăng, Hựu lăng, Chiêu lăng, Dụ lăng, Kinh lăng, Khu đền thờ Lê Lợi, Khu đền thờ Lê Lai, Đền thờ Bố Vệ. Nhà nước đã bỏ ra vô số công sức và tiền của để tôn tạo phục chế lại Lam Kinh nhưng rồi không hiểu sao vong linh các vua Lê cứ hỏi nhau nơi đây là đâu nhỉ? Có phải là Lam Kinh vàng son trên đất Thọ Xuân không? Lê Đình Cánh làm thơ chứ không làm vua nên ông không hỏi thế. Mà hỏi ai? và ai trả lời? ông chỉ hú vía thốt lên “may mà” nghe sao mà ai oán.
May mà Huế ở Thừa Thiên Kinh kỳ thuở trước còn nguyên cổ thành
Đọc đến đó chưa ai hiểu nhà thơ nói gì. Thì Huế vẫn còn cho nên Unesco mới phong tặng danh hiệu Di sản văn hoá của nhân loại chứ sao. Tiếp theo tác giả vẫn tiếp tục rỉ rả với cố đô Huế
May mà Huế ở trời Nam Còn câu đối cũ dựng am sách nghèo… … Thế rồi đột ngột như cầu thủ nhà nghề phạt trực tiếp 11 mét. Tác giả cho bóng vào gôn
Nếu mà Huế ở xứ Thanh Lầu son ngói nát cổ thành gạch tan
Lê Đình Cánh tuyệt nhiên không nói đến Lam Kinh, vì sao vậy? vì Xứ Thanh là phát tích nhiều triều đại vua chúa chứ đâu chỉ có các đời vua thời hậu Lê. Có lẽ những Lê Hoàn, những chúa Trịnh, chúa Nguyễn rồi vua Nguyễn cũng không còn lăng tẩm mà về vì hậu duệ thời a còng đang làm cái việc gọi là duy tu và tôn tạo các di tích lịch sử
BẢY NÚI MIỀN KÝ ỨC Nguyễn Chu Nhạc
(6) Bảy Núi, những chóp mái chùa Khơ-me vời vợi vươn lên trời xanh những phum sóc quây quần, nơi nương náu tình thần mộ đạo những dân lành Phật giáo quanh năm cày ruộng làm nương, vất vả sớm hôm chẳng một lời than bao nhiêu của cải sẵn lòng dâng cửa Phật, chỉ giữ lại tấm lòng chân thật, làm vốn riêng cho mình, tự biết phận chúng sinh, nương cửa Phật làm những điều phúc đức, tự răn lòng chờ làm điều gì ác, đến rắn thần Nagar, chằn tinh Yeak dẫu hung dữ bao nhiêu cũng quy Phật hiền từ. hãy như chim thần Krud giang cánh lấy thân đỡ mái chùa, hay tiên nữ Apsara ca múa hay như thần Bayon canh bốn phía, giữ lành cõi Phật an vui giữ bình yên cho cuộc sống con người, được cấy trồng mùa vụ tốt tươi, niềm hạnh phúc dưới mái nhà no ấm. để mỗi mùa mưa hội đua bò náo nhiệt để tết Đôn-ta nhà đầy bánh trái dâng lên lễ bái ông bà, để tết Cholchnam Thmay té nước thỏa thuê người người dày thêm phúc lộc,
Bày Núi, dưới bóng núi Dài, núi Tượng tự bao giờ sinh đạo Tứ ân, những người đàn ông, trang phục bà ba đen bới tóc, râu chòm guốc mộc, lấy Hiếu nghĩa ở đời làm trọng, ân tổ tiên, ân đất nước hàng đầu, ân Tam bảo gốc rễ bền sâu, ân đồng bào và bao la nhân loại, Đức Bổn sư, Ngô Lợi, xưa kia kháng giặc Tây lập đạo chiêu nhân, theo chiếu Cần vương lập ấp khẩn hoang, nuôi chí bền gây dựng, dẫu chẳng thể dời non lấp biển, đạo còn đây ân tiên tổ, non sông, học Phật tu nhân, giữ đạo làm dân, chuyện thường tình, âu cũng là trọn nghĩa,…
(trích Trường ca)
VỀ MIỀN TÂY YÊU THƯƠNG Hoàng Kim
Sao anh chưa về lại miền Tây. Nơi một góc đời anh ở đó. Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu,… Tên đất tên người chín nhớ mười thương.
Anh có về Bảy Núi Cửu Long, Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ. Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ…. Anh có về nơi ấy với em không? * Mình về với đất phương Nam. Ninh Kiều thắm nước, Sóc Trăng xanh đồng. Về nơi ấy với em không ? Bình minh Yên Tử mênh mông đất trời.
Ta đi cuối đất cùng đời Ngộ ra hạnh phúc thảnh thơi làm Người.
THÀNH NAM CHIỀU CHỚM ĐÔNG Hoàng Gia Cương
Thành Nam buổi ấy tôi về Nhẫn nha chuối ngự, nhâm nhi kẹo Sìu (*) Góc hồ gió thổi đìu hiu Thoảng đâu tiếng ếch cuối chiều bâng quơ…
Người xưa trong cõi sa mù Đơn sơ nấm mộ bên bờ nắng mưa Trăm năm khuất một đời thơ Nhân tình thấm đẫm chát chua mặn mà .
Ngẫm nhìn thế sự gần xa Biết là cốt cách, biết là đắng cay- Những nhà trào lộng xưa nay Bông phèng mong để lấp đầy khổ đau!
Gắng tìm chẳng thấy hương đâu Chắp tay tôi đứng nghiêng đầu vái ông Trời tây một vệt ráng hồng Còn mưa còn gió nên lòng còn se!
Lời nối vần Hoàng Kim:
Trí minh tâm sáng thơ nghề Đức cao công trọng phước về chính tâm
NHỚNỐT LẶNG BÊN ĐỜI Hoàng Kim
Ta vừa mới Đùa vui cùng Thuận Nghĩa Nay thung dung dạo gót ngắm Đôi bờ Nốt lặng bên đời sớm xuân thưởng thức Nghe tơ trời gió mát lẫn vào thơ.
Cho em mượn, nắng và mây anh nhé Để lang thang cùng với cánh chim trời Cho em mượn, gió và mưa anh nhé Để yếu mềm cùng với mảnh buồm trôi Cho em mượn những câu thơ anh nhé Để lẳng lơ cùng nốt lặng bên đời Cho em mượn cây cọ màu anh nhé Để ngoại tình cùng bức vẽ tinh khôi.
Em sẽ trả Đôi vai mình bé nhỏ Cho anh gục đầu… Nơi cõi thực đầy vơi…
Tôi có một anh bạn làm phóng viên viết về mảng thời trang và văn hoá ở một tờ báo ăn khách nọ. Hắn biết tôi thích ngắm gái đẹp, lại có chút năng khiếu “hỏi xoáy đáp xoay “ nên mỗi lần đi phỏng vấn hoa hậu, người mẫu, hắn thường rủ tôi đi cùng. Năm trước, nhờ có tôi mà bài phỏng vấn hoa hậu X của hắn, báo bán chạy như tôm tươi, hắn được Tổng biên tập khen và thưởng cho một tháng du lịch đảo Phú Quốc để theo dõi và viết bài đưa tin về cuộc thi hoa hậu Việt Nam 2014. Tôi còn nhớ như in lần đó, khi nàng ô sin đẹp tuyệt trần (tôi đã tưởng nhầm là hoa hậu) ra mở cổng và dẫn chúng tôi vào phòng khách là lúc hoa hậu X đang thử giày để tối đi dự event từ thiện. Ở một góc phòng khách, một cái tủ to tướng cơ man là giày được trưng bày như ở một cửa hàng giày thời trang trong siêu thị Tràng Tiền Plaza. Như bạn bè người thân trong nhà, nàng vẫy hắn và tôi đến bên gian hàng, nàng chỉ từng đôi, từng đôi một, giới thiệu tên hãng và xuất xứ của nó. Tôi hỏi nàng đây là cửa hàng giày cũ hay giày mới. Giọng nàng ngọt ngào và tự hào : giày xưa đấy anh . Nó đã in dấu chân em trên đại lộ Paris, đại lộ thành Rome, đại lộ Holywood v.v…Buổi phỏng vấn nàng về từ thiện lại thành buổi phỏng vấn về thời trang giày và những bước đi trên sàn catwalk . Nàng hết thử đôi này đến đôi khác, dạo những bước chân uyển chuyển. Anh bạn tôi hết đứng, lại ngồi, lại khom lưng qùi gối chụp ảnh nàng lia lịa. Còn tôi vừa ngắm nàng vừa hỏi nàng những câu hỏi bâng quơ về giày. Tôi còn nhớ một số câu hỏi đại loại như sau: – Màu sắc giày em yêu thích là màu gì?. – Em thích màu hồng, màu tím, màu của bình minh và màu của thủy chung. – Vì sao em lại thích bộ sưu tập giày ?. – Vì giày gắn liền với bước chân. Nhiều bước chân cộng lại là lịch sử của cuộc đời… – Em có hay đi lại giày cũ không? – Thường xuyên. Vì mỗi lần đi giày cũ em như trở về quá khứ. – Bây giờ đi lại đôi giày lúc đăng quang hoa hậu em thấy chân mình còn vừa không? Một câu hỏi khó và một thoáng bối rối trên khuôn mặt nàng: – Vẫn vừa. Bàn chân em vẫn không thay đổi, vẫn size 36 như lúc đăng quang.
……..Khi tôi nói chuyện với nàng, anh bạn phóng viên của tôi đã mở máy ghi âm ghi lại tất cả để làm tư liệu bài viết. Ngồi trên xe lúc ra về, hắn lại mở ra nghe và bình luận. Hắn khen nàng là hoa hậu Việt Nam thông minh nhất từ trước đến nay. Hắn khuyên tôi nên viết một bài thơ về nàng, về những đôi giày của nàng. Hắn hứa sẽ đăng trên báo của hắn và trả nhuận bút cao hơn mọi người.
……..Hắn cứ tưởng làm thơ là dễ lắm, dễ hơn viết những câu chuyện lá cải của hắn. Đã mấy tháng nay, đầu óc tôi mụ mị, chẳng viết nỗi một câu thơ nào. Nàng thơ bỏ tôi mà đi thật rồi. Để duy trì và tìm lại cảm xúc thơ, đêm nào tôi cũng miệt mài đọc thơ cho đến tận một giờ sáng rồi mới đi ngủ. Thơ trên báo Văn Nghệ Già, Văn Nghệ Trẻ, Văn Nghệ Quân Đội, Tác Phẩm Mới, thơ trên Facebook, thơ trên các trang Web, thơ tập bạn bè tặng v.v…Giữa núi thơ biển chữ tôi đâm hoang mang. Tập thơ Mùa thu gõ cửa -Lão Chiếu ( tên thật là Nguyễn Thanh Quang ) tặng tôi đã hơn tháng vẫn chưa đọc. Tôi nghĩ lão là anh vô danh tiểu tốt trong làng Văn, lão biên tập và xuất bản chắc có gì hay mà đọc. Ừ lão có nhã ý tặng thì đọc xem sao, biết đâu gặp được bài thơ hay?. Và khi đọc xong tập thơ này, tôi thấy mình đã hiểu sai lão. Với hơn một trăm bài thơ của 54 tác giả tôi đã như lạc vào một vườn hoa đầy hương sắc. Có rất nhiều câu thơ lấp lánh và nhiều bài thơ long lanh, thực sự là thơ. Ví dụ như Lời Thị Màu ( Hoàng Kim Hương ), Khúc em xa, Viết trước cổng chùa ( Đặng Khánh Cường ), Chị ngồi giặt áo ( Nguyễn Lâm Cẩn ), Hà Nội sang mùa ( Đỗ Minh Ngọc ), Gia điệu thu Hà Nội ( Nguyễn Thị Lan Anh ), Đi qua chiều Hà Nội (Dương Thu Hương) v.v…Trong đó tôi ấn tượng nhất là ba bài : Dắt mùa, Vết nứt và Ướm thử giày xưa của Duệ Mai. Trong ba bài tôi lại tâm đắc bài Ướm thử giày xưa. Vì đây là bài thơ viết về giày mà anh bạn tôi đặt hàng viết cho cô hoa hậu trong chuyến đi phỏng vấn mà tôi không sao viết nổi. Bạn thử đọc bài thơ này của Duệ Mai :
Dừng chân, Ướm thử giày xưa Gót qua dâu bể Còn vừa nữa đâu
Ngỡ như mới giập bã trầu Mà thời gian đã nhuốm màu bạc vôi! Dấu son trải dọc đường đời Chỉ mình mình biết sạn rơi kẽ nào
Tháo ra, dốc hết lao xao Lót thêm lành lặn, trả vào khôi nguyên. Giày xưa Da hãy còn mềm Chân nay Chai đã cứng thêm mấy phần!
Thở dài, đóng lại tần ngần Lạc giày, lạc cả bước chân… Thôi đành!
Bài thơ thật gọn gàng xinh xắn , câu chữ giản dị , nhưng thật ám ảnh và ma mị. Bàn chân khi đã đến tuổi trưởng thành mấy khi thay đổi. Bao năm tôi vẫn đi cỡ giày 41. Nàng hoa hậu vẫn đi giày cỡ 36 đấy thôi. Thế mà Duệ Mai ướm lại giày xưa thì không vừa “ Gót qua dâu bể/ Còn vừa nữa đâu …” Chỉ thi nhân mới nói được câu này. Không vừa giày, vì trải qua dâu bể , bàn chân đã mòn đi. Cuộc đời con người là cõi tạm trần gian. Thời gian như làn mây bay qua đầu, như nước chảy qua cầu. Mỗi bàn chân gắn với một đôi giày và một số phận. Khổ đau, hạnh phúc mỗi mình ta biết. Đôi giày như người tri âm, tri kỷ biết sẻ chia , biết sạn rơi kẽ chân nào . Một khoảng thời gian, một chặng đường của một con người thường gắn bó một đôi giày. Cất giữ giày cũ là cất giữ quá khứ. Ướm thử giày cũ là để trở về với quá khứ. Và chẳng ai sống mãi với quá khứ. Rồi đành lòng gói lại quá khứ để bước tiếp với đôi giày mới và bước chân mới. Bài thơ đã chọn được một thi tứ độc đáo. Mượn giày để nói về nhân tình thế thái, nỗi buồn vui cuộc đời người. …….Tôi đã hơi dông dài. Nhưng thật thiếu sót khi bỏ qua nghệ thuật con chữ của bài thơ này. Về hình thơ chẳng có gì mới , là thể lục bát ngắt câu mà nhiều nhà thơ hiện nay hay dùng . Nhưng sự gieo con chữ trong bài thơ Ướm thử giày xưa của Duệ Mai thì rất tài hoa . Ngôn từ rất gợi và rất ẩn dụ, nói ít hiểu nhiều: gót qua dâu bể, dấu son trải dọc đường đời, dốc hết lao xao, lót thêm lành lặn, trả vào khôi nguyên, đóng lại tần ngần, lạc giày, lạc cả bước chân. Nói về thời gian Duệ Mai cũng có cách nói rất mới , rất khác người. Chị ví thời gian đời người con gái như người nhai miếng trầu, mới đầu là đỏ thắm, là nồng say, cuối cùng là xác bã trắng, nhạt thếch : Ngỡ như mới giập bã trầu / Mà thời gian đã nhuốm màu bạc vôi!. Bài thơ là toàn bích. Nhưng chữ thôi đành kết thúc bài thơ sao an phận quá. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại cũng chẳng biết dùng chữ nào khác. Nó cũng như câu chào tạm biệt hẹn gặp lại mà mọi cuộc chia tay đều có. ……..Đến bây giờ tôi vẫn chưa biết Duệ Mai là ai, là nhà thơ chuyên nghiệp hay là người viết để giải toả lòng mình. Nàng có đẹp như thơ của nàng không? Nếu nàng còn trẻ và đi thi hoa hậu, nếu phần thi vấn đáp là câu hỏi : Bạn nghĩ gì khi đi lại đôi giày cũ của mình? Với ý thơ này tôi chắc nàng sẽ được điểm cao nhất phần thi vấn đáp. Nhưng ngôi hoa hậu, á hậu 1, á hậu 2 chẳng thuộc về nàng…
ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY Hoàng Kim
Đọc “Em tôi” của Lê Thuận Nghĩa “Bao người miếng ngập giữa làng. Hạt mè hột đậu em rang đợi người. Trúc xinh đình rộng phỡn phơi. Em tôi lặng chín cả thời xưa nay.”, tôi nhớ Hoàng Ngọc Dộ khát vọng “Hôm nay anh được chén cơm ngon. Cửa miệng anh ăn nuốt chả trơn. Bởi lẽ ngày dài em lam lũ. Mà sao chỉ được bữa cơm tròn.“
EM TÔI Thuận Nghĩa
Bao người cũ đã mới rồi Chỉ còn em vẫn kín thời ngày xưa Đèo heo mấy bận mút mùa Mờ môi hút gió nhặt thưa nụ cười
Bao người đã bỏ cuộc chơi Riêng em nhặt nắng cuối trời ra hong… Bò hóc mắm ủ lòng tong Để cho bò tó ấm cùng hốc hang
Bao người miếng ngập giữa làng Hạt mè hột đậu em rang đợi người Trúc xinh đình rộng phỡn phơi Em tôi lặng chín cả thời xưa nay
Không lời gửi cuối đuôi mày Mà nghe đến tận ngất ngây mùa màng Không lời yểm dụ kim thang Em tôi bí rợ tập tàng hồn Quê
Em tôi Cõi mộng Tôi về…..
EM NÀO CÓ HỮNG HỜ Mai Khoa Thu Hà Nội
Em nào có hững hờ Lá vẫn xanh màu diệp lục Nắng vẫn trong vàng hong sắc nắng Tơ trời dệt mấy vần thơ …
Anh đi đâu, gác bếp buồn râu ngô Phất phơ nhện giăng trần bám bụi Gió đi hoang lạc lối Mạng nhện trói buộc tả tơi
Nỗi nhớ tháng năm, xa vợi tháng mười Thóc chín oằn vai mùa gặt Em lo cho bồ đầy thóc Tháng mười nếp mới cơm thơm
Em ở bên anh mấy nỗi dặm trường Mà ngơ ngẩn tìm đâu hoài viễn vọng Xuân qua, hè tới, thu sang, đông bãng lãng Mình đây, sao chưa nhìn thấy nhau.
ĐÔI LỜI VỚI SÔNG ĐỒNG NAI Nguyễn Hoài Nhơn
Nói gì với sông Đồng Nai Mà lòng thắc thỏm giữa hai đợt triều Nói gì cho thỏa thương yêu Để cù lao Phố mỗi chiều đứng trông
Vắng em, tôi nhớ tôi mong Lục bình pha mực giữa dòng lơ mơ Ngày tôi chưa biết làm thơ Tóc em đã bím chấm bờ vai thon
Biên Hòa hương bưởi ngát thơm Níu chân tôi ở cuối vườn sớm mai Bồn chồn con sóng Đồng Nai Vỗ vào giấc ngủ tôi hòai chưa tan
Vệt phù sa cháy nồng nàn Hay là ruột đất bazan đượm màu Trái cây chín đỏ cù lao Đợi người về hái mời nhau thực lòng
Gặp em ở cuối dòng sông Câu thơ tôi hóa cánh đồng vàng mơ Thương nhau tháng đợi năm chờ Câu thơ kết mật bây giờ…vấn vương
Nói gì cho thỏa yêu thương Mắt em in dáng quê hương đậm đà Đồng Nai ơi – mãi thiết tha Tôi xin làm hạt phù sa dâng người.
UỐNG RƯỢU Ở QUÁN HÀM HANH Trần Quang Đạo
Nằm mơ cũng không có được mà chiều nay tôi đang ở Hàm Hanh nâng chén rượu nghĩ về người xưa cũ hồn đã lâng châng mây trắng mơ màng.
Như mới đây thôi Lỗ Tấn vừa đi một hình tượng lóe lên Người về bắt giữ những con chữ nối nhau như bước chân Khổng Ất Kỷ đi vào trí tưởng của triệu triệu con người.
Như mới đây thôi Khổng Ất Kỷ vừa ngồi những hạt đỗ xanh còn vãi vương trên đất chiếc mũ ông để quên ai đó treo lên vách ông sẽ trở lại thôi và tôi đã ngồi chờ.
Men rượu thơm lan tỏa tận hồng cầu người xưa ơi cho tôi cúi đầu xin chạm chén những anh tài mỹ nhân vạn thuở đầy chinh chiến Hàm Hanh rượu ngon chỉ lối hẹn hò.
Thi Thánh của Trung Hoa. Đại Vũ vị vua tài Tây Thi thôn Trữ La bên suối ngồi giặt lụa… ôi Thiệu Hưng tôi không còn mơ nữa và Hàm Hanh có thực với tôi rồi.
Say ở Hàm Hanh là lãi với cuộc đời Hồng Nữ Nhi thơm vào chiều mê đắm nâng chén rượu, ô kìa đêm xuống! trăng như mắt người xưa sóng sánh cốc thơm lừng…
Hàm Hanh (Triết Giang, Trung Quốc) Thu 1998
GỬI MẸ Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật
Nếu trên đời không có mẹ sẽ không có những người trước con sau con & con người ấy là thầy là cha là bạn nhánh cây trên một thân chiếc đèn lồng vô tận
không ai ngắm mẹ với đôi mắt trống rỗng hoài nghi sáng nay hôm qua ngày mai sao mẹ chưa tới con ngước lên sóng mây cuốn trùng trùng thắt từng cơn nóng hổi
mưa đập ngoài cửa đổ trắng mái tóc con ngọn thác vô hình đôi lúc thấy mẹ bồng em bé có phải con không hai ngón tay xinh xinh néo vào nhau lặng thinh
con ghi bức ảnh rồi ôm mặt mẹ cười đẫm hai hàng nước mắt tự con mách bảo mình ước mong chắc chắn sẽ thành thượng đế cũng hiện thực thiên thần chính là đây đức thánh mẫu cũng là đây những phàm tục không bao giờ gặp mẹ.
ÔI MẸ TA – BỨC TRANH THÁNH MẪU TRONG BÀI THƠ “GỬI MẸ” CỦA HOÀNG VŨ THUẬT Lê Quang Vinh và ba lời bình
Đã từ lâu, tôi muốn ghi lại những gì mình nghĩ về mẹ mà bất lực. Bởi bản thân chưa tròn… “vai con” trong đời thật lẫn trong văn chương!
Đọc bài thơ của nhà thơ lão thành Hoàng Vũ Thuật, cái hay nhất là bài thơ như của một cậu bé đang rất bé bỏng, chưa nhuốn chút gì bụi đời – chỉ có thể là tuổi thần tiên, trong trắng nhất, nghĩ và viết về mẹ của mình. Ở tuổi này, trí não đứa bé đó thực sự thánh thiện, nghĩ và làm thơ về mẹ (tình thâm mẫu tử), thì có thứ văn chương nào hơn và ai sẽ viết hay hơn?!
Thế nên đây là bài thơ đích thực của chính lòng tôi, mọi người; thành kính dâng lên mẹ mình – các Bà Tiên nay đã bay sang cõi khác…
Tôi nghĩ đó là thành công lớn nhất tác phẩm mới toanh này của “Ông Hoàng” xứ Bọ…
Hà Nội, 5 giờ 35’ sáng 9/11/2021 (Vừa đi đón đứa cháu ở bến ô tô Trần Khát Chân về nhà. Nó mang một chục chiếc bánh xèo, môộng trộn vừng và lá keéc thái nhỏ, từ Ba Đồn ra cho) LQV.•
Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật: “Lê Quang Vinh: Cám ơn anh đã hiểu tường tận bài thơ. Tôi có nhiều bài viết về mẹ thật. Nhưng tôi đau đáu với bài này. Một hình tượng mẹ hư thực, để ai cũng thấy mình trong đó vậy.”!•
Từ Sâm: “Mỗi lần nhìn mẹ hiền như đức mẹ đồng trinh nhìn ta yêu mến. Hình ảnh mẹ là hình ảnh đẹp nhất của cuộc đời không ai thế được. Bài thơ là giấc mơ hạnh phúc, khi chỉ còn quãng đường ngắn lại khi ta gặp mẹ, niềm vui và nỗi đau cõi trần ngày một dài ra. TS yêu bài thơ này lắm”.•
Tràn Khánh: “Thượng đế cũng hiện thực… Thiên thần chính là đây, đức thánh mẫu chính là đây. Những phàm tục không bao giờ gặp Mẹ”. Cảm ơn Anh đã có những vần thơ về Mẹ thật tuyệt vời. Chỉ có thơ Anh nói về Mẹ, Em yêu thích bài thơ này quá.”
Quê em thăm thẳm Tháp Chàm Biển xanh cát đá và rừng hoang sơ Hoa trên cát, núi Phổ Đà Tháp Bà Chúa Ngọc dẫu xa mà gần.
Ta đi về chốn trong ngần Để thương cát đá cũng cần có nhau Dấu xưa mưa gió dãi dầu Đồng Xuân nắng ấm nhuốm màu thời gian.
Đỉnh mây gặp buổi thanh nhàn Dịch cân kinh luyện giữa vùng non xanh Cát vàng, biển biếc, nắng thanh Bình Minh An Đức Hoàng Thành Trúc Lâm.
GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG Hoàng Kim
nhắm mắt lại đi em để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc trời thanh thản xanh đêm nồng nàn thở ta có nhau trong cuộc đời này nghe hương tinh khôi đọng mật quyến rũ em và khát khao anh mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ một tiếng chuông ngân thon thả đầu ghềnh
nhắm mắt lại đi em hạnh phúc đâu chỉ là đích đến hạnh phúc là con đường trãi nghiệm vỗ về, chờ đợi, nhớ thương
nhắm mắt lại đi em trong giấc mơ của anh có em và rừng thiêng cổ tích có suối nước trong veo như ngọc có vườn trúc và ngôi nhà tranh có một đàn trẻ thơ tung tăng heo gà chó mèo ngựa trâu nhởn nhơ trên đồng cỏ tươi xanh
nhắm mắt lại đi em, tận hưởng thú an lành.
Nhắm mắt lại đi em Giấc ngủ ngoan giấc mơ hạnh phúc Em mãi bên anh, Đồng hành với anh Bài ca yêu thương Bài ca hạnh phúc Giấc mơ lành yêu thương
Nhắm mắt lại đi em Giấc mơ cuộc đời giấc mơ hạnh phúc ngôi nhà tâm thức Giấc mơ lành yêu thương Có cánh cửa khép hờ Có bãi cỏ xanh non. Đất nước cây và hoa Một khu vườn tĩnh lặng. Chim sóc chó mèo gà luôn quấn quýt sớm hôm. Ban mai ửng nghe chim trời gọi cửa. Hoàng hôn buông trăng gió nhẹ lay màn. Ta về với ruộng đồng Vui giấc mơ hạnh phúc Vui một giấc mơ con Hoa LúaHoa NgườiHoa Đất Giấc mơ lành yêu thương.
VUI ĐI DƯỚIMẶT TRỜI Hoàng Kim
(1) Vui đi dưới mặt trời Nắng dát vàng trên đồng xuân Mưa ướt vệt bóng mây, tím sắc trời cuối hạ Đất ước, cây trông, lòng nhớ …
Em trốn tìm đâu trong giấc mơ tâm tưởng Ngôi nhà con hạnh phúc trăm năm Bếp lửa ngọn đèn khuya Vận mệnh cuộc đời cố gắng
Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm Đồng lòng đất cảm trời thương Phúc hậu minh triết tận tâm Cố gắng làm người có ích
Tháng năm tròn đầy vườn thiêng cổ tích Mừng ban mai mỗi ngày tỉnh thức bình an Chào ngày mới CNM365 Tình yêu cuộc sống Thảnh thơi vui cõi phúc được thanh nhàn.
(2)
Hãy lên đường đi em Ban mai vừa mới rạng Vui đi dưới mặt trời Một niềm tin thắp lửa
Ta như ong làm mật Cuộc đời đầy hương hoa Thời an nhiên vẫy gọi Vui đời khỏe cho ta.
TRƯỜNG TÔI NÔI YÊU THƯƠNG Hoàng Kim
Đại học Nông Lâm thật thích Bạn thầy vui thật là vui Sân Trường giảng đường ấm áp Đường xuân phơi phới tuyệt vời
Hình như mọi người trẻ lại Hình như người ấy đẹp hơn Hình như tre già măng mọc Nắng mai soi giữa tâm hồn.
Thầy bạn trong ngoài thiện nguyện Về Trường chia sẻ động viên Trang sách trang đời lắng đọng Yêu thương bao cuộc đời hiền.
Thầy ơi hôm nay chưa gặp Lời thương mong ước bình an Tình khúc Nông Lâm ngày mới Sức xuân Tự nguyện Lên đàng.
“Cà phê ở Huế thơm ngon lắm. Mười bốn ngàn thôi uống suốt ngày. Ngắm em tóc gió bay bay nắng. Nghe bạn tâm tình hơn rượu say” (PC) “Về quê lần trước ghé thăm đây. Đất hiếu cầu thương níu bạn bầy. Thơ thiền Nhất Hạnh tìm nơi cũ. Mặt trời từng hạt chính nơi này” (HK). Em Ra Huế thăm vị chân chúa Nguyễn Hoàng ở lăng Trường Cơ, tọa lạc tại xã La Khê, huyện Hương Trà, nay là làng La Khê, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; thăm Thiên Thụ Sơn vùng cây trên 2000 ha mà triều Nguyễn dày công mang kỳ hoa dị thảo cả nước có nguồn cây trái chính yếu đặc sản đất phương Nam về trồng ở chốn kinh kỳ để lưu dấu những hoài niệm bôn tẩu trọn đời quy giang sơn về một mối. Lạ lùng thay, khi được may mắn uống trà ban mai tĩnh lặng ở Từ Hiếu với bạn hiền lại được lắng nghe cổ vật và các trang sách uyên áo của các vị thiền sư trò chuyện. Tâm chợt ngộ ra rằng vị chân chúa nhà Nguyễn chưa hẵn đã ở Trường Cơ mà có thể ẩn khuất ở chính nơi đây, gần Nam Giao và phía sau của chính điện Từ Hiếu, cội nguồn của hiếu sinh
TRÀ SỚM THƯƠNG NGƯỜI HIỀN Hoàng Kim Ngày mới Ban mai chợt tỉnh thức Nghe đầy tiếng chim kêu Đêm qua mây mưa thế Hoa mai rụng ít nhiều. Trà sớm thương người hiền, trong không gian tỉnh lặng, ăn sáng và chuyện vui, lắng nghe đời thật chậm. Ai học làm và dạy. Ai vô sự là tiên Ai an nhàn thanh thản Ai thân với bạn hiền. Văn chương là cõi mộng. Giấc mơ lành trăm năm. Phúc hậu là lẽ sống. Thơ ra ngoài ngàn năm, Chuyện Tình yêu cuộc sống, Ông Nguyễn và bác Văn. Cụ Trình và Trần lão, Gần gũi mà xa xăm. Tính sáng hơn châu báu. Trở về với chính mình. Trà thơm chào ngày mới. Vui khỏe và bình yên… Hieu Nguyenminh, Trần Văn Minh, Trần Thị Lệ, Hoàng Kim, trà sớm ở cố đô Huế, trò chuyện về cụ Miên Thẩm
Cảm ơn Nguyen Thanh Binh thầm lặng mà hiệu quả đóng góp cho quê hương. Trà sớm với bạn hiền cùng Nguyen Thanh Binh (Roots of Peace) cũng lại là thật đáng nhớ. Ba giờ khuya, Bình ra bến tàu đón tôi, trà sớm là với nông dân. Quảng Trị dân ra đồng sớm (chứ không phải 8:00 sáng theo lịch làm việc hành chính). Nguyen Thanh Binh thân với tôi cũng như nhóm bạn nhà nông ở Phú Yên, Sóc Trăng, Đăk Lăk, Đồng Nai, Tây Ninh, … Những buổi học trên đồng giữa khoa học, khuyến nông và nông dân luôn thiết thực với cuộc sống mỗi ngày của người dân và thực sự là chén cơm của họ.
Đừng để lạc mất nhau em nhé.
Ta thương nhau thăm thẳm tháng năm dài.
Khi thoáng chốc trăm năm nhìn trở lại.
Suốt trọn đời tay nắm chặt bàn tay.
Anh ước mong em đến đây
Giữa hoa lá cỏ cây
Của mùa Xuân ngập nắng
Trời hóa xanh trong
Sau cơn mưa chiều bất ngờ rơi nặng
Gió mang hương đồng tha thiết tặng em.
Đừng hỏi anh sao mãi ước mong thêm
Dù mình đã trao những lời hạnh phúc
Biết bao yêu thương,
giận hờn, cơ cực
Dẫu trao nhận hoài
cũng chẳng đủ cho nhau.
Trong cái nắng chiều,
Dòng người đang đi vội vã
Sao anh nhớ em đến vậy!
Ước được nắm tay em
Mặc dòng người xô đẩy,
Vượt qua phố đông
ngã năm, ngả bảy…
Đi đến tận cùng
Hạnh phúc tình yêu.
Là điều anh ước mơ bấy lâu
(Và chắc em cũng vậy).
Đừng cười anh, em nhé!
Ước mơ của anh nhỏ nhoi, bình dị.
Mong cho những lứa đôi như mình
Mãi mãi yêu thương!
Nắm chặt tay anh đi em!
Bằng lòng theo anh
Cho dẫu cuộc đời
Nhiều khi xô ta ngã
Anh nguyện suốt đời
làm chỗ dựa của đời em
Em mãi là ngôi nhà
hạnh phúc bình yên!
Giữ chặt tay anh đi em!
Bởi khi mình đã trong nhau
Thì vất vả đọa đầy
cũng không chia cắt nổi
Mình đã tri kỷ với nhau rồi
Thì chẳng thể nào
Vuột khỏi đời nhau.